trang nhà l trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử l trang thơ l h́nh ảnh l bài vở  
                                                  

                                   Đậu Nành

                                Bác sĩ  Nguyễn Ư ĐỨC

      Trong mươi năm gần đây, dân chúng ở các quốc gia Âu Mỹ bắt đầu tiêu thụ một số lượng rất lớn các phó sản của đậu nành. Họ đă được các nhà nghiên cứu khoa học thông báo nhiều ích lợi về dinh dưỡng cũng như trị liệu của loại thảo mộc này. Đă có ít nhất là ba cuộc hội thảo quốc tế về vai tṛ của đậu nành trong việc pḥng ngừa và trị các bệnh kinh niên. Truyền thông báo chí cũng đăng tải nhiều nghiên cứu về công dụng của đậu nành. Và Cơ Quan Dược Phẩm và Thực Phẩm Hoa Kỳ đă chấp thuận cho các nhà chế biến được giới thiệu là các sản phẩm này có giá trị trong việc làm giảm nguy cơ gây ra bệnh tim mạch và duy tŕ sức khỏe con người. Đây là một việc làm hiếm có v́ cơ quan trên thường rất dè dặt trong các công nhận tương tự nhất là chỉ căn cứ vào kinh nghiệm, quan sát. Thực ra đậu nành, mà ta c̣n gọi là đỗ tương, đă được các quốc gia Á Châu, trong đó có Việt Nam dùng làm thực phẩm và thuốc từ nhiều ngàn năm về trước. Đậu nành xuất phát từ Trung Hoa rồi lan ra các quốc gia khác ở Á Châu. Tây phương chỉ mới biết tới đậu nành từ thế kỷ thứ 18. Nhưng hiện nay các quốc gia dọc theo sông Mississipi có sản lượng rất cao về đậu nành trên thế giới. Bên Hoa Kỳ, phần lớn đậu nành được dùng để nuôi súc vật và chỉ có khoảng 26 triệu người dùng làm thực phẩm, trong khi đó ở Á Châu nó là nguồn dinh dưỡng quan trọng.

           Thành phần hóa học

       Hạt đậu nành chứa 8% nước, 5% chất vô cơ, 15- 25% glucose, 15-20% chất béo, 35- 45% chất protein với đủ các loại amino acid cần thiết; các loại sinh tố khoáng chất. So với thịt động vật, đậu nành có nhiều chất dinh dưỡng hơn: 100 gr đậu nành có 411 calo, 34 gr protein, 18 gr béo,165mg calcium, 11mg sắt; trong khi đó thịt ḅ loại ngon chỉ có 165 calo, 21gr protein, 9gr béo, 10mg calcium, 2.7mg sắt. V́ có nhiều protein nên đâïu nành đă được coi như thịt không xương ở nhiều quốc gia Á Châu. Tại Nhật bản, Trung Hoa 60% protein tiêu thụ hàng ngày đều do đậu nành cung ấp. Protein này rất tốt để thay thế cho protein động vật v́ có ít mỡ và cholesterol. Nhưng quan trọng hơn cả là trong đậu nành có một hóa chất tương tự như kích thích tố nữ estrogen mà nhiều công tŕnh khoa học chứng minh là rất tốt trong việc trị và ngừa một số bệnh. Đó là chất isoflavones.

         Chất isoflavones

      Trong số các loại đậu, đậu nành là loại đặc biệt có hợp chất isoflavone mà công thức hóa học gần giống như kích thích tố nữ estrogen. V́ thế nó được mệnh danh là estrogen thảo mộc (phyto-estrogen) và được nghiên cứu về công dụng đối với cơ thể. Estrogen là kích thích tố tự nhiên được noăn sào tiết ra, rất cần thiết cho sự tăng trưởng của cơ quan sinh dục chính (tử cung, ống dẫn trứng) và sự nẩy nở của cơ quan sinh dục phụ như nhũ hoa, làm xương chậu có h́nh bầu dục rộng hơn để sanh đẻ dễ dàng. Ngoài ra estrogen c̣n cần để duy tŕ một sức khỏe tốt cho người nam cũng như nữ, cho sự tân tạo và tu bổ xương, cho hệ thống tim mạch,cho năo bộ. Khi tới tuổi măn kinh, người nữ mất đi một khối lượng rất lớn estrogen nên họ chịu đựng nhiều thay đổi. Estrogen thực vật không có giá trị dinh dưỡng, không là sinh tố hay khoáng chất. Nó có tác dụng tương tự như estrogen thiên nhiên nhưng yếu hơn, và có nhiều nhất trong đậu nành. Nó nằm ở phần dưới của tử diệp trong hạt đậu và gồm bốn cấu tạo hóa học là aglycones, daidzein,ghenistein và glycitein. Số lượng isoflavones nhiều ít tùy theo giốngđậu, điều kiện trồng trọt và mùa gặt hái. Nó được chuyển hóa trong ruột, lưu hành trong huyết tương và phếthải qua thận. Trung b́nh mỗi ngày ta cần 50mg isoflavones. Số lượng này thường thấy trong 30gr đậu nành rang, 1 ly sữa đậu nành,1/2 miếng đậu phụ, 1/2ly bột đậu. Hot dogs, burger, cheese, yogurts làm bằng đậu nành cũng có một số lượng nhỏ isoflavones c̣n dầu đậu nành th́ hầu như không có. Trong việc nấu nướng thường lệ, isoflavones không bị tiêu hủy v́ nó khá bền vững. Giá trị trị liệu của Isoflavones đậu nành được biết tới là do kết quả của quan sát. Từ những năm của thập niên 1920, người ta đă nghi ngờ là thảo mộc có một hóa chất có tác dụng giống như kích thích tố nữ. Năm 1940, các mục đồng bên Uùc Châu nhận thấy khi ăn loại cỏ ba lá clover , cừu cái giảm khả năng sinh sản và có dấu hiệu của quá nhiều estrogen trong cơ thể. Mấy chục năm sau, nhiều nghiên cứu kế tiếp thấy rằng một số thảo mộc khác cũng có hóa chất tương tự như estrogen. Các nhà y học nhận thấy tỷ lệ người mắc bệnh ung thư nhũ hoa, nhiếp tuyến, tử cung, các bệnh tim thường thấp ở phần lớn các quốc gia Âu Châu ăn nhiều đậu nành. Ngay cả phụ nữ da trắng, tỷ lệ này cũng thấp nếu họ ăn nhiều đậu nành. Vai tṛ của isoflavones đậu nành được nhắc nhở tới và nhiều nghiên cứu đă được tập trung vào nhất là trong lănh vực ung thư, bệnh tim, bệnh loăng xương, rối loạn kinh nguyệt.

          Đậu nành và bệnh tim-mạch

       Ngay từ đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học Nga Sô đă nhận thấy rằng chất đạm của đậu nành làm hạ thấp cholesterol ở súc vật. Rồi gần năm mươi năm sau, những kết quả tương tự cũng thấy ở loài người. Cholesterol cao trong máu là nguy cơ gây ra bệnh tim mạch. Lames W. Anderson, một chuyên gia về bệnh nội tiết và dinh dưỡng, thấy rằng một chế độ dinh dưỡng có nhiều đậu nành sẽ làm cholesterol giảm đi 12%, LDL giảm 13%, HDL không thay đổi mấy. Theo ông ta, chỉ cần ăn độ 30gr đậu nành mỗi ngày là có kết quả trên. Sở dĩ được như vậy là do các tác dụng của các chất amino acid trong đậu nành, đặc biệt hai chất glycine và arginine. Ngoài ra, isoflavones cũng tác dụng như một chất chống oxy hóa (antioxidant) ngăn chặn không để các các gốc tự do ( free radical ) tấn công LDL và làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch. Một nghiên cứu khác cho là đậu nành làm hạ cholesterol bằng cách làm tăng sự phế thải và làm giảm sự hấp thụ chất béo này. So sánh chế độ dinh dưỡng và bệnh tim mạch ở Mỹ và Nhật Bản cho thấy có sự khác biệt trong tỷ lệ người bệnh và số tử vong. Số người chết v́ bệnh này ở Nhật thấp hơn tới sáu lần ở Mỹ. Người Nhật sống ở Hawaii bị nhồi máu cơ tim cao hơn người Nhật sống ở Mỹ và thấp hơn người Nhâït sống trên đất Phù Tang. Điều đó chứng tỏ ngoài nguyên nhân di truyền, bệnh tim c̣n chịu ảnh hưởng của môi trướng với chế độ ăn uống và nếp sống. Người Nhật sống tại quê hương tiêu thụ rất nhiều protein do đậu nành cung cấp.

               Đậu nành và ung thư.

         Ung thư là mối đe dọa lớn của nhân loại mà nguyên nhân vẫn chưa được hoàn toàn sáng tỏ. Chế độ dinh dưỡng cũng có dự phần và đậu nành được nhiều nghiên cứu cho là có khả năng làm giảm nguy cơ gây vài loạiung thư có liên hệ tới kích thích tố như ung thư vú, tử cung, nhiếp tuyến. Trong bệnh ung thư, tế bào bất thường tăng trưởng và sanh đẻ vô tội vạ, xâm lấn, tiêu hủy tế bào lành rồi cùng nhau lan ra khắp cơ thể. Các tế bào này xuất hiện dưới tác dụng của những tác nhân gây ung thư mà thực phẩm là một trong những nguồn cung cấp. Chất nitrites trong chế biến thịt, aflatoxin trong đậu phọng, vài hóa chất trong thuốc trừ sâu bọ, mỡ béo, saccharin, chất cà phê. Nhưng thực phẩm cũng chứa nhiều chất chống ung thư mà đậu nành nằm trong nhóm này.Đó là nhờ estrogen thực vật, choán chỗ không cho estrogen thường trong máu bám vào các tế bào của nhũ hoa, tử cung để gây ung thư.

          Đậu nành và bệnh thận

       Trái thận tốt rất cần thiết để làm ít nhất một số nhiệm vụ phế thải: phế thải chất bă do chuyển hóa của protein, phế thải nước, sinh tố, khoáng chất dư trong cơ thể, phế thải độc chất trong thực phẩm. Người mắc bệnh thận, các chức năng trên suy yếu. Tiết giảm protein ăn vào là một phương thức trị liệu để bớt nặng nhọc cho thận. Nhưng khi protein động vật đươc thay thế bằng protein thực vật như đậu nành th́ số lượng protein trong nước tiểu giảm, chứng tỏ thận bớt phải làm việc quá sức. Protein đậu nành cũng làm giảm nguy cơ bệnh sạn thận bằng cách không để calcium thất thoát qua nước tiểu. Isoflavones đậu nành c̣n làm bout cảm giác nóng bừng mặt trong thời kỳ măn kinh của nữ giới, làm tăng tính miễn dịch, làm giảm các triệu chứng của tiểu đường, bớt sạn túi mật.

           Những thức ăn đậu nành

      Ngày nay nhiều người đă ư thức rằng đậu nành có tỷ lệ chất đạm rất cao, có nhiều sinh tố, khoáng chất, chất xơ và isoflavones hữu ích. Protein của đâïu nành không những có giá trị dinh dưỡng như protein động vật, mà lại dễ tiêu hơn, ít chất béo băo ḥa có hại. Họ đă ăn các món ăn chế biến từ đậu này. Để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu dân chúng, nhiều món ăn có căn bản đậu nành đă được bầy bán. Kỹ nghệ chế biến thực phẩm này hiện rất bành trướng và phát triển . Ngoài các món cổ điển như sữa đậu nành, đậu phụ để trong bao ta c̣n thấy bacon đậu nành, hot dogs đậu nành, tofu cheese, yogurt đậu nành, veggie burger, hoặc giả thịt gà, thị ḅ bằng đậu nành. Vào các tiệm ăn Á Đông khách c̣n có thể ăn những món như Tempêh, Miso, Natto, Endamane... Với người Việt chúng ta th́ các món ăn từ đậu nành kể ra sợ không bao giờ hết. Có người nói là ta có đến ba trăm loại thức ăn chế từ đậu nành. Chỉ với những miếng đậu phụ, chúng ta đă có những món ăn chay hấp dẫn như đậu hũ cuốn bắp, đậu hũ hấp chao, đậu hũ kho gừng, đậu hũ hấp, đậu hũ nướng chao, đậu hũ kho trần b́, đậu hũ chiên sả, chưng chiên, nấu củ năng, nấu chao. Quư vị muốn ăn mặn th́ ta có đậu hũ xào giá thịt, nhồi thịt rán, kho thịt, hấp trứng, hấp thịt; canh đậu hũ thịt cà chua. Nhậu lai rai ta làm vài b́a đậu phụ luộc chấm mắm tôm chanh, gỏi đậu phụ với hoa chuối thái mỏng, muối vừng kèm thêm th́a mắm tôm loăng. Ta cũng không quên món tương. Vâng “anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”. Tương được làm ở mọi nơi trên quê hương nhưng nếu lại là tương từ làng Bần th́ hết chỗ nói. Tương là moat thứ nước chấm làm từ đậu nành, nếp, muối, ủ theo quy cách nhất định. Đây là món ăn do tác dụng của vi sinh vật, rất giầu đạm chất thực vật nên vừa bổ vừa dễ tiêu. C̣n Bần là làng Bần Yên Nhân, thuộc huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, cách thủ đô Hà Nội khoảng 12 cây số. Dân làng Bần cótruyền thống nhiều đời làm tương vào tháng năm tháng sáu khi có nắng, rất cần để phơi tương cho mau lean men và ủ cho khỏi mốc. Qua một thủ tục chế biến phức tạp nhưng quen rồi, khoảng ba tháng sau là họ đă có những hũ tương ngon tuyệt cú mèo để bán cho khách hàng tứ xứ. Tương là món ăn quá thông dụng với dân tộc ta, từ vua chúa, trưởng giả tới thứ dân qua nhiều ngàn năm lịch sử. Mỗi gia đ́nh thường làm hoặc mua một hũ tương để dùng quanh năm. Không cầu kỳ, ta chỉ việc dùng tương như món chấm: rau muống chấm tương, đậu phụ rán chấm tương, bánh đúc chấm tương, bê thui chấm tương gừng, nem nướng chấm tương. Nấu nướng lách cách ta có cá kho tương cà, tương hột kho nước dừa, tương xí muội... Hoặc giản dị như những bác thợ cầy, cô thợ cấy, ta chỉ cần bát cơm nóng rưới vài th́a tương là đă xong một bữa ăn có đủ dưỡng chất. Sang hơn nữa là bữa cơm với ít ngọn rau muống luộc xanh rờn trong lửa to, mấy miếng đậu rán vàng, vài quả cà dầm tương đỏ, gịn , thơm và ngọt. Ôi một phần quê hương ta đấy! Gói ghém trong những món ăn giản dị nhưng mà giầu dân tộc tính. Các vị lang y ta cũng đă dùng chế biến từ đậu nành làm thức ăn cho người bị bệnh thấp khớp, bệnh gout, người mới ốm cần b́nh phục, người làm việc lao động quá sức, làm sữa uống cho trẻ sơ sinh,. Kỹ nghệ Âu dược dùng amino acid từ đậu nành để chế biến kích thích tố progesterone.

         Với sự tăng gia dân số trên thế giới, con người đang lo ngại thiếu thực phẩm nhất là protein động vật và đang t́m cách chế biến thực phẩm từ hóa chất. Chắc họ cũng không quên” vua trong các loại đậu “ là đậu tương, đậu nành một thực vật dễ trồng lại có giá trị cao về protein và nhiều phần tử dinh dưỡng khác.

                                                                 Bác sĩ Nguyễn Ư-ĐỨC

    
trang nhà l trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử l trang thơ l h́nh ảnh l bài vở  
                                                      www.thongthienhoc.com