Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS


ÁI DỤC: NGUYÊN NHÂN CỦA SINH TỬ LUÂN HỒI

(TRISHNA: THE CAUSE OF REINCARNATION)

Bản dịch: Chơn Như

 

Trích Chương 22

Quyển THỂ NGUYÊN NHÂN VÀ CHƠN NGĂ

của A.E.Powell

Đến đây, ta đă thực tế hoàn tất việc nghiên cứu bản chất, chức năng, sự tăng trưởng và phát triển của thể nguyên nhân. Như vậy, sau khi đă nghiên cứu cái mà ta có thể gọi là khía cạnh h́nh tướng của Chơn ngă th́ bây giờ ta cần cố gắng hiểu thêm nữa về chính Chơn ngă trên cương vị là một thực thể hữu thức đang hoạt động.

Ở chương này, ta sẽ bắt đầu nghiên cứu Chơn ngă trong mối quan hệ với Phàm ngă, điều này thực tế chính là khía cạnh sinh tử luân hồi. Phần đầu tiên trong đề tài của ta ắt là Trishna: cái “sự khao khát” vốn là nguyên nhân bản sơ khiến cho Chơn ngă t́m cách sinh tử luân hồi. Trong chương kế tiếp, ta sẽ bàn chuyên biệt hơn tới khía cạnh h́nh tướng của luân hồi, nghĩa là cơ chế của nó.

Thế rồi ta sẽ bàn tới những khía cạnh khác trong thái độ của Chơn ngă đối với Phàm ngă. Sau đó ta sẽ chuyển sang sinh hoạt của Chơn ngă trên cơi của riêng ḿnh. Cuối cùng trong mức độ mà tài liệu cho phép, ta phải nghiên cứu mối quan hệ của Chơn ngă với Chơn thần.

Lư do bản sơ và cốt lơi của luân hồi chính là Ư chí Vũ trụ, nó ghi dấu ấn lên Chơn ngă, xuất hiện nơi Chơn ngă dưới dạng muốn biểu lộ. Tuân theo thiên ư, Chơn ngă sao chép lại hành động của Thượng Đế bằng cách tuôn đổ ḿnh xuống các cơi thấp.

Đặc biệt ḷng ham muốn này được gọi là Trishna trong tiếng Bắc phạn, tiếng Nam phạn là Tanha, đó là sự mù quáng khao khát muốn sinh hoạt biểu lộ, muốn t́m ra một cơi nào đó mà Chơn ngă: (1)- biểu hiện ra; (2)- tiếp nhận những ấn tượng và tác động bên ngoài mà chỉ những thứ này mới khiến cho nó có ư thức là đang sống; cảm thấy ḿnh đang sống.

Đây không phải là ḷng ham muốn theo kiểu b́nh thường của từ ngữ này, mà nói cho đúng hơn là một sự biểu lộ hoàn chỉnh hơn, muốn cảm thấy ḿnh sống động và hoạt động hoàn hảo hơn, muốn có cái tâm thức hoàn chỉnh bao gồm cả khả năng đáp ứng với mọi rung động khả hữu của môi trường xung quanh trên mọi cơi, sao cho Chơn ngă có thể đạt được sự toàn bích về sự đồng cảm, nghĩa là cảm thấy cùng với.

Sau này ta sẽ thấy rơ hơn Chơn ngă trên cơi của riêng ḿnh cũng c̣n lâu mới hoàn toàn hữu thức, ngoại trừ cái tâm thức cảm thấy ḿnh được vui sướng hơn và khơi dậy một loại háo hức thực chứng được nhiều hơn về cuộc sống. Thật vậy, chính cái sự háo hức này của Chơn ngă là cơ sở cho những lời đ̣i hỏi hô hào trên thế giới muốn có một sự sống sung măn hơn.

Đâu phải vui sướng nơi ngoại giới mới thúc đẩy con người trở lại luân hồi: y nhập thể v́ y muốn nhập thể. Nếu Chơn ngă không muốn tái sinh luân hồi th́ ắt nó không tái sinh, nhưng chừng nào nó c̣n ham muốn bất cứ điều ǵ mà thế gian có thể cung cấp cho nó được th́ nó ắt muốn tái sinh luân hồi. Như vậy, Chơn ngă không hề bị thôi thúc ngược lại với ư chí của ḿnh nhằm trở lại với cái thế giới rắc rối này, mà chính sự háo hức mănh liệt của nó về thế giới ấy mới khiến cho nó tái sinh luân hồi.

Ta có thể xét điều tương tự nơi thể xác. Khi thực phẩm đă được tiếp nhận và hoàn toàn đồng hóa hết th́ cơ thể lại muốn thêm thực phẩm nữa, nó lại đói. Chẳng ai bắt ép con người ăn: y đi kiếm thực phẩm và ăn, bởi v́ y muốn vậy. Cũng thế chừng nào con người c̣n bất toàn, chừng nào y c̣n chưa đồng hóa hết mọi thứ mà thế gian có thể cung ứng được và tận dụng hết những thứ ấy đến nỗi y chẳng c̣n muốn bất cứ thứ ǵ của thế gian này, th́ chừng đó y vẫn phải cứ tái sinh luân hồi.

Ta có thể quan niệm Trishna là một trong nhiều cách mà luật tuần hoàn của vũ trụ biểu lộ qua đó. Trong Triết lư Bí truyền, luật này được thừa nhận là mở rộng ra tới mức phân thân rồi tái hấp thu vũ trụ, tức Ngày và Đêm của Brahma, Đại Thần Khí thở ra rồi hít vào.

V́ thế cho nên người Ấn Độ đă h́nh dung Thần Dục Vọng là xung lực biểu lộ. Trong kinh Rig Phệ đà (X.129) “Kama . . . là nhân cách hóa của xúc cảm ấy, nó dẫn dắt và thôi thúc sự sáng tạo. Kama là sự Vận động bản sơ kích động ĐẤNG NHẤT NHƯ sau khi nó biểu lộ từ Nguyên lư thuần túy trừu tượng để rồi sáng tạo. Ham muốn trước hết nảy sinh trong đó v́ vốn là mầm mống ban đầu của cái trí, và những vị thánh hiền khi mưu t́m trí năng của ḿnh đă khám phá ra nó chính là cái xiềng xích nối liền Hữu với Phi Hữu. (Giáo Lư Bí Truyền, II, 185). Kama (tức Ham muốn) có bản thể là ḷng khao khát muốn tồn tại hoạt động đầy cảm tính, tồn tại với cảm giác sống động, với sự ba ch́m bảy nổi của cuộc sống đam mê.

Khi trí tuệ thiêng liêng bước vào tiếp xúc với ḷng khao khát cảm giác này th́ tác động đầu tiên của nó là tăng cường cảm giác ấy. Câu kinh trong Thiền Thư dạy rằng: “Họ lấp đầy (nghĩa là tăng cường) Kama bằng bản thể của chính ḿnh”. (như trên trang 170). Như vậy, Kama đối với cá nhân cũng như đối với Vũ trụ đều trở thành nguyên nhân bản sơ của sự luân hồi và khi ḷng Ham muốn biến dị thành những ham muốn lặt vặt th́ những thứ này xiềng xích Chủ thể tư duy vào trần thế, hết đời này sang đời khác đưa y trở lại tái sinh luân hồi. Kinh điển Ấn giáo và Phật giáo dĩ nhiên đầy dẫy lời phát biểu sự thật này.

Chừng nào chưa thực chứng được Barhma th́ chừng đó ắt phải có Ái dục (Trishna). Khi người ta đồng hóa được mọi thứ mà ḿnh thụ đắc và biến nó thành một phần của chính ḿnh th́ Ái dục nổi dậy, thúc đẩy y hướng ra ngoài để mưu t́m những kinh nghiệm mới.

Thoạt tiên đây là ḷng khao khát muốn có kinh nghiệm nơi ngoại giới và Trishna thường được dùng theo nghĩa này. Tuy nhiên có một sự khao khát sắc sảo hơn được diễn tả tuyệt vời qua cụm từ sau đây: “Linh hồn tôi đang khao khát Thượng Đế”, thật vậy đó là “Thượng Đế sống động”. Đây là ḷng khao khát của bộ phận mưu t́m tổng thể mà nó là một thành phần. Nếu chúng ta nghĩ rằng bộ phận xuất phát từ tổng thể mà chưa bao giờ mất đi mối liên lạc th́ luôn luôn có một lực co rút nào đó ra sức kéo nó trở lại. Tinh thần vốn thiêng liêng, cho nên không thể cảm thấy thỏa măn đời đời bên ngoài thiên tính: chính sự bất măn này, cái ḷng ham muốn t́m kiếm này mới là gốc rễ của Ái dục và đưa người ta ra khỏi Devachan, hoặc thật vậy, ra khỏi bất kỳ t́nh huống nào cho đến khi kết liễu sự t́m kiếm.

Con người hoàn toàn có thể đạt được một loại Moksha hạ đẳng nào đó: tạm thời giải thoát sinh tử luân hồi. Vậy là có một vài đạo sĩ Yoga chậm tiến ở Ấn Độ đă cố t́nh diệt dục mọi ḷng ham muốn của thế giới đặc thù này. V́ ngộ ra được rằng thế gian là phù du nên chẳng bơ công để tốn nhiều rắc rối công sức ở măi trong đó, nhất là khi lại có nhiều đau khổ hoặc thất vọng cho nên người ta đạt tới cái dạng không dính mắc mà thuật ngữ chuyên môn gọi là Vairagya: điều này không giúp ta Giải thoát hoàn toàn mà chỉ có kết quả là giúp ta giải thoát một phần.

Một trong những kinh Áo nghĩa thư có nêu rơ là con người sinh ra vào thế giới nào mà ham muốn dắt dẫn y tới đó. V́ thế cho nên sau khi đă diệt hết mọi ham muốn về bất cứ thứ ǵ thuộc thế gian này, con người bỏ xác mà không tái sinh lại nữa. Bấy giờ y chuyển sang một cơi không thường trụ, nhưng y có thể tồn tại lâu dài ở đó. Có một số thế giới như vậy rất thường liên quan tới tục thờ cúng một Thần linh đặc biệt liên quan đến các loại tham thiền đặc biệt v.v. . . Thế là người ta chuyển sang một trong các thế giới này ở đó trong một thời gian hoàn toàn bất định. Trong trường hợp những người đă hiến thân phần lớn cho việc tham thiền th́ ham muốn của họ hoàn toàn hướng về Đối tượng tham thiền: do đó họ ở lại trên cơi trí tuệ bất cứ nơi đâu mà ham muốn của ḿnh dắt dẫn đến.

Trong khi những người như thế đă rút ra khỏi những rắc rối của cuộc đời th́ rốt cuộc họ vẫn phải trở lại một thế giới hoặc là thế giới này nếu nó c̣n tiếp tục tồn tại, hoặc là một thế giới tương tự như nó, nơi đấy họ có thể tiếp tục tiến hóa ở mức mà trước kia đă tạm ngưng. V́ thế cho nên rắc rối cũng chỉ được tŕ hoăn, bởi vậy dường như chọn cái phương cách đi tới cơi vừa nêu xem ra cũng chẳng bơ công.

Thay v́ “diệt” dục th́ các bậc huấn sư huyền bí lại qui định là chúng ta cần chuyển hóa dục vọng. Cái ǵ bị đè nén th́ thế nào cũng có lúc bật ra, c̣n cái ǵ được chuyển hóa th́ sẽ thay đổi măi măi. Một người có tŕnh độ tiến hóa rất bất toàn mà lại diệt dục th́ đồng thời cũng diệt hết mọi khả năng tiến hóa cao hơn, bởi v́ y đâu có cái ǵ để chuyển hóa. Kiếp này mà dục bị diệt hết th́ chỉ có nghĩa là mọi sinh hoạt cao siêu của xúc động và trí tuệ cũng nhất thời bị diệt luôn.

Sự không dính mắc giả tạo ấy là lực xua đuổi từ bên dưới, nguyên nhân là v́ một loại thất vọng, phiền năo hoặc mệt mỏi nào đó; c̣n sự dửng dưng với những điều thấp hèn th́ thật ra bắt nguồn từ ḷng ham muốn một sự sống cao đẹp hơn và tạo ra một kết quả khác hẳn.

Trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh có dạy rằng: Linh hồn muốn “những thứ rút nó lên trên”, nhưng khi diệt dục con người chỉ dẹp đi ḷng muốn hưởng thụ cuộc sống một cách tạm bợ, cái ham muốn hưởng thụ ấy sớm muộn ǵ cũng ngóc đầu dậy.

Nếu một người diệt dục theo cách nêu trên, hoàn toàn là một kẻ phàm phu không có biệt tài ǵ về trí tuệ hoặc đạo đức th́ như trên có nói, y cứ ở trong một t́nh trạng cảm thấy hoàn toàn hạnh phúc, nhưng như vậy y chẳng có ích lợi đặc biệt nào cho bản thân ḿnh lẫn cho người khác.

Mặt khác, nếu người ấy đă tiến một bước đáng kể trên Thánh đạo th́ y ắt đă đạt được giai đoạn chánh định với những quyền năng trí tuệ có giá trị rất lớn lao. Y có thể (mặc dù vẫn c̣n vô ư thức) ảnh hưởng tới thế gian và đóng góp vào cái kho năng lượng trí tuệ và tâm linh lớn lao được các Chơn sư rút ra để làm việc trên thế gian. Cái kho này chính là cái được năng lượng thiêng liêng của các đấng Nirmanakaya (ứng hóa thân) làm đầy. (Xem quyển Thể Trí, trang 193).

Một người thuộc loại này vốn tràn đầy tinh thần phụng sự ắt chuyển sang một thế giới mà ngài có thể hoạt động theo đường lối đặc thù ấy. Đó ắt là một thế giới vào cỡ ngang hàng với mức của thể nguyên nhân. Ở đây ngài ắt sống theo sát nghĩa cũng phải nhiều thiên kiếp, tuôn ra luồng tư tưởng tập trung để trợ giúp những người khác và nhờ vậy giúp vào việc cung ứng năng lượng thiêng liêng cho kho chứa.

---------------

 

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS