Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

TIẾT 48 - A DI ĐÀ PHẬT, QUAN THẾ ÂM VÀ QUAN ÂM. “THIỀN THƯ” VÀ NHỮNG TU VIỆN LẠT MA CỦA TSONG-KHA-PA DẠY ĐIỀU G̀

Tsong Kha Pa là một Hiện thân trực tiếp của A Di Đà Phật, Ư nghĩa của Từ ngữ A Di Đà .

Trích GLBT tập 5

TIẾT 48

A DI ĐÀ PHẬT; QUAN THẾ ÂM VÀ QUAN ÂM. -

“THIỀN THƯ” VÀ CÁC TU VIỆN LẠT MA CỦA TSONG-KHA-PA

DẠY ĐIỀU G̀

 

  Để bổ sung cho phần B́nh luận, có nhiều sách giấy gấp bí mật bàn về cuộc đời của chư Phật và chư Bồ Tát; trong số những sách này có một quyển bàn về Thái tử Tất Đạt Đa và một quyển khác bàn về kiếp luân hồi của Ngài mang tên là Tsong-Kha-pa. Nghe nói nhà Cải cách vĩ đại người Tây Tạng này vào thế kỷ thứ 14, chính là một hiện thân trực tiếp của A di đà Phật; Ngài sáng lập ra Trường mật giáo gần Tji-gad-je [Shigatze] gắn liền với nơi ẩn tu riêng của Ban thiền Lạt ma. Từ khi có Ngài mới bắt đầu có hệ thống chính qui các Lạt ma là hóa thân của chư Phật (Sang-gyas) tức là của Đức Thích Ca mâu ni. Tác giả của Phật giáo Trung quốc gọi Đức Phật A di đà Phật (Amita Buddha) là một nhân vật thần thoại. Ông nói về 

  Đức A di đà Phật là một nhân vật huyền hoặc mà các Phật tử Bắc tông chuyên cần thờ phụng - giống như Quan Âm - nhưng ở Thái Lan, Miến Điện và Tích Lan [[1]] th́ chẳng ai biết tới Ngài.

 

 Rất có thể như vậy. Thế nhưng A di đà Phật không phải là một nhân vật “huyền hoặc” v́ (a) “A di đà” (Amida) là Ādi dưới dạng tiếng Senzar, ta đă tŕnh bày rằng “Ādi Buddhi” và Ādi Buddha” [[2]] đă tồn tại từ biết bao lâu nay với vai tṛ là một thuật ngữ Bắc phạn để chỉ “Linh hồn Nguyên sơ” và “Minh triết”, và (b) hồng danh này được áp dụng cho Đức Phật Thích Ca mâu ni, (vị Phật cuối cùng ở Ấn Độ) từ thế kỷ thứ bảy khi Phật giáo được du nhập vào Tây Tạng. A di đà (tiếng Hán Việt dịch là Vô Lượng Thọ) có nghĩa đen là “Tuổi thọ vô hạn”, đồng nghĩa với “En” tức “Ain Soph”, “Đấng Thái cổ” và là một h́nh dung từ trực tiếp liên kết Ngài với Ādi Buddhi Vô lượng (Linh hồn Vũ trụ nguyên sơ) của người Ấn Độ, cũng như là với Anima Mundi của mọi quốc gia cổ xưa ở Âu châu, Đấng Vô lượng và Vô cực của các tín đồ kinh Kabalah. Nếu A di đà (Amitābha) là một sự hư cấu của người Tây Tạng, hoặc là một dạng mới của Vô Lượng Thọ, một “nhân vật ngụ ngôn huyền thoại” (theo lời soạn giả của Phật giáo Trung quốc nói với các độc giả), th́ “truyện ngụ ngôn huyền thoại” này ắt phải là rất xa xưa. Đó là v́ ở một trang khác, chính ông nói rằng việc thêm vào danh mục kinh sách bao gồm

 

các huyền thoại về Quan Âm (Kwan-yin) và Tây phương Cực lạc cùng với Đức Phật của quốc độ này là Đức A di đà (Amitābha), cũng đă xảy ra trước Công đồng Kashmere, chỉ một ít lâu trước khi bắt đầu Công nguyên [[3]].

Và ông xác định 

nguồn gốc của những kinh sách Phật giáo nguyên thủy (vốn được dùng chung cho các Phật tử Nam tông và Bắc tông) có trước năm 246 trước Công nguyên.

V́ người Tây Tạng chỉ chấp nhận Phật giáo vào thế kỷ thứ bảy sau Công nguyên, cho nên làm thế nào mà người ta lại tố cáo họ là chế ra Đức Phật A di đà? Ngoài ra, ở Tây Tạng, người ta gọi Đức A di đà Phật là Od-pag-med, điều này chứng tỏ rằng trước hết người ta chấp nhận ư tưởng trừu tượng chứ không phải là hồng danh của một Quyền năng Vô ngă, vô h́nh và không ai biết tới - hơn nữa được rút ra từ “Ādi-Buddhi” của Ấn Độ, chứ không phải từ Đức A di đà (Amitābha) [[4]]  của Trung quốc. Có một sự khác nhau lớn lao giữa Đấng Od-pag-med b́nh dân (A di đà) vốn đăng quang nơi Devachan (Sukhāvatī) theo kinh Mani-Kah-’bum - tác phẩm lịch sử xưa nhất ở Tây Tạng - và ư tưởng trừu tượng triết học tên là A di đà Phật, hồng danh này giờ đây được chuyển sang cho Đức Phật Thích Ca thế gian.

 


[[1]] Xem Phật giáo Trung quốc của Edkin, trang 171.

[[2]] “Buddhi” là một thuật ngữ Bắc phạn để chỉ “sự phân biện” tức trí năng (nguyên khí thứ sáu), c̣n “Buddha” là “minh triết” và cũng là Thủy tinh.

[[3]] Ta có thể thấy sự mâu thuẫn kỳ lạ trong Phật giáo Trung quốc, trang 171, 273. Tác giả đại đức đoan chắc với độc giả rằng “đối với các Phật tử triết gia . . . Đức A di đà (Yo-shī-Phật) và các Đấng khác chẳng qua chỉ là những dấu hiệu của ư tưởng” (trang 236). Quả thật vậy. Nhưng mọi hồng danh phong thần khác (chẳng hạn như Jehovah, Allah v.v. . . ) đều ắt là như thế, và nếu đó không chỉ là “dấu hiệu của các ư tưởng” th́ điều này ắt chỉ chứng tỏ rằng các tâm trí tiếp thu chúng theo cách khác không có “óc triết học”; điều này tuyệt nhiên không chứng tỏ rằng quả thật có những vị Thần linh sống động nhân h́nh mang những hồng danh này.

[[4]] Đức A di đà của Trung quốc (Vô Lượng Thọ) và  Đức A di đà của Tây Tạng (Od-pag-med) giờ đây đă trở thành các Thần linh nhân h́nh, chủ tŕ và sống nơi cơi trời Sukhāvatī tức Đâu xuất (tiếng Tây Tạng là Dachan). Trong khi đó, Adi-Buddhi của triết gia Ấn Độ, và  A di đà Phật của triết gia Trung quốc và Tây Tạng, đều là các hồng danh để chỉ các ư tưởng nguyên sơ đại đồng vũ trụ.


 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS