Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES 

 

Ba Giai Đoạn Sau cùng Của Thiền Định

THE MENTAL BODY 

Tác giả: A. E. POWELL 
Bản Dịch Chơn Như - 2011

  

Ba Giai Đoạn Sau cùng Của Thiền Định

-------------------------

 

SỰ  ĐỊNH TRÍ

(CONCENTRATION) 

(Trích Chương 15 của quyển THỂ HẠ TRÍ)

 

    Từ  những điều chúng ta đă thấy về cơ chế  và quyền năng của tư tưởng, thật rơ ràng là việc kiểm soát cái trí có tầm quan trọng hơn hẳn so với mức ta giả định thông thường cả v́ ích lợi của con người lẫn v́ ảnh hưởng của nó đối với công việc mà y làm được cho người khác. Thật vậy, sự kiểm soát tư tưởng là điều kiện tiên quyết cốt yếu để phát triển các quyền năng của linh hồn.

    Trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh có nêu rơ rằng: “Cái Trí là kẻ giết chết thực tại, đệ tử hăy tiêu diệt kẻ giết thực tại”. Điều này dĩ nhiên không có nghĩa là ta phải tiêu diệt cái trí v́ nếu không có nó th́ ta không tiến bộ được, nhưng ta phải làm chủ và chế ngự được nó; nó không phải là Chơn nhơn mà là một công cụ để cho Chơn nhơn rèn luyện và vận dụng.

    Rơ  rệt là học viên phải hết sức cẩn thận để dung dưỡng những tư tưởng và xúc động mà  ḿnh được phép. Kẻ phàm phu ít khi nghĩ tới việc toan tính kiểm soát những xúc động, ngoại trừ  có lẽ kiểm soát sự biểu lộ ra bên ngoài của nó; khi y thấy xúc động xuất lộ bên trong bản thân th́ y ch́u theo nó và cho rằng làm như thế mới là tự nhiên. Tuy nhiên, học viên huyền bí phải chọn theo một thái độ khác hẳn: thay v́ để cho xúc động chạy lồng lên th́ y phải hoàn toàn kiểm soát được nó và ta phải thực hiện điều này bằng cách phát triển và kiểm soát thể Trí. Một trong những bước đầu tiên hướng về điều này là nhận thức rằng thể Trí không phải là Chơn nhơn mà là một công cụ Chơn nhơn phải học cách sử dụng.

    Như  vậy học viên phải đặt ra cho ḿnh nhiệm vụ  làm chủ được cả xúc động lẫn tâm trí; y phải biết chính xác ḿnh đang suy nghĩ về điều ǵ và tại sao ḿnh nghĩ như vậy đến mức mà y phải sử dụng cái trí, xoay chuyển nó  hoặc nắm giữ nó yên tịnh giống như một người đấu gươm điêu luyện xoay chuyển vũ khí theo ư muốn của ḿnh về hướng này hướng khác và cũng có thể nắm chắc nó theo y muốn. Nói cách khác, y phải đạt được khả năng định trí vốn là một điều kiện sơ bộ cần thiết cho mọi công tŕnh trí tuệ.

    Y phải học cách suy nghĩ kiên định và liên tục, không để cho cái trí đột ngột nhảy từ chuyện này snag chuyện khác, không phí phạm năng lượng của cái trí vào đa số những tư tưởng không quan trọng.

    Hầu hết mọi người đều thấy đủ thứ tư tưởng đi lạc, không mời mà đến ùa vào trong tâm thức ḿnh v́ họ hoàn toàn không quen kiểm soát cái trí cho nên họ bất lực không kềm chế được ḍng thác ấy. Những người đó đâu có biết tư tưởng thật sự tập trung nghĩa là ǵ; chính việc hoàn toàn thiếu định trí này, sự bạc nhược này của cái trí và ư chí khiến cho các giai đoạn sơ khởi trong sự phát triển huyền bí khó khăn xiết bao đối với kẻ phàm phu. Vả lại, bởi v́ trong hiện trạng thế giới ngày nay rất có thể có nhiều tư tưởng gian tà trôi nổi hơn là tư tưởng tốt lành, cho nên khuyết điểm này chỉ khiến cho người ta chịu đủ thứ cám dỗ mà chỉ cần một chút cố gắng và thận trọng là có thể hoàn toàn tránh được.

    Xét về khía cạnh h́nh tướng th́ định trí là  giữ cho thể Trí được định h́nh theo một h́nh ảnh kiên định; xét về khía cạnh sự  sống th́ đó là việc điều khiển sự chú ư tới h́nh tướng ấy một cách kiên định sao cho ta mô phỏng lại được nó bên trong bản thân. Chính lực của ư chí mới bắt buộc cái trí phải giữ nguyên một h́nh tướng duy nhất, mới định h́nh được nó theo một h́nh ảnh duy nhất, hoàn toàn bất chấp mọi ấn tượng khác tác động vào nó.

    Nói một cách ngắn gọn hơn th́ định trí cốt  ở việc tập trung tâm trí vào một ư tưởng duy nhất và giữ cho nó ở ngay đó. Nói  đơn giản hơn, th́ định trí là chú ư. Nếu người ta chú ư tới điều ḿnh đang làm th́ y đang định trí.

    Trong khi liên kết với những dạng cao của sự nghe thấy th́ trung tâm lực ở họng cũng có liên hệ mất thiết với khả năng chú ư mà  mọi hệ thống huyền bí học đều luôn luôn cho nó là rất quan trọng. V́ thế cho nên trong trường phái Pythagore chẳng hạn, học viên trong nhiều năm được duy tŕ ở cấp Akoustikoi gọi là Thinh Văn và bị cấm tuyệt không được lao vào vùng nước nguy hiểm đầy chuyện mới mẻ chừng nào họ chưa hoàn toàn bén rễ với những nguyên lư triết học đă được xác lập. Cũng v́ những lư do tương tự trong các bí pháp ở Mithra, cấp thấp nhất là con Quạ nghĩa là chỉ được phép lập lại những điều ḿnh nghe nói y hệt như con quạ hoặc con vẹt. Hội viên Tam Điểm ắt nhận ra được sự tương ứng của các cấp này với cấp E. A. trong hệ thống của ḿnh. Nhận tiện, xin nói cấp E. A. triệu thỉnh sự trợ giúp con người sử dụng nó một lớp đặc thù các sinh linh thông tuệ phi nhân loại thuộc cơi tinh vi, nó cần được thực hiện chính xác đúng nơi đúng chỗ; nếu thực hiện điều cần phải làm một cách cẩn thận, không suy nghĩ th́ người ta chỉ rước lấy những ảnh hưởng mà ḿnh chẳng biết ǵ và chưa hề được chuẩn bị. Khi sử dụng mọi dạng “pháp thuật” như thế th́ người ta nên cảnh giác kẻ vô h́nh trung ḿnh chỉ chuốc lấy những ảnh hưởng bất lợi mà trong trường hợp khác ắt đă làm ngơ ḿnh đi. Học viên cũng nên nhớ rằng tác dụng tự nhiên của việc định trí là tạo ra sự căng thẳng của các cơ bắp trong cơ thể, chẳng hạn như việc cau mày. Sự căng thẳng như thế chẳng những làm cơ thể mệt mỏi mà c̣n gây trở ngại cho việc chu lưu thần lực. V́ vậy, định kỳ trong buổi tham thiền cũng như trong sinh hoạt hằng ngày, học viên nên chú tâm tới cơ thể và cố ư “thư giản”. Kinh nghiệm chứng tỏ rằng trong toàn bộ hệ thống được vô cùng thoải mái ngay cả chỉ sau một lúc hoàn toàn thư giản. Những người có bản chất mạnh mẽ và cực lực nên đặc biệt chú ư tới sự thư giản và thấy ḿnh có thể cần phải thực hành những bài tập nhất định với mục đích ấy. Có nhiều quyển sách bàn về đề tài này, ta có thể tin tưởng khuyên bạn đọc tham khảo một trong những quyển sách hay nhất là quyển Quyền Năng do Sự Nghỉ ngơi của Annie Payson Call.

    Định trí không phải là vấn đề nỗ lực thể xác; lúc cái trí quay sang một tư tưởng th́ nó đă định trí về tư tưởng ấy rồi. Định trí đâu phải là vấn đề dùng sức mạnh để giữ cho cái trí (trang 128) gắn liền với một tư tưởng nào đó mà định trí là để cho cái trí tiếp tục an nghỉ nơi tư tưởng ấy một cách hoàn toàn yên tĩnh và tịch lặng. Học viên phải nhớ rằng chỗ của tư tưởng không phải ở trong bộ óc mà ở trong thể trí; v́ thế cho nên định trí liên quan tới thể trí nhiều hơn là óc phàm. Như vậy, định trí rơ rệt không phải là một trạng thái thụ động mà ngược lại là một hoạt động cực lực và điều độ. Trên cơi trí tuệ, nó cũng giống như việc chuẩn bị cơ bắp để nhảy vọt trên cơi hồng trần hoặc làm cứng đơ cơ bắp để đối phó với một sự căng thẳng kéo dài. Kẻ nào bắt đầu thực sự định trí đối với tư tưởng thoạt tiên không nên vượt quá 5 hoặc 10 phút trong một mạch bằng không y sẽ bắt bộ óc làm việc quá sức. Dần dần th́ thời gian có thể kéo dài ra tới 15 - 20 hoặc 30 phút. Học viên chẳng bao giờ nên thực hành định trí hoặc tham thiền tới mức cảm thấy bộ óc đờ đẫn và nặng nề, v́ đờ dẫn và đau đớn là những tín hiệu nguy hiểm, nó biểu thị rằng nỗ lực được thực hiện đă làm thay đổi vật chất của các thể nhanh hơn mức tương hợp với sức khỏe.

    Hầu hết mọi người dường như thấy khó kiềm chế  tư tưởng hơn xúc động, có lẽ v́  họ được giáo dục coi việc để cho xúc động lộng hành, không bị kiểm soát là khiếm nhă  trong khi họ thưởng bỏ mặc cho tư tưởng chạy rông theo tiếng gọi của óc hoang tưởng. Khi người ta bắt đầu toan tính kiểm soát cái trí của ḿnh th́ y thấy ḿnh xung đột với những thói quen đă qua của thể Trí. Cũng như tâm thức tập thể của thể Vía tạo thành cái gọi là Tinh linh Dục vọng bao nhiêu (Xem quyển THỂ VÍA trang 77) th́ tâm thức tập thể của thể Trí cũng tạo thành Tinh linh Trí tuệ bấy nhiêu. Như vậy, Tinh linh Trí tuệ này đă quen có mọi chuyện theo ư ḿnh và trôi dật dờ từ đề tài này sang đề tài khác theo ư ngông của chính ḿnh. Đấu tranh với Tinh linh Trí tuệ, xét về một số phương diện th́ khác với đấu tranh chống lại Tinh linh Dục vọng. Tinh linh Trí tuệ vốn sớm tiến hóa hơn Tinh linh Dục vọng trọn cả một giai đoạn cho nên ít quen thuộc hơn với việc bị giam hăm trong vật chất; v́ thế cho nên nó năng động hơn Tinh linh Dục vọng: lăn xăn hơn nhưng thiếu quyết tâm hơn và thiếu sức mạnh hơn.

    Xét về bản chất của sự việc th́ như vậy y dễ quản lư hơn nhưng lại không quen quản lư;  điều này khiến cho muốn kiểm soát một tư tưởng th́ thật sự cần vận dụng ít sức mạnh hơn việc kiểm soát ham muốn, nhưng cũng cần áp dụng kiên tŕ sức mạnh ấy. Ta cũng phải nhớ rằng trên cơi trí tuệ, cái trí vốn ở vùng đắc địa của ḿnh và đang xử trí vật chất của chính ḿnh sao cho đó chỉ là vấn đề thực hành trong việc nó học cách quản lư hoàn hảo Tinh linh Trí tuệ; trong khi đó lúc ta cố gắng kềm chế Tinh linh Dục vọng th́ ta đang đưa cái trí xuống một cơi xa lạ với nó vá áp đặt một uy lực ngoại lai từ bên ngoài.

    Một vài sự kiện vừa nêu quan trọng đến nỗi ta nên  ôn lại chúng một cách ngắn gọn. Bản thân việc kiểm soát cái trí dễ hơn nhiều so với việc kiểm soát xúc động; nhưng ta đă thực hành kiểm soát xúc động trong một chừng mực nào đó và theo thông lệ ta hầu như chưa thực hành việc kiểm soát cái trí. V́ thế cho nên việc vận dụng trí tuệ dường như khó khăn xiết bao đối với chung ta. Cả hai cùng nhau tạo thành một nhiệm vụ dễ dàng hơn nhiều so với việc hoàn toàn làm chủ được thể xác; nhưng trong một chừng mực nào đó, ta đă thực hành công việc kiểm soát thể xác trong một số kiếp trước kia, mặc dù thành tích của ta theo đường lối ấy thậm chí rơ ràng là bất toàn. Việc hiểu được rốt ráo vấn đề này ắt dứt khoát khích lệ học viên. Việc hiểu biết ấy có một kết quả là gây ấn tượng lên y, linh hoạt về một sự thật của nhận xét trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh, theo đó trần gian là địa ngục chân chính duy nhất mà huyền  bí gia đă từng biết tới. Để thấy phát biểu nêu trên không dường như sai sự thật hoặc ngoa ngoắc, xin học viên hăy xét tới nỗi khó khăn khi dùng quyền năng tư tưởng để trấn áp chẳng hạn như một cơn đau răng kịch liệt (mặc dù ngay cả điều này cũng có thể được thực hiện trong một số t́nh huống nào đó); rơ ràng là dễ hơn nhiều khi dùng quyền năng tư tưởng để trấn áp sự chán nản, giận dữ, ghen tuông hoặc bất kỳ xúc động khó chịu nào khác, và c̣n dễ hơn nữa khi lái tư tưởng chệch ra khỏi một đề tài không hấp dẫn hoặc bất lợi chuyển sang một đề tài hấp dẫn hoặc có ích lợi hơn hay là thậm chí ngưng làm việc hoàn toàn bằng cái trí.

    Giờ  đây ta nên xét tỉ mỉ hơn những trở ngại cho việc định trí; như ta thấy, những trở ngại này tự nhiên chia thành hai nhóm chính. Nhóm thứ nhất có liên quan tới Kāma tức dục vọng; nhóm thứ nh́ có liên quan tới chính bản chất của vật chất trí tuệ. Cách đây 5.000 năm trong cuộc đàm đạo bất hủ giữa Arjuna và Shri Krishna (Xem Chí Tôn Ca VI, 34-35), Arjuna đă diễn tả việc khó kiểm soát cái trí như sau: “Hỡi đấng giết chết Madhu, cái khoa yoga mà ngài tuyên bố qua sự b́nh tâm, con thấy chẳng có nền tảng vững chắc nào cho nó v́ nó thật lăn xăn; bởi v́ cái trí, hỡi đấng Krishna, nó quả thật là lăn xăn. Nó thật hung hăn, dữ dội và thật khó uốn nắn; con thấy khó uốn nắn nó cũng như khó nắm bắt được gió”.

    Và  câu trả lời vẫn c̣n đúng măi, câu này vạch ra đường lối duy nhất dẫn đến thành công: “Hỡi kẻ được vơ trang hùng hậu, chắc chắn là  cái trí thật khó uốn nắn; nhưng ta có thể uốn nắn nó bằng việc thực hành thường xuyên (abhyasa) và sự lănh đạm điềm nhiên, dứt bỏ (vairagya).

    Chúng ta sẽ xét hai trở ngại (mà hai phương thuốc chữa trị chúng đă được viết nghiêng như  trên) theo thứ tự ngược.

    (1). Sự lănh đạm, điềm nhiên. Điều này rơ ràng nhằm nói tới khả năng của kāma, tức dục vọng, thu hút, gây ảnh hưởng và bám lấy cái trí. Ở chương 6, ta đă nghiên cứu tỉ mỉ mối quan hệ giữa kāma và manas, ta thấy cách thức mà ham muốn không ngừng thúc đẩy cái trí và thường xuyên khiến cái trí cung cấp cho ḿnh vui sướng. Vậy là cái trí bị dẫn dụ phải mưu t́m cái mang lại vui sướng cũng như tránh né cái gây ra đau khổ. V́ thế cho nên chỉ khi nào ta chế ngự và làm chủ được xúc động th́ ta mới khống chế nó và ngăn ngừa nó không lọi kéo cái trí không đi chệch ra khỏi nhiệm vụ mà nó đă đề ra cho ḿnh thực thi. Học viên nên nhớ lại rằng một khối hỗn độn những xúc động nhỏ mọn thật không xứng đáng với một sinh linh thuần lư và thật là hết sức mất tư cách khi con người vốn là Điểm Linh Quang của Thượng Đế mà lại để cho ḿnh chịu sự chi phối của Tinh linh Dục vọng vốn là một thứ thậm chí chưa đạt được mức khoáng vật. Dường như có hai cách thức chính yếu giúp ta đạt được sự điềm nhiên này và dùng nó làm phương tiện để định trí. Ta có thể gọi chúng là (a)- phương pháp Triết học và (b)- phương pháp Sùng tín.

    (a)- Phương pháp Triết học: Phương pháp này cốt ở việc biến đổi và tăng cường thái độ của ḿnh đối với bất cứ thứ ǵ thường hấp dẫn và trói buộc con người sao cho người ta hoàn toàn chế ngự được kāma tức ham muốn; vậy là con người trở nên điềm nhiên với mọi sự vật cho dù ở bên ngoài hay là được giới thiệu với cái trí từ bên trong. Theo nhận xét của chính người viết tác phẩm, phương pháp này dường như khó khăn đối với hầu hết những người có tính khí Tây phương và thường có khuynh hướng tạo ra nhiều bối rối hơn là giải quyết được bối rối; đối với những người có tính khi Đông phương (tạm dùng một cách phân biệt thô thiển nhưng hữu ích) th́ nó có vẻ không tạo ra nhiều khó khăn như thế. Muốn tŕnh bày rốt ráo phương pháp này th́ cần phải có một bộ khảo luận về triết học và dĩ nhiên điều này vượt xa tầm mức của quyển sách. Ta chỉ cần nói vài lời cũng đủ nêu lên đại ư của phương pháp ấy. Triết lư của hệ thống này được mô tả trong các Đề mục 5 và 6 của Chí Tôn Ca, vốn được lần lượt gọi là Khoa Yoga Xả bỏ Hành động và Khoa Yoga Tự chế.

    Trong hệ thống này con người “chẳng ghét bỏ mà  cũng chẳng ham muốn; y thoát khỏi các cặp đối đăi; y nhận thấy rằng các giác quan theo đuổi những đối tượng của giác quan; y đặt mọi hành động nơi Đấng Vĩnh Hằng, từ bỏ sự dính mắc; y xả bỏ trong trí mọi tác động; y quan sát giống nhau một người Bà la môn có học thức và khiêm tốn, một con ḅ cái, một con voi, thậm chí một con chó và kẻ cùng đinh; y không vui mừng khi đạt được điều dễ chịu, cũng chẳng buồn rầu khi vớ phải điều khó chịu; y không dính mắc vào những sự tiếp xúc với ngoại giới và thấy ḿnh hoan hỉ nơi Tự ngă; y có thể nhẫn nhục; sức mạnh sinh ra từ ham muốn và đam mê được làm cho hài ḥa, hạnh phúc, chú ư tới phúc lợi của chúng sinh; tách rời khỏi ham muốn và đam mê.

    “Y thực thi hành động ấy coi là một bổn phận, độc lập với kết quả của hành động; với ư chí tạo h́nh xả bỏ kiểm soát và yên b́nh, y vẫn không thay đổi khi nóng hoặc lạnh, khi sướng hoặc khổ cũng như vinh hoặc nhục; y coi như nhau những người thương yêu, bạn và thù, người xa lạ, người vô thưởng vô phạt, người nước ngoài và thân quyến cũng như kẻ công chính và kẻ gian tà; y không c̣n hi vọng và tham lam nữa; y không c̣n khao khát những điều đáng mong muốn; y giống như một ngọn đèn đặt ở nơi không có gió; ngay cả sự phiền năo nặng nề cũng không làm y xao động; y không ngần ngại từ bỏ mọi ham muốn sinh ra do óc tưởng tượng; dần dần y đạt được sự b́nh an v́ đă khiến cho cái trí an trụ nơi TỰ NGĂ; y thấy Tự Ngă ngự nơi vạn vật và vạn vật đều có nơi Tự ngă và y đă hoàn toàn trở nên hài ḥa”.

    Đoạn trích dẫn nêu trên chẳng qua chỉ là sự phác họa đại khái điều mà ta gọi là phương pháp Triết học. Thật ra phương pháp này có thể chế biến và thích ứng trong một phạm vi rất rộng để thích ứng với những cá thể đặc thù và tính khí đặc dị của y. Tuy nhiên, như ta đă nói, phương pháp Triết học là con đường khó đi và gây bối rối cho đa số mọi người, v́ vậy “thiên chức của người khác th́ tràn đầy nguy hiểm” nên ta theo phương pháp thứ nh́ th́ ít kịch liệt hơn mà ta sẽ miêu tả bây giờ.

    (b) Phương pháp Sùng tín – Trong phương pháp này thay v́ loại bỏ kāma, nghĩa là ham muốn tức dính mắc th́ học viên lại dùng chính cái sức mạnh của kāma để ổn định cái trí. Đây là phương pháp độc đáo của kẻ sùng tín, y trau dồi kāma dưới dạng cao nhất tới mức cường độ cực mạnh sao cho mọi sự dính mắc khác đều trở nên tương đối vô nghĩa; do đó nó bất lực không làm xáo trộn hoặc xao lăng sự chú ư của y. Kẻ có tính khí sùng tín có thể đạt được mục tiêu của ḿnh bằng cách định trí vào một đối tượng yêu thương hoặc một h́nh ảnh thân thương, chính điều vui sướng mà y trải nghiệm do sự lặng ngắm cái h́nh ảnh ấy đă giữ cho cái trí cố định vào đó, cho dù cái trí có bị sức mạnh khác lôi kéo lệch ra khỏi nó th́ cái trí cứ trở đi trở lại nó hoài. Bằng cách này, người sùng tín đạt được một mức độ định trí đáng kể. Trong khi người sùng tín sử dụng yếu tố hấp dẫn như thế đối với một con người th́ người có đầu óc triết lư hơn lại có thể thay thế h́nh ảnh hấp dẫn bằng một ư tưởng sâu xa nào đó hoặc ngay cả một bài toán khó khăn nào đó; như vậy, đối với y, lợi ích trí thức tức ḷng ham muốn sâu sắc có được sự hiểu biết cung cấp khả năng ràng buộc của sự hấp dẫn và như vậy giữ cho cái trí không bị xao động.

    Xét theo quan điểm này th́ ta định nghĩa sự định trí một cách hữu dụng như sau: Việc thực hành định trí là việc kiểm soát cái trí, dùng một tâm trạng để chế ngự cái trí, dùng ư chí để dẫm đạp lên cái trí sao cho mọi suy nghĩ đều uốn ḿnh theo chủ đích đă được chọn lựa.

    Đối với kẻ nào không dứt khoát có tính sùng tín th́ ta có thể thay đổi phương pháp nêu trên khá nhiều; thật vậy đối với hầu hết mọi người phương pháp được thay đổi này quả thật có lẽ là phương pháp dễ nhất mà người ta thực hiện trong sinh hoạt hằng ngày. Nó cốt ở việc trở nên bận tâm và đắm ch́m vào đề tài được tuyển lựa đến nỗi chính v́ thế mà mọi tư tưởng khác đều bị loại ra khỏi cái trí. Cái trí trở nên bận tâm đến nỗi nó cảm ứng ra một trạng thái ít nhiều tập trung chăm chú. Học viên phải học cách hoàn thành điều này một cách thoải mái và y sẽ thành công rực rỡ khi trau dồi được khả năng và thói quen quan sát, chú tâm tới những đối tượng nơi ngoại giới. Ta chọn một đối tượng, khảo sát và nghiên cứu nó tỉ mỉ về nhiều phương diện. Không một đối tượng nào trong thiên nhiên thật ra lại nhàm chán hoặc không thú vị; nếu có mộtđiều ǵ đó dường như vậy th́ nói cho cho đúng hơn đó là v́ ta thiếu chú ư và không nhận thức được để đáng giá cao sự kỳ diệu và vẻ đẹp trong sự biểu lộ của nó. Ta cần đạt được một mức độ làm chủ nào đó trong việc thực tập sơ cấp tương đối như nêu trên th́ mới có thể h́nh dung thành công được: h́nh dung là năng lực tạo ra trong cái trí một đối tượng được mô phỏng với chi tiết tỉ mỉ thế mà mắt phàm không nh́n thấy đối tượng; việc h́nh dung chính xác là một năng lực cần thiết trong một vài dạng công tác huyền bí, chẳng hạn như trong nghi lễ.

    Nều thay v́ là một đối tượng cụ thể  mà ta lại chọn một ư tưởng, chẳng hạn như một đức tính th́ nó cũng khơi dậy ḷng nhiệt thành và sùng tín của học viên; trong trường hợp này sự định trí chủ yếu là của xúc cảm chứ c̣n cái trí th́ không rơ rệt như vậy. Xúc cảm dễ đạt được mức nhất tâm hơn tư tưởng bởi v́ tư tưởng vốn tinh vi và năng động hơn; nhưng nếu ta có thể cảm ứng được sự tập trung xúc cảm th́ trong một chừng mực nào đó th́ sự định trí sẽ nối tiếp theo. Khi thực hành định trí cũng như tham thiền, kẻ sơ cơ hay thấy rằng có nhiều ham muốn nho nhỏ chưa được thỏa măn và nhiều vấn đề chưa được suy nghĩ rốt ráo cứ ngoác cái miệng hau háu đói khát ra gào thét lấn át sự chú tâm của ḿnh. Để dẹp tan những sự trở ngại ấy, việc ức chế hoặc đè nén chúng không có công dụng là bao. Việc đối phó tốt hơn là phải quan tâm tới chúng, dành cho chúng một thời gian và suy nghĩ về chúng. Một cái trí không khắc phục được sự dao động như thế đến nỗi những vấn đề tồn đọng cứ triền miên không giải quyết được th́ không định trí thành công chứ đừng nói chi tới tham thiền. Học viên phải quyết tâm dàn xếp những vấn đề của ḿnh, đi tới những quyết định dứt khoát để rồi không suy đi nghĩ lại về đề tài ấy nữa. Khả năng làm như vậy được gia tăng nhờ việc thực hành và thói quen hễ quyết định là bắt tay vào làm ngay.

    (2). Việc Thực hành Thường xuyên. Ở đây dường như ta nhằm nói tới tính chất lăn xăn vốn ít nhiều cố hữu nơi vật chất trí tuệ và nơi tinh hoa ngũ hành trí tuệ. Thật vậy, tinh hoa ngũ hành phần lớn là chịu trách nhiệm về những tư tưởng lang thang của ta khi nó thường xuyên nhảy nhót từ chuyện này sang chuyện kia. Nhưng bởi v́ vật chất trí tuệ cũng tuân theo định luật thói quen giống như mọi loại vật chất cho nên ta có thể rèn luyện nó bằng cách thường xuyên thực hành cho đến khi nó quen với việc đảo ngược lại tính lăn xăn; như vậy là ta đă uốn nắn nó thành ra một tôi tớ ngoan ngoăn và cúc cung tận tụy phục vụ Chơn nhơn tức Chủ thể tư tưởng. Cố nhiên cách nhanh nhất và tốt nhất để khắc phục sự lang thang của cái trí là phải sử dụng ư chí. Thật vậy, cho dù ta chọn phương pháp nào đó đi chăng nữa th́ ta vẫn phải sử dụng ư chí đến một chừng mực nào đó. Có một số người chỉ trông cậy hoàn toàn vào sức mạnh của ư chí và ư chí có thể được phát triển đến mức vô hạn, trong khi những người khác lại thích hỗ trợ và bổ sung cho quyền năng ư chí bằng triết lư, ḷng sùng tín hoặc bất kỳ công cụ nào khác mà họ có thể phát hiện ra cho bản thân. Dĩ nhiên ta có thể tạo ra một lớp vỏ bao bọc xung quanh ḿnh, vậy là ta đă loại trừ được những tư tưởng từ bên ngoài, nhưng người ta không khuyến khích dùng phương pháp này làm một chiến lược măi măi bởi v́ xét cho cùng th́ những lớp vỏ bảo vệ chẳng qua chỉ là những cái nạng chống đỡ. Tuy nhiên nếu ta sử dụng một lớp vỏ bảo vệ th́ cũng phải nhận thức được rằng nó không thể ngăn ngừa được những tư tưởng lang thang xuất hiện ngay từ bên trong cái trí chính ḿnh. Nó chỉ ngăn ngừa được sự xâm nhập từ bên ngoài của những tư tưởng ngẫu nhiên trôi nổi do người khác đă thả ḷng cho chúng bèo giạt mây trôi. Ta chỉ nên dùng vật chất hạ trí để tạo ra một lớp vỏ như vậy, bằng không th́ ta có thể ngăn ngừa những tư tưởng hữu ích hoặc chính tư tưởng của ta cũng bị cản trở không tuôn lên được hướng về phía Chơn sư. Trong Hội Tam Điểm, quá tŕnh tương ứng với điều nêu trên là việc Lợp ngói cho Chi bộ; điều này dĩ nhiên được thực hiện ở trên một cơi thích hợp với Mức độ mà nó được triển khai. Trong sinh hoạt đời thường hằng ngày ta có thể và nên đạt được khả năng định trí. Cho dù ta đang làm việc ǵ th́ ta cũng nên tập trung toàn bộ chú tâm vào đó, toàn tâm toàn ư làm việc ấy. Chẳng hạn như ta nên viết một bức thư cho kỹ lưỡng và chính xác, không được cẩu thả về chi tiết khiến cho tác dụng của nó bị tŕ hoăn hoặc phương hại. Ta nên hết sức chú tâm đọc một quyển sách và cố gắng lĩnh hội ngụ ư của tác giả. Không một ngày nào trôi qua mà ta lại không thể luyện tập cái trí một cách nhất định. Đó là v́ sức mạnh của cái trí chỉ có được qua việc luyện tập; nếu bỏ phế th́ bao giờ nó cũng bị suy yếu rồi teo tóp đi. Học viên cũng nên lĩnh hội được cơ chế của sự lo âu và phương pháp loại trừ điều ấy. Miễn là đừng quá sức th́ làm việc chẳng những không gây phương hại cho bộ máy tư duy mà ngược lại c̣n củng cố cho bộ máy ấy. Nhưng quá tŕnh lo âu trong trí dứt khoát làm tổn hại cái trí, chỉ sau một thời gian là nó sẽ gây ra sự kiệt quệ thần kinh và ưa cáu kỉnh khiến cho ta không thể làm việc đều đều bằng cái trí. Lo âu là quá tŕnh lập đi lập lại cùng một chuỗi tư tưởng mà chẳng thay đổi được bao nhiêu, chẳng đi đến kết quả ǵ, thậm chí thường khi lại chẳng nhắm vào một kết quả nào. Đó là việc cứ tiếp tục mô phỏng lại những h́nh tư tưởng được phát khởi do thể trí và bộ óc chứ không phải do tâm thức rồi thể trí và bộ óc lại áp đặt những h́nh tư tưởng ấy lên tâm thức. Chủ thể suy tư v́ không giải được bài toán của ḿnh cho nên vẫn bất đắc chí, nỗi e sợ do tiên liệu về chuyện rắc rối đă khiến cho y cứ nhấp nha nhấp nhỏm đứng ngồi không yên. Trong t́nh huống ấy (nghĩa là chủ thể suy tư mất phương hướng) th́ cái trí và bộ óc cứ tiếp tục nhồi nén những h́nh ảnh đă được định h́nh và bị bác bỏ ra. Trong khi lo âu, Chủ thể suy tư trở thành kẻ nô lệ thay v́ là chủ nhân ông của các hạ thể.

    Lo âu phần lớn là do cơ chế tự động v́ vậy ta có thể sử dụng chính cái đặc tính ấy của vật chất để lấy độc trị độc. Có lẽ cách tốt nhất để dẹp bỏ một “kênh dẫn lo âu” là đào một kênh dẫn khác có đặc tính ngược hẳn lại nó. Ta có thể thực hiện điều này bằng cách cứ tham thiền về một tư tưởng chẳng hạn như “Tự ngă là Yên b́nh, tôi là Tự ngă. Tự ngă là Sức mạnh, tôi là Tự ngă”. Khi ta suy ngẫm như vậy th́ sự Yên b́nh mà ta đang lặng ngắm sẽ bủa quanh ta và ta cũng sẽ được tràn ngập Sức mạnh mà ḿnh đă phác họa cho bản thân trong lúc suy tư. Dĩ nhiên công thức chính xác về các ư tưởng để tham thiền phải thích ứng với từng cơ thể đặc thù.

    Học viên phải học cách chẳng những suy tư mà c̣n có thể ngưng suy nghĩ một cách tùy ư. Khi việc suy nghĩ đă xong rồi th́ nên dứt bỏ  nó hoàn toàn chứ không cho phép nó trôi nổi dật dờ, lướt qua cái trí rồi lại biến đi đâu mất giống như một chiếc thuyền va chạm vào vách đá. Người ta không giữ cho cỗ máy vận hành khi nó không tạo ra công hữu ích v́ như vậy sẽ làm ṃn máy móc một cách không cần thiết. Cũng giống như vậy, bộ máy vô giá là cái trí không nên được phép xoay chuyển không có mục đích, không bị hao ṃn khi không tạo ra kết quả hữu ích. Cũng giống như tay chân mỏi mệt ră rời sẽ phục hồi sức lực khi được nghỉ ngơi hoàn toàn, do vậy cái trí sẽ cảm thấy thoải mái khi được hoàn toàn thư giản.

    Khi học viên đă hoàn tất một công tŕnh suy tư th́  y nên dứt bỏ tư tưởng ấy, thế rồi khi những tư tưởng khác xuất hiện trong trí ḿnh th́ y cũng đừng chú tâm tới chúng. Có một phương pháp khác mà người viết quyển sách này sử dụng rất thành công, không chú trọng vào việc xoay chuyển chú tâm sang hướng khác [bản thân việc này là một hành vi tích cực] mà cốt ở việc không chú ư tới những tư tưởng xuất lộ. Cứ để cho những tư tưởng ấy ló mặt ra mà đừng thèm ngó ngàng ǵ tới chúng. Sau một thời gian ngắn, v́ không được cấp thêm sự sống mới mẻ cho nên những tư tưởng ấy không thể xuất hiện được nữa; thế là ta trải nghiệm được sự tĩnh lặng hoàn toàn, không có bất kỳ tư tưởng nào, điều này cực kỳ thư giản cho cả thể vía lẫn thể trí. [Ta có thể sử dụng chiến lược này để chữa bệnh mất ngủ, người viết quyển sách này thấy trong nhiều trường hợp nó thật là vô giá].

    Muốn làm việc trên các cơi cao th́ điều tiên quyết sơ  bộ là phải ngưng tư tưởng. Khi bộ óc  đă học được cách tịch lặng th́ bấy giờ mới mở ra khả năng triệt thoái tâm thức ra khỏi xác phàm. Đến bấy giờ th́ học viên mới vỡ lẽ ra được trọn cả ư nghĩa trong câu kinh của Patanjali, theo đó muốn thực hành Yoga th́ người ta phải làm ngưng những “biến thái của nguyên khí suy tư”. Nhiệm vụ mà ta cần thành tựu là phải kiểm soát hoàn toàn được thể Trí tức “nguyên khí suy tư” sao cho nó chỉ có thể bị biến động do sự đồng ư đă được cố t́nh ban ra cho Chơn nhơn, tức Chủ thể suy tư. Khi địng nghĩa Yoga, Patanjali có sử dụng thuật ngữ chitta-vritti-nirodha, có nghĩa là dẹp hết (nirodha) những xoáy lực (vritti) trong cái trí (chitta).

    Người ta phải có thể vận dụng và ngưng sử  dụng cái trí giống như khi sử dụng một  đồ vật; khi con người đạt được giai đoạn này th́  y mới có thể hoàn toàn triệt thoái ra khỏi thể Trí. Như vậy Yoga chính là sự ức chế mọi rung động và biển đổi trong thể Trí. V́ thế cho nên nếu không được phát khởi từ bên trong th́ thể Trí của một Chơn sư không thay đổi về màu sắc. Màu sắc thể Trí của ngài giống như “ánh trăng trên đại dương lăn tăn gợn sóng”. Bên trong cái ánh trăng ấy có đủ mọi khả năng của màu sắc nhưng không một điều ǵ nơi ngoại giới có thể thay đổi chút nào được cái sắc thái lan tỏa qua ánh quang huy kiên định của nó. Thể Trí của Chơn sư chỉ là một lớp vỏ bên ngoài mà ngài sử dụng khi ngài cần giao tiếp với hạ giới.

    Kết quả của việc định trí là khi Chủ  thể tri thức kiên định, lặng ngắm h́nh ảnh duy nhất bằng cái trí đă tập trung th́ y đạt được sự hiểu biết về đối tượng đầy đủ hơn mức mà ḿnh có thể đạt được qua bất kỳ sự mô tả nào bằng ngôn ngữ. Nét phác họa thô thiển tạo ra do sự vật được mô tả bằng ngôn từ càng ngày càng được lấp đầy mọi chi tiết khi bức tranh định h́nh trong thể Trí và tâm thức càng ngày càng tiếp xúc nhiều hơn với sự vật được mô tả. Để biết thêm chi tiết về lư thuyết và thực hành trong việc định trí cũng như quyền năng tư tưởng, xin học viên hăy tham chiếu tác phẩm Quyền Năng Tư Tưởng, việc Kiểm soát và Trau dồi nó của bà Annie Besant; muốn có một cẩm nang thực hành về định trí xin học viên hăy tham chiếu quyển sách đáng khâm phục của ông Ernest Wood bàn về sự Định trí. 

    ------------------------

SỰ  THAM THIỀN

(MEDITATION) 

(Trích Chương XVI của quyển THỂ HẠ TRÍ)

THE MENTAL BODY 

Tác giả: A. E. POWELL 

    Dĩ  nhiên, định trí không phải là cứu cánh tự thân mà chỉ là một phương tiện để đạt tới cứu cánh. Định trí uốn nắn thể trí thành ra một công cụ để cho chủ nhân ông sử dụng thoải mái. Khi cái trí tập trung đă được ổn định đều đều hướng về một mục tiêu nào đó với chủ đích xuyên qua bức màn che để đạt tới sự sống bên trong, rồi thu rút sự sống ấy hiệp nhất với sự sống của cái trí – th́ bấy giờ ta đă tham thiền. Như vậy, định trí là định h́nh cơ quan, c̣n tham thiền là việc vận dụng nó.

    Như  ta đă thấy, định trí nghĩa là cố định cái trí vào một điểm duy nhất không cho nó xao lăng, không bị đăng trí do những sự vật bên ngoài gây ra, do hoạt động của các giác quan hoặc do hoạt động của chính cái trí. Nó phải được gom hết sức b́nh sinh đến nỗi ổn định không xao động và cố định cho đến khi nó dần dần học được cách triệt thoái sự chú tâm ra khỏi ngoại giới và ra khỏi cơ thể sao cho các giác quan vẫn c̣n yên tĩnh và tịch lặng, trong khi cái trí lại cực lực linh hoạt và mọi năng lực của nó đều được triệt thoái vào bên trong, được phóng ra ở một điểm tư tưởng duy nhất, là điểm cao nhất mà nó có thể đạt tới được. Khi nó có thể an trụ như vậy được dễ dàng th́ nó sẵn sàng đạt thêm một bước nữa bằng cách nỗ lực mạnh mẽ và b́nh tĩnh của ư chí, nó có thể phóng ḿnh vượt qua tư tưởng cao nhất mà nó có thể đạt được trong khi hoạt động trong bộ óc phàm; nhờ nỗ lực ấy nó sẽ vươn lên hiệp nhất với tâm thức cao siêu và thấy ḿnh được giải thoát khỏi cơ thể.

    Như  vậy là bất cứ ai có thể chú ư, suy tư kiên định về một đề tài nào  đó trong một thời gian ngắn mà không để cho cái trí xao lăng th́ người ấy đă sẵn sàng để bắt đầu tham thiền. Chúng ta có thể định nghĩa tham thiền là chú tâm dai dẳng của cái trí được tập trung giáp mặt với một đối tượng sùng tín hoặc một vấn đề cần được soi sáng cho dễ hiểu. Thật vậy, về bất cứ vấn đề ǵ trong đó ta phải ngộ ra và hấp thụ sự sống chứ không phải là h́nh tướng. Đó là thuật xem xét một đối tượng và lật nó đi lật nó lại trong tâm trí qua đủ thứ phương diện và mối quan hệ. Sau khi đă định nghĩa tham thiền là cốt ở việc cố gắng đưa vào trong tâm thức tỉnh táo điều mà nó ở trạng thái hoạt động b́nh thường trong tâm trí, rồi sao cho nó phần nào nhận thức cái siêu thức được sáng tạo ra do quyền năng hoài băo để tạo ra một kênh dẫn, thông qua đó ảnh hưởng nguyên khí thiêng liêng hoặc nguyên khí tinh thần (Chơn nhơn) có thể tỏa chiếu cho phàm nhơn. Đó là việc cái trí và xúc cảm vươn ra bên ngoài hướng tới lư tưởng, mở ra cánh cửa cho tâm thức hạ đẳng bị giam hăm chịu ảnh hưởng của lư tưởng ấy. Bà H. P. Blavatsky có nói: “Tham thiền là sự khao khát không diễn tả nên lời của Chơn nhơn hướng về Vô cực”. Thánh Alphonus de Liguori bảo tham thiền là: “cái ḷ đốt linh thánh mà trong đó linh hồn cháy bừng T́nh thương Thiêng liêng của Thượng Đế”. Lư tưởng được chọn theo có thể là trừu tượng, chẳng hạn như một đức tính; nó có thể là Thiên tính nơi con người; nó cũng có thể được nhân cách hóa là một Chơn sư hoặc một Đạo sư. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào th́ nó cũng có bản chất là nâng linh hồn lên cao hướng về cội nguồn thiêng liêng, là ham muốn của biệt ngă để hiệp nhất với Đại ngă.

    Thực phẩm đối với cuộc sống trên cơi trần ra sao th́  tham thiền đối với sinh hoạt tâm linh cũng như  vậy. Người biết tham thiền bao giờ cũng là người hữu hiệu nhất trên thế gian. Khi nói tới Cromwell, ngài Rosebery mô tả Cromwell là một “thần bí gia thực tiễn” và tuyên bố một thần bí gia thực tiễn là sức mạnh lớn lao nhất trên thế giới. Trí năng được tập trung và khả năng triệt thoái ra ngoài sự xáo động có nghĩa là tăng cường rất nhiều được nghị lực trong khi làm việc, có thêm sự kiên định, sự tự chủ và sự thanh thản. Người biết tham thiền là người không phí phạm thời gian, không phí hoài năng lượng, không bỏ lỡ cơ hội. Một người như thế khống chế được các biến cố bởi v́ bên trong y có một quyền năng mà các diễn biến chỉ là sự biểu hiện ra bên ngoài, y chia xẻ sự sống thiêng liêng và v́ vậy cũng chia xẻ quyền năng thiêng liêng.

    Như  ta đă nói trước kia, khi cái trí được giữ để duy tŕ theo một h́nh ảnh và khi Chủ thể  tri thức kiên định lặng ngắm nó th́ y đạt được sự hiểu biết đầy đủ hơn nhiều về đối tượng này so với khi chỉ đạt được nhờ vào bất kỳ sự mô tả nào bằng ngôn từ. Khi sự định trí được thực hiện th́ bức tranh được định h́nh trong thể Trí và sự định trí vào những đường nét đại khái suy ra chẳng hạn từ việc mô tả qua ngôn từ ắt bổ sung thêm càng ngày càng nhiều chi tiết khi tâm thức tiếp xúc mật thiết hơn với những sự vật được mô tả.

    Mọi tôn giáo đều khuyên ta nên tham thiền, mọi trường phái triết học đều công nhận là nên tham thiền. Cũng giống như một người muốn được khỏe mạnh ắt dùng những phép thể thao, thể dục được qui định để phát triển cơ bắp; cũng vậy học viên huyền bí sử dụng những phép luyện tập tham thiền được qui định chính xác để phát triển thể Vía và thể Trí.

    Cố  nhiên có nhiều loại tham thiền cũng như có  nhiều loại h́nh người; rơ ràng không thể có một phép tham thiền duy nhất thích hợp cho mọi người. Tham thiền có nhiều mục đích mà mục đích chính là như sau đây:

    [1] Nó bảo đảm được ít ra mỗi ngày một lần người ta đều nghĩ tới những chuyện cao siêu và  thánh thiện, rút tư tưởng ra khỏi cái chu tŕnh nhỏ mọn của sinh hoạt hằng ngày với những chuyện phù phiếm và bao nhiêu thứ rắc rối.

    [2] Nó làm cho người ta quen nghĩ tới vấn đề  ấy đến nỗi mà sau một thời gian th́ những vấn đề ấy tạo thành bối cảnh cho sinh hoạt hằng ngày của y, cái trí của y sẽ hân hoan trở về với bối cảnh ấy bất cứ khi nào nó được giải thoát khỏi những yêu cầu ngay trước mắt của công việc làm ăn.

    [3] Nó đóng vai tṛ một loại thể dục thể  thao cho cái trí và cái vía để giữ các thể cao này được lành mạnh, giữ cho luồng sinh khí tuôn chảy qua các thể ấy. Xét về mục đích này th́ ta nên nhớ rằng việc tập luyện đều đặn là quan trọng bậc nhất.

    [4] Ta có thể dùng tham thiền để tu tâm dưỡng tính, để đạt được đủ thứ đức tính và phẩm chất.

    [5] Nó nâng tâm thức lên tới những mức cao siêu để bao trùm được những sự vật cao siêu và tinh vi; nhờ tham thiền con người có thể vươn lên tới bản lai diện mục của Đấng Thiêng Liêng.

    [6] Nó cởi mở đối với thiên nhiên và triệu thỉnh được những sự ban phước từ các cơi cao.

    [7] Nó là phương cách – cho dẫu là một bước rụt rè đầu tiên trên con đường đi – dẫn tới sự phát triển cao siêu và tri thức rộng lớn hơn, để đạt được thần nhăn và rốt cuộc đạt tới sự sống cao siêu hơn hoàn toàn vượt quá cơi trần này.

    Tham thiền là phương pháp an toàn và dễ dàng nhất để phát triển được tâm thức cao siêu. Nhờ tham thiền, chắc chắn bất cứ ai trải qua thời gian cũng có thể lên tới Đức Thượng Đế hoặc Chơn sư, trước hết nâng ḿnh lên cơi trung giới rồi tới cơi trí tuệ. Tuy nhiên không ai biết chắc nó sẽ phải mất bao nhiêu lâu, v́ điều ấy hoàn toàn tùy thuộc vào quá khứ của học viên và những nỗ lực mà y đă thực hiện. Một người bận tâm tha thiết nghiên cứu những chuyện cao siêu th́ đă nhất thời được hoàn toàn nâng lên ra khỏi bản thân và tạo ra một h́nh tư tưởng mạnh mẽ trên cơi trí tuệ, nó được sử dụng ngay tức khắc để làm một kênh dẫn cho thần lực đang lởn vởn nơi thế giới ngay kế trên nó. Khi một đoàn thể người tụ họp lại cùng suy nghĩ với bản chất ấy th́ kênh dẫn mà họ tạo ra xét về mọi tỉ lệ đều lớn hơn về dung lượng so với tổng số các kênh dẫn riêng rẽ. V́ vậy, một đoàn thể người như thế là một sự ban phước vô giá cho cộng đồng mà nó hoạt động trong đó. Khi họ nghiên cứu về mặt trí thức, th́ họ có thể là nguyên nhân khiến cho thần lực tuôn đổ vào cơi hạ trí mà thần lực này b́nh thường chỉ thuộc về cơi thượng trí. Nếu tư tưởng của họ có liên quan tới luân lư và sự phát triển của linh hồn ở những phương diện cao siêu th́ họ có thể tạo ra một kênh dẫn cho một tư tưởng cao siêu hơn nữa, thông qua đó thần lực của cơi bồ đề có thể giáng xuống cơi trí tuệ.

    Như  vậy, họ có thể gây ra ảnh hưởng được tỏa chiếu lên nhiều người vốn tuyệt nhiên không hề  cởi mở với tác động của thần lực ấy nếu nó vẫn c̣n ở mức nguyên thủy. Đây quả thật là chức năng vĩ đại nhất và  đích thực, chẳng hạn như một Chi bộ của Hội Thông Thiên Học - ắt cung ứng một kênh dẫn để phân phối Sự Sống Thiêng Liêng. Đó là mọi Chi bộ của Hội Thông Thiên Học đều là một trung tâm để cho các Chơn sư Minh triết và đệ tử các ngài chú ư tới; v́ vậy tư tưởng của các thành viên của Chi bộ khi dấn thân vào việc nghiên cứu, thảo luận v.v. . . có thể thu hút sự chú tâm của các Chơn sư, bấy giờ một thần lực được tuôn đổ ra đạt mức cao siêu hơn nhiều so với bất cứ thứ ǵ thoát thai từ chính các thành viên Chi bộ.

    Chúng tôi xin nhắc các hội viên Thông Thiên Học nhớ rằng Tiến sĩ Besant có phát biểu cho biết Chơn sư có dạy rằng khi một người gia nhập Hội Thông Thiên Học th́ y đă liên kết với các Chơn sư qua một tuyến sinh lực nhỏ xíu. Tuyến này là đường liên kết từ khí với Chơn sư; nhờ nỗ lực vất vả, sùng tín và phụng sự vị tha, học viên có thể củng cố và mở rộng tuyến này cho đến khi nó trở thành một đường ánh sáng sinh động. Người ta cũng có thể triệu thỉnh sự ban phước từ một nguồn c̣n cao hơn nữa. Sự Sống và Ánh Sáng của Đấng Thiêng Liêng tràn ngập trọn cả Thái dương hệ; c̣n thần lực ở mỗi cảnh hoặc mỗi cơi b́nh thường chỉ hạn chế vào cảnh hoặc cơi này thôi. Tuy nhiên nếu ta chuẩn bị một kênh dẫn đặc biệt cho nó th́ nó có thể giáng xuống và soi sáng cho một cảnh thấp hơn. Một kênh dẫn như thế thường được cung ứng bất cứ khi nào có một tư tưởng hoặc một xúc cảm hoàn toàn mang tính cách vị tha. Xúc cảm vị kỷ chuyển động theo một đường cong khép kín và như vậy nó cứ chạy ṿng ṿng trên cảnh của riêng ḿnh. Một xúc động cực kỳ vị tha là sự bùng nổ năng lượng một đi không trở lại, nhưng khi chuyển động hướng lên trên, nó cung ứng một kênh dẫn để cho Năng lượng thiêng liêng từ cảnh ngay kế trên nó tuôn xuống. Chính sự thực này là nền tảng của ư niệm về việc hễ cầu nguyện th́ sẽ được đáp ứng.

    Đối với người có thần nhăn th́ y thấy kênh dẫn này là một xoáy lực lớn thuộc loại h́nh trụ hoặc h́nh phễu khổng lồ. Đây là cách giải thích gần nhất mà ta có thể tŕnh bày trong cơi trần, nhưng nó không được thỏa đáng bởi v́ khi thần lực tuôn xuống qua kênh dẫn th́ bằng cách nào đó nó tạo ra một xoáy lực làm xuất phát những đặc trưng riêng biệt nhuốm màu sắc ấy và gây ảnh hưởng biểu lộ qua cái mà kênh dẫn đă tạo ra. Khi tham thiền, thể Trí và thể Vía của con người dần dần từ hỗn loạn trở nên trật tự, bành trướng từ từ rồi dần dần học cách đáp ứng với những rung động càng ngày càng cao siêu hơn. Mỗi nỗ lực đều giúp làm mỏng bớt bức màn che ngăn cách y với cơi cao và hiểu biết trực tiếp (trực giác). Hết ngày này sang ngày khác h́nh tư tưởng của y trở nên xác định hơn sao cho càng ngày càng có nhiều sự sống từ bên trên tuôn đổ vào đó.

    Như  vậy, tham thiền giúp ta xây dựng các loại vật chất cao siêu vào trong các hiện thể. Nó thường giúp ta trải nghiệm được những xúc động cao thượng vốn bắt nguồn từ mức bồ đề rồi được phản chiếu xuống thể Vía. Hơn nữa, thể hạ trí và thể nguyên nhân cũng cần được phát triển để mang lại sự kiên định và quân b́nh; bằng không th́ những xúc động thanh bai vốn lôi cuốn con người đi đúng hướng lại rất có thể dễ trở thành hơi méo mó đi một chút để rồi lôi cuốn y đi theo những đường lối quá khích cực đoan không đáng mong muốn. Chỉ có xúc cảm không thôi th́ chẳng bao giờ ta đạt được sự kiên định quân b́nh toàn bích. Quyền năng dẫn dắt của cái trí và chỉ đạo của ư chí cũng cần thiết chẳng kém ǵ động cơ thúc đẩy của xúc động.

    Khi thực hành tham thiền, học viên có thể thấy cần biết tới năm tŕnh độ của cái trí theo như Patanjali xiển dương. Tuy nhiên y nên nhớ rằng năm tŕnh độ này không hạn chế chỉ vào cơi trí tuệ mà tồn tại dưới một dạng thích hợp trên mọi cơi. Đó là:

    [1] Kshipta: cái trí bay lượn như con bướm, thường xuyên nhảy nhót từ đề tài này sang đề tài khác. Nó tương ứng với hoạt động trên cơi trần.

    [2] Mudha: giai đoạn rối trí, trong đó con người bị xúc  động lôi kéo gây ra bối rối; nó tương ứng với hoạt động trên cơi trung giới.

    [3] Vikshipta: trạng thái bận tâm hoặc mê say về một  ư tưởng; ta có thể nói ư tưởng ám ảnh hoặc chiếm hữu con người. Giai đoạn này tương ứng với hoạt động nơi cơi ha trí. Con người nên học Viveka (Xem trang 294) vốn có liên quan tới khía cạnh Nhận biết của tâm thức.

    [4] Ekagrata: (Nhất tâm), trạng thái con người chiếm hữu  được ư tưởng thay v́ bị ư tưởng chiếm hữu. Điều này tương ứng với hoạt động trên cơi thượng trí. Ở đây con người nên học Vairagya (Xem trang 295) vốn có liên quan tới khía cạnh Hoạt động của tâm thức.

    [5] Niruddha: (Tự chủ), vượt lên trên mọi ư tưởng, con người tùy chọn lựa theo Ư chí đă giác ngộ  của ḿnh. Điều này tương ứng với hoạt động trên cơi bồ đề. Ở đây con người nên học Shatsampatti (Xem trang 294) vốn có liên quan tới khía cạnh Ư chí của tâm thức.

    Khi đă hoàn toàn tự chủ rồi sao cho ḿnh có thể  ức chế mọi biến động của cái trí th́  con người đă sẵn sàng nhập Samadhi, tương ứng với Nhập  định mà sẽ bàn tới đầy đủ hơn ở  Chương kế tiếp. Trong khi chờ đợi để cho được hoàn chỉnh ta nên tŕnh bày ở đây một ư niệm sơ khởi về Samadhi. Xét theo từ nguyên (Tam muội = Samadhi) có nghĩa là “được ghép lại đầy đủ với nhau”, v́ vậy có thể dịch sang tiếng Việt là “gộp cái trí lại”, nghĩa là tom góp nó lại hoàn toàn, kiểm soát được mọi sự đăng trí. Vyasa dạy rằng “yoga là cái trí thanh thản”. Đây là nghĩa gốc của Tam muội, mặc dù người ta thường dùng nó để biểu thị trạng thái xuất thần vốn là kết quả tự nhiên của sự thanh thản toàn bích. Samadhi có hai loại: (1)- Samprajnata Samadhi nghĩa là Samadhi có ư thức, ư thức được xoay chuyển ra bên ngoài hướng về các đối tượng. (2)- Asamprajnata Samadhi nghĩa là Samadhi vô thức, ư thức xoay chuyển vào trong nội tâm, triệt thoái vào trong bản thân sao cho nó được chuyển sang một hiện thể cao hơn ngay kế nó. Để tiện việc tham khảo, ta tŕnh bày hai sự kiện này dưới dạng bảng biểu ở trang 146. Học viên cũng có thể muốn có việc liệt kê ngắn gọn bốn Trạng thái của cái Trí được khoa Yoga đề cập tới. Đó là:

    [1] Jagrat: ư thức tỉnh táo.

    [2] Svapna: tâm thức mơ mộng, tâm thức hoạt động trong thể Vía và có thể ghi khắc những kinh nghiệm của ḿnh lên bộ óc.

    [3] Sushupti: tâm thức lúc ngủ say, hoạt động trong thể Trí và không thể ghi khắc những kinh nghiệm của ḿnh lên bộ óc phàm.

    [4] Turiya: tâm thức xuất thần, tách rời xa bộ óc đến nỗi dùng phương tiện ngoại giới không thể dễ dàng triệu hồi nó về được. 

S

 
Các tŕnh độ ca cái trí

Đc tính cần đt

Khía cạnh của tâm thức

Bc phạn

Tiếng Việt

1

Kshipta

 
Cái trí bay lượn như con bướm

 

--------------

 

-------------

2

Mūdha

Bi ri

 

 

3

Vishipta

Mê say

 Viveka

(phân biện)

Nhận biết

4

Ekāgrata

Nhất tâm

 Vairāgya

(vô dc)

Hoạt động

5

Niruddha

T ch

Shatsampatti

(sáu đức tính của cái trí)

Ư chí

6

Samādhi

Thanh thản của cái trí, dẫn tới s xuất thần


-------------


----------

 

    Tuy nhiên ta nên lưu ư rằng bốn trạng thái tâm thức  này đều tồn tại trên mọi cơi. Bảng sau đây nêu ví dụ về bốn trạng thái của ư thức trên cơi trần và sắp xếp nó dưới dạng bảng biểu để được gọn ghẽ và trong sáng. 

BỐN TRẠNG THÁI TÂM THỨC

Tiếng Bắc phạn

Tiếng Việt

Các ví dụ  trong ư thức trên cơi trần

Jāgrat

Tỉnh táo

Đọc một quyển sách

Nh́n một chiếc đồng hồ

Svapna

Mơ mộng

Nhận thực được ư  nghĩa của các từ ngữ

Tưởng tượng ra một chiếc  đồng hồ

Sushupti

Ngủ say

Tiếp xúc với cái trí của người viết sách

Quan niệm ra một chiếc  đồng hồ lư tưởng

Turiya

Xuất thần

Thâm nhập vào cái trí của người viết sách

Chuyển sang ư niệm về  thời gian trừu tượng

 

    Ta cũng nên lưu ư rằng những từ ngữ này chỉ tương đối thôi; vậy là đối với hầu hết mọi người, Jagrat tức ư thức tỉnh táo là  một bộ phận của tâm thức toàn thể vốn  đang hoạt động qua bộ óc và hệ thần kinh, nó dứt khoát là tự ư thức được. Chúng ta có thể nghĩ rằng tâm thức là một quả trứng lớn ánh sáng mà chỉ có một đầu mút đút vào trong bộ óc; đầu mút ấy chính là ư thức tỉnh táo. Nhưng khi tự ư thức (ư thức ḿnh là bản ngă) đă phát triển được trên cơi trung giới và bộ óc đă phát triển đúng mức để đáp ứng được các rung động của cơi trung giới th́ tâm thức trên cơi trung giới trở thành một bộ phận của ư thức tỉnh táo; lúc bấy giờ tâm thức trên cơi hạ trí lại trở thành Svapna tức là tâm trạng mơ mộng.

    Cũng giống như vậy, khi tự ư thức đă phát triển trên cơi hạ trí và bộ óc đă  đáp ứng được với cơi hạ trí th́ ư  thức tỉnh táo cũng bao gồm cả tâm thức hạ trí. Và cứ tiếp tục như thế cho đến khi trọn cả tâm thức trên năm cơi đều được bao hàm trong ư thức tỉnh táo. Muốn mở rộng ư thức tỉnh táo như vậy th́ cần phải phát triển các nguyên tử của bộ óc cũng như phát triển một vài cơ quan trong bộ óc và các mối nối giữa những tế bào. Muốn bao hàm tự ư thức trên cơi trung giới th́ ta phải phát triển tuyến Yên và hoàn chỉnh được tập hợp loa tuyến thứ tư trong các nguyên tử. Muốn bao hàm được tự ư thức trên cơi hạ trí th́ tuyến Tùng phải bước vào hoạt động và tập hợp loa tuyến thứ năm trong các nguyên tử phải tác động rốt ráo. Nếu ta chưa thành tựu được những sự phát triển này nơi xác phàm th́ tâm thức cơi trung giới và tâm thức cơi hạ trí vẫn c̣n là siêu thức và chưa biểu hiện được qua bộ óc.

    Lại nữa, nếu một người không có xác phàm th́ Jagrat tức ư thức tỉnh táo của y chính là ư  thức trên cơi trung giới. Như vậy định nghĩa mở rộng hơn của Jagrat là: Jagrat tức ư thức tỉnh táo là cái bộ phận của tâm thức toàn thể vốn đang hoạt động thông qua hiện thể ở ngoài cùng.

    Ta cũng có thể xét lại Samadhi theo quan điểm của sự phân tích nêu trên. Samadhi là một trạng thái tâm thức trong đó thể xác không nhạy cảm nhưng cái trí hoàn toàn hữu ngă thức và từ đó cái trí trở lại óc phàm mà vẫn nhớ được những trải nghiệm siêu trần thế của ḿnh.

    Nếu một người ở trong trạng thái xuất thần và hoạt  động trên cơi trung giới th́ Samadhi của y trên cơi trung giới. C̣n nếu y hoạt động trên cơi trí tuệ th́ Samadhi của y cũng ở trên cơi ấy. Như vậy người nào có thể thực hành Samadhi đều có thể triệt thoái ra khỏi thể xác để cho nó vô tri vô giác trong khi cái trí hoàn toàn hữu thức. V́ vậy Samadhi là một thuật ngữ hoàn toàn tương đối. Do đó một Chơn sư bắt đầu Samadhi trên cơi Atma rồi từ đó vươn lên tới các cơi vũ trụ cao hơn.

    Từ  ngữ Samadhi đôi khi cũng được dùng để biểu thị  t́nh trạng vượt ngoài tầm mức mà một người c̣n có thể giữ được ư thức. Như vậy đối với một người dă man, mà ư thức rơ rệt trên cơi hồng trần th́ cơi trung giới ắt là Samadhi. Điều này có nghĩa là khi người ấy trở lại các hạ thể của ḿnh, th́ y ắt mang theo ḿnh không được một kiến thức xác định bổ sung nào và cũng không có khả năng mới mẻ nào để làm bất cứ một điều ǵ hữu dụng. Loại Samadhi này không được khuyến khích trong các trường phái huyền bí học cao nhất. Đi ngủ và nhập Samadhi phần lớn là cùng một quá tŕnh; nhưng trong khi đi ngủ là do t́nh huống thông thường và không có ư nghĩa th́ nhập Samadhi lại là do tác động của ư chí đă được rèn luyện và là một quyền năng vô giá. Những phương tiện trên cơi trần để gây ra sự xuất thần, chẳng hạn như thôi miên, dùng ma túy, nh́n đăm đăm vào một chấm đen trên một nền trắng hoặc nh́n chăm chú vào chóp mũi cũng như những phép thực hành tương tự khác nữa, đều thuộc về phương pháp Hatha Yoga và chẳng bao giờ được sử dụng trong khi Raja Yoga. Đối với một người có thần nhăn th́ sự khác nhau giữa một đối tượng bị thôi miên mesmer và sự xuất thần do chính một đạo sĩ Yoga tự gây ra th́ nh́n vào là thấy rơ ngay. Nơi một đối tượng bị thôi miên hoặc thôi miên mesmer th́ mọi “nguyên khí” đều có mặt, thượng trí bị tê liệt, bồ đề bị cắt rời khỏi nó do sự tê liệt ấy, c̣n thể vía hoàn toàn tuân phục hạ trí và kama. Mặt khác, nếu xét về đạo sĩ yoga th́ các “nguyên khí” của tứ nguyên hạ lại hoàn toàn biến mất, ngoại trừ những rung động khó ḷng nhận ra được của prana có màu hoàng kim và một ngọn lửa màu tím có sọc hoàng kim bốc lên từ trên đầu rồi đạt đỉnh cao nơi một điểm nào đó. Người bị thôi miên hoặc thôi miên mesmer không nhớ lại được ǵ trong bộ óc ḿnh về những sự trải nghiệm, c̣n đạo sĩ yoga lại nhớ được mọi chuyện đă xảy ra cho ḿnh. Một vài ví dụ thực tiễn có lẽ sẽ minh họa hay ho nhất cho một số phương pháp sử dụng trong lúc tham thiền.

    Học viên nên bắt đầu bằng cách trau dồi tư tưởng cho đến khi thể xác có thói quen là một công cụ của tinh thần, y nên nghĩ tới thể xác, về cách thức để có thể kiểm soát và  điều khiển được nó, thế rồi y nên tách rời tư tưởng ḿnh ra với nó, thật vậy chối bỏ nó. Kế đó, sau khi nhận thức được rằng ḿnh có thể kiểm soát được xúc động và dục vọng th́ y nên chối bỏ thể Vía với những ham muốn và xúc động; thế rồi khi h́nh dung ḿnh ở thể hạ trí và lại suy gẫm rằng ḿnh có thể kiểm soát và điều khiển được tư tưởng th́ y nên chối bỏ cái trí, rồi để cho ḿnh bay vút lên tới tận bầu hào quang tự do của tinh thần nơi có sự an b́nh đời đời; sau khi ở lại đó trong một lúc y nên phấn đấu hết sức ḿnh ngộ ra rằng Đó là Chơn Ngă. Khi lại giáng xuống tâm thức, y nên cố gắng mang theo ḿnh sự an b́nh của tinh thần nhập vào các hiện thể khác nhau.

    C̣n một phép thực hành khác là nên điều khiển buổi tham thiền để tu tâm dưỡng tính, chọn lựa v́  mục đích có một đức tính, chẳng hạn như tính vô hại. Sau khi ta đă tập trung sự chú ư th́ ta nên nghĩ về đề tài này xét theo nhiều khía cạnh, nghĩa là tính vô hại về hành vi, về lời nói, về tư tưởng, về ham muốn; làm thế nào biểu hiện được tính vô hại trong sinh hoạt của con người lư tưởng; làm thế nào mà nó ảnh hưởng tới sinh hoạt hằng ngày của ḿnh; ḿnh đối nhân xử thế ra sao nếu ḿnh đă hoàn toàn đạt được đức tính ấy v.v. . .

    Sau khi đă tham thiền như vậy về tính vô hại th́ y nên mang theo vào trong sinh hoạt hằng ngày một tâm trạng sao cho chẳng bao lâu sau nó sẽ biểu hiện qua mọi hành động và tư tưởng của y. Những phẩm tính khác, dĩ nhiên cũng có thể được xử trí tương tự. Một vài tháng nỗ lực tha thiết theo những đường lối ấy ắt tạo ra những sự thay đổi kỳ diệu trong sinh hoạt của một người đă được miêu tả qua những lời lẽ đáng ghi nhớ của Plotinus: “Bạn hăy triệt thoái vào nơi bản thân rồi nh́n xem và nếu cho đến nay bạn chưa thấy ḿnh tuyệt đẹp th́ hăy làm như người sáng tạo ra một pho tượng sao cho nó được đẹp đẽ; người ấy cắt ở đây một miếng, làm bằng ở kia một mảnh, rồi tạo ra đường nét thanh bai hơn, chỗ khác th́ lại trong sạch hơn cho đến khi một khuôn mặt tuyệt đẹp hiện ra trên bức tượng. Bạn cũng làm như vậy; hăy cắt bỏ đi những ǵ quá lố, hăy làm cho ngay thẳng lại tất cả những ǵ cong queo, mang lại ánh sáng cho tất cả những ǵ mờ tối, lao động vất vả để cho mọi thứ đều lóe lên vẻ đẹp và đừng ngưng đục đẽo pho tượng của ḿnh cho đến khi lóe ra tia rực rỡ giống như thần linh của đức tính, cho đến khi bạn ắt thấy sự tốt đẹp tối hậu đă được xác lập vững chắc trên bàn thờ không c̣n t́ vết (Plotinus bàn về Vẻ Mỹ Lệ, bản dịch của Stephen Mackenna).

    Như  vậy sự tham thiền về một đức tính khiến cho con người dần dần tăng trưởng đến mức sở  hữu đức tính ấy; Kinh điển Ấn độ có dạy rất hay ho như sau: “Một người nghĩ tới cái ǵ th́ y sẽ trở thành cái đó; v́ vậy hăy nghĩ tới Đấng Vĩnh Hằng”. Và lại nữa: “Con người sáng tạo ra tư tưởng”.

    Có  một ví dụ rất hay về điều mà ta có  thể thực hiện theo kiểu này bằng cách tham thiền, đó là có một người nào đấy trong ṿng 40 năm, ngày nào cũng tham thiền về chơn lư; kết quả là y đă chỉnh hợp với phương thức của chơn lư đến nỗi y biết khi một người đang nằm th́ cái b́nh rớt xuống y ra sao. Có xảy ra việc một người là một thẩm phán th́ khả năng của y ắt thuận lợi cho ḿnh rất nhiều.

    Trong công việc này, người ấy đang sử dụng óc tưởng tượng - là một công cụ vĩ đại nhất trong khoa Yoga. Nếu người ấy tưởng tượng trong suy nghĩ  là ḿnh có một đức tính nào đó th́  y đă thành công tới một nửa để sở hữu đức tính ấy; nếu y tưởng tượng ḿnh không c̣n mắc phải một khiếm khuyết nào đó th́ y đă thành công một nửa trong việc thoát khỏi khiếm khuyết ấy. Óc tưởng tượng lăo luyện là một vũ khí sắc bén mà người ta có thể sử dụng để dẹp bỏ hết một nửa những chuyện rắc rối và sai sót của ḿnh. Ta không nên suy đi gẫm lại về những điều thiếu sót v́ nó có khuynh hướng khuyến khích t́nh trạng bệnh hoạn và buồn rầu chán nản vốn đóng vai tṛ một bức vách khép kín mọi ảnh hưởng tâm linh. Trên thực tế ta nên lờ đi những khiếm khuyết trong bẩm tính của ḿnh đến mức tối đa và chỉ tập trung vào việc xây dựng những đức tính ngược lại. Thành công trong sinh hoạt tâm linh không phải do ta đấu tranh kịch liệt với bản chất thấp hèn mà là do ta gia tăng sự hiểu biết và đánh giá cao những chuyện cao thượng. Đó là v́ một khi ta đă trải nghiệm đầy đủ sự cực lạc và hoan hỉ của cuộc sống cao siêu th́ khi đối chiếu tương phản với nó những ham muốn thấp hèn sẽ mờ nhạt đi và mất hết sức hấp dẫn. Một bậc đại Đạo sư có dạy rằng h́nh thức hối hận tốt nhất về việc phạm tội là hướng về phía trước với ḷng can đảm đầy hi vọng kết hợp với quyết tâm sắt đá không phạm tội trở lại một lần nữa.

    Kế  đó ta hăy giả sử rằng mục đích của việc tham thiền là t́m hiểu bằng cái trí về một  đối tượng cũng như mối quan hệ của đối tượng ấy với những đối tượng khác. Học viên nên nhớ lại rằng công việc đầu tiên của Chủ thể tri thức là quan sát chính xác, v́ tư tưởng tùy thuộc vào tính chính xác của việc quan sát ấy, nếu sự quan sát không chính xác th́ do sai lầm sơ khởi ấy ắt nảy sinh ra một số sai lầm tiếp sau mà không điều ǵ có thể chỉnh đốn lại được, ngoại trừ việc phải trở lại từ đầu. Sau khi đối tượng đă được quan sát kỹ lưỡng như thế th́ ta tác động luồng tư tưởng lên nó sao cho có thể lĩnh hội được nó về đủ mọi khía cạnh tự nhiên, siêu trần thế và siêu h́nh, ta phải  thực hiện nỗ lực này một cách hoàn toàn minh bạch và xác định đối với mức tâm thức vẫn c̣n lờ mờ. Chẳng hạn như đề tài là sự hài ḥa. Ta hăy xét nó liên quan tới đủ thứ giác quan theo nhiều nghĩa; xét nó về âm nhạc, về màu sắc, về nhiều hiện tượng thuộc đủ loại khác nhau; ta hăy t́m cách khám phá ra những đặc điểm chính yếu của sự hài ḥa để xem nó khác với những ư tưởng tương tự và ư tưởng tương phản ở chỗ nào, nó đóng vai tṛ ǵ trong sự nối tiếp của các diễn biến; nó có công dụng ra sao; nếu không có nó th́ kết quả sẽ như thế nào. Sau khi đă trả lời tất cả những thắc mắc này và nhiều thắc mắc nữa th́ ta nên cố gắng bỏ đi mọi h́nh ảnh cụ thể hoặc tư tưởng cụ thể và trong tư tưởng của ta chỉ giữ lại ư niệm trừu tượng về sự hài ḥa.

    Học viên phải nhớ rằng nh́n bằng cái trí cũng hoàn toàn có thực và thỏa đáng như nh́n bằng mắt trần. Như vậy ta có thể rèn luyện cho cái trí nh́n thấy chẳng hạn như ư niệm về  sự hài ḥa hoặc căn bậc hai của số hai cũng rơ rệt và chắc chắn như khi người ta nh́n thấy một cái cây hoặc một cái bàn bằng mắt phàm. Xét về ví dụ thứ ba, chúng tôi xin chọn một sự tham thiền sùng tín. Ta hăy nghĩ tới con người lư tưởng là Chơn sư hoặc nếu muốn ta có thể chọn đấng thiêng liêng hoặc bất kỳ biểu lộ nào đó của đấng thiêng liêng. Ta hăy để cho tư tưởng tác động lên đối tượng từ nhiều khía cạnh khác nhau sao cho nó thường xuyên khơi dậy sự hâm mộ, ḷng biết ơn, sự kính cẩn, ḷng sùng bái. Ta hăy suy gẫm về mọi đức tính biểu hiện qua đề tài này và xét mỗi đức tính với đủ mọi khía cạnh và đủ mọi mối quan hệ.

    Nói chung là một lư tưởng trừu tượng và một nhân cách đều tốt như nhau xét tùy mục đích tham thiền. Một người có tính khí trí thức thường thấy lư tưởng trừu tượng thỏa đáng hơn; một người có tính khí xúc động ắt đ̣i hỏi một hiện thân cụ thể cho tư tưởng của ḿnh. Nhược điểm của lư tưởng trừu tượng là nó thường không đạt được mức cưỡng chế ta có nhiều hoài băo; nhược điểm của hiện thân cụ thể là nó thường thấp kém hơn lư tưởng.

    Ở đây ta hăy đặc biệt chú ư tới kết quả của việc tham thiền về Chơn sư, nó tạo ra một mối liên kết nhất định với Chơn sư mà một nhà thần nhăn nh́n thấy nó biểu hiện thành một loại tuyến ánh sáng. Trong tiềm thức, Chơn sư luôn luôn cảm nhận được tác động của một tuyến như thế; ngài gửi dọc theo nó để đáp ứng lại bằng một luồng từ khí kiên định vốn tiếp tục tác động rất lâu sau khi buổi tham thiền đă qua rồi. Nếu ta dùng một bức tranh để tham thiền th́ ta thường có thể quan sát thấy nó thay đổi về biểu hiện. Điều này xảy ra v́ ta có thể rèn luyện ư chí để tác động trực tiếp lên vật chất trên cơi trần, những hạt có thật trên cơi trần chắc chắn chịu ảnh hưởng của quyền năng tư tưởng lâu bền mạnh mẽ.

    Ta có thể tŕnh bày một dạng tham thiền khác nghĩa là tham thiền thần chú. Một thần chú là một sự nối tiếp nhất định các âm thanh được huyền bí gia sắp xếp lại để tạo ra một vài kết quả nhất định. Những âm thanh này được lập đi lập lại theo đúng tiết điệu và nối tiếp nhau ắt làm đồng bộ những rung động của các hiện thể khiến cho chúng hiệp nhất lại. Như vậy, một thần chú là một phương cách máy móc để kiểm soát các rung động hoặc cảm ứng các rung động theo như mong muốn. Hiệu lực của nó c̣n tùy thuộc vào cái gọi là rung động đồng cảm. (Xem quyền Thể Vía trang 157-158). Ta càng lập lại một thần chú th́ kết quả lại càng mạnh mẽ. V́ thế cho nên việc lập lại các công thức của Giáo hội mới có giá trị, kinh mân côi khiến cho tâm thức có thể được tập trung trọn vẹn về điều được nói ra hoặc nghĩ ra mà không bị xao lăng do nhiệm vụ đếm số thứ tự.

    Trong phương pháp tham thiền này được thực hành phần lớn  ở Ấn Độ, tín đồ điều khiển tâm trí ḿnh chẳng hạn như hướng về Shri Krishna, hiện thân của Thượng Đế, Chơn linh Bác ái và  Tri thức trên trần thế. Người ta chọn một câu rồi ngâm  đi ngâm lại thành một thần chú trong khi chăm chú suy gẫm về đủ thứ ư nghĩa sâu xa của nó. Vậy là tín đồ đă khiến cho ḿnh tiếp xúc với Chính Đấng Thế Tôn. Điều nêu trên tạo thành bảng phác họa ngắn gọn nhất về một vài dạng tham thiền. Muốn có sự mô tả chi tiết thêm nữa, học viên nên tham chiếu quyển cẩm nang tuyệt vời về sự Định Trí của Ernest Wood, quyển Tham Thiền dành cho kẻ Sơ cơ của J. I. Wedgwood và những chương đáng hâm mộ về sự Kiểm soát Tư tưởng và việc Tu tâm Dưỡng tính trong quyển Trước thềm Thánh điện của Tiến sĩ Besant.

    Trong quyển Tiên mắc đọa của Tiến sĩ văn chương J.J. van der Leeuw có tŕnh bày một bài “Tham Thiền về Chơn ngă” tuyệt vời ở phần Lời bạt vào cuối tập sách nhỏ đáng hâm mộ ấy. Nhiều người hằng ngày tham thiền thôi mà cũng thành công, nhưng khả năng đó sẽ lớn hơn nhiều nếu một nhóm người định trí về cùng một đề tài. Việc này tạo nên một ứng xuất trong chất ether trên cơi trần cũng như trên cơi trung giới và cơi trí tuệ, đó là một đường xoắn lại theo hướng mà chúng ta mong muốn. Vậy là thay v́ phải chiến đấu chống lại môi trường xung quanh như thông lệ ta lại thấy môi trường xung quanh quả thật hữu dụng, dĩ nhiên mọi người có mặt đều thành công trong việc giữ cho cái trí ḿnh đừng đi lang thang. Một cái trí lang thang tâm viên ư mă như vậy trong nhóm đó chận đứng ḍng tư tưởng lại sao cho thay v́ có một khối tư tưởng khổng lồ di chuyển thành một cơn lũ mạnh mẽ th́ trong đó lại có những đợt sóng ngầm giống như những tảng đá làm cho nước trong một ḍng sông phải chuyển hướng.

    Một ví dụ nổi bật về khả năng ghê gớm của việc tham thiền tập thể và tư duy tập thể chính là ngày hội mừng lễ Kim Cương của Nữ hoàng Victoria. Ông C. W. Leadbeater mô tả dịp ấy là một trong những biểu lộ thần lực huyền bí kỳ diệu nhất mà ông đă từng chứng kiến. Đám đông trở nên phấn khởi đến nỗi thiên hạ bị xúc động đến mức xuất thần, vậy là trải nghiệm một sự nâng cao tâm hồn ghê gớm. Một tác dụng tương tự trên qui mô nhỏ hơn cũng có thể được tạo ra do sự tham thiền tập thể.

    Bây giờ ta hăy xét tới những điều bổ sung về tham thiền thuộc cơi trần. Trong việc tham thiền, tư thế đâu phải là không quan trọng. Ta nên để thể xác ở trong tư thế dễ chịu rồi quên nó đi. Nếu thể xác cảm thấy không thoải mái th́ ta không thể quên nó được và nó thường xuyên khiến ta phải chú ư tới nó.

    Hơn nữa, cũng giống như một vài tư tưởng và xúc động có khuynh hướng biểu hiện qua những chuyển động và cử động đặc trưng của thể xác; cũng giống như vậy khi đảo ngược quá tŕnh này, các tư thế của thể xác cũng có thể có khuynh hướng làm cảm ứng ra các tâm trạng và trạng thái xúc động, vậy là trợ giúp cho học viên kiên tŕ với các tâm trạng ấy. Đại đa số người Tây phương ắt thấy thoải mái nhất khi ngồi trong một ghế dựa, lưng đừng thoai thoải quá, bàn tay có thể nắm lại để trên cẳng chân hoặc gác nhẹ lên đầu gối. Bàn chân có thể chụm lại hoặc vắt bàn chân phải nằm trên bàn chân trái. Việc khóa cứng đầu mút của cơ thể giúp ta ngăn ngừa từ khí tuôn ra nơi đầu ngón chân đầu ngón tay v.v. . . Tư thế nên thoải mái và thư giản, đầu đừng gục xuống cằm mà hơi giữ cho thăng bằng một chút, mắt nhắm kín, miệng khép lại, cột sống thẳng đứng (có nhiều ḍng từ khi chạy dọc theo cột sống).

    Người phương Đông thường ngồi theo thế kiết già trên sàn nhà hoặc trên một ghế đẩu thấp, tư  thế này nghe nói hữu hiệu hơn bởi v́ bất cứ  từ khí nào được phóng thích ra đều có khuynh hướng bốc lên xung quanh cơ thể thành một lớp bảo vệ.

    Khi xác định tư thế tham thiền ta c̣n phải xét tới một yếu tố khác là khả năng mất  ư thức trên cơi trần. Người Ấn Độ ngồi trên sàn nhà chỉ ngă người về phía đằng sau mà không làm cơ thể bị tổn thương; người nào tham thiền ngồi trên một ghế dựa nên dùng một cái ghế bành để cho trường hợp thể xác mất ư thức th́ họ không thể té ra khỏi cái ghế. Ngoại trừ những trường hợp rất hiếm có th́ không chọn theo tư thế thiền nằm, bởi v́ nó có khuynh hướng tự nhiên khiến ta ngủ thiếp đi trong lúc thiền. Trước khi thiền mà tắm nước lạnh hoặc đi bộ mau mắn th́ rất hữu ích để khắc phục khuynh hướng máu chảy lờ đờ vốn rơ rệt là gây tổn hại cho bộ óc. Có một mối liên hệ mật thiết giữa việc thiền sâu và thở sâu. Trong việc thực hành, người ta thấy rằng khi cơ thể được hài ḥa lúc tham thiền th́ nhịp thở cũng sâu hơn, đều đều và có nhịp điệu cho đến khi nó từng bước trở nên chậm chạp và yên tĩnh đến nỗi ta hầu như không nhận ra được. Hatha Yoga đảo ngược quá tŕnh này bằng cách cố ư điều tiết hơi thở để t́m cách làm hài ḥa những chức năng của cơ thể và cuối cùng làm cho cái trí tác động hài ḥa. Tuy nhiên học viên nên coi chừng đừng thực hành bừa băi những phép luyện hơi thở; tốt hơn y nên học cách kiểm soát tư tưởng theo đường lối của Raja Yoga để cho nỗ lực tham thiền gây tác dụng tự nhiên lên thể xác. Trong khi một số phép điều tức là cực kỳ nguy hiểm, ta vẫn không phản đối việc thở sâu đơn giản miễn là đừng gây căng thẳng thái quá cho phổi và tim, và đừng toan tính tập trung tư tưởng lên đủ thứ trung tâm lực tức luân xa trong cơ thể. Nhang thơm cũng hữu ích v́ nó có khuynh hướng tẩy trược bầu không khí xét theo quan niệm huyền bí. Học viên cũng có thể được trợ lực nhờ có những màu sắc đẹp đẽ, hoa và những bức tranh bày xung quanh ḿnh cùng với những phương tiện khác nhằm nâng cao tâm trí và xúc cảm. Y cũng thấy việc tuân theo một vài phép tiết thực (Xem quyển Thể Vía trang 65) thật là hữu ích và nếu có thể được v́ không gây hại cho sức khỏe th́ nên kiêng thịt cá và rượu. Nếu người ta uống rượu th́ việc tham thiền ắt gây ra những triệu chứng bị viêm trong bộ óc, đặc biệt ảnh hưởng tới tuyến Yên (Xem quyển Thể Vía trang 66).

    Sáng sớm có lẽ là lúc thuận lợi nhất để tham thiền v́ ham muốn và xúc động thường b́nh yên hơn sau khi ngủ và trước khi con người dấn thân bon chen trên trần thế. Nhưng nếu ta chọn bất cứ thời gian nào th́ cũng phải chắc chắn rằng lúc đó không bị quấy rầy. Hơn nữa ta có nêu rơ là thời khoảng luôn luôn phải cùng một lúc v́ tính đều đặn là cốt lơi của phép tham thiền này. Các tín đồ thời xưa đă chọn những thời khắc là lúc mặt trời mọc, lúc đúng ngọ và lúc mặt trời lặn v́ đây là những giờ khắc thuận lợi nhất về từ khí. Ta cũng nên trau dồi thói quen hướng tâm trí trong một lúc nào đó vào mỗi tiếng đồng hồ trong ngày hăy thực chứng ḿnh là Chơn nhơn. Phép thực hành này dẫn tới cái mà các thần bí gia Ki Tô giáo gọi là “sự nhớ lại Chơn ngă” giúp cho học viên rèn luyện cái trí tự động trở về với những tư tưởng thiêng liêng.

    Ta không nên tham thiền ngay sau khi ăn v́ lư do hiển nhiên là nó có khuynh hướng rút ḍng máu ra khỏi các cơ quan tiêu hóa; tham thiền vào ban đêm cũng không tốt v́ cơ thể đă mỏi mệt và thể phách dễ bị lệch lạc; hơn nữa ảnh hưởng tiêu cực của mặt trăng cũng tác động vào lúc ấy làm cho những kết quả không đáng mong muốn dễ xảy ra hơn. Đôi khi việc tham thiền có thể ít thành công hơn thông lệ bởi v́ có những tác dụng bất lợi đối với thể vía và thể trí. Một số người cũng nêu rơ rằng vào một số lúc nào đó tác dụng của các hành tinh thuận lợi hơn những lúc khác. Vậy là một Chiêm tinh gia đă bảo rằng khi Mộc tinh có một số quan hệ nào đó với mặt trăng th́ điều này có tác dụng làm mở rộng bầu hào quang dĩ thái khiến cho việc tham thiền có vẻ thành công hơn. Mặt khác, một vài thế chiếu của Thổ tinh nghe đâu làm nghẽn mạch bầu hào quang dĩ thái khiến cho việc tham thiền gặp khó khăn.

    Hệ  thống tham thiền được phác họa ngắn gọn như  nêu trên có mục tiêu là phát triển luân lư, trí  tuệ và tâm linh cũng như kiểm soát cái trí  và xúc cảm. Nó không nhắm vào việc phát triển các năng khiếu thông linh “từ bên dưới tính lên”; nhưng kết quả tự nhiên của nó có thể là khai mở được một dạng năng khiếu thông linh trực giác nơi những người có tổ chức đủ bén nhạy; nó sẽ biểu hiện thành việc gia tăng sự nhạy cảm với ảnh hưởng của con người và nơi chốn, nhớ lại được những kư ức vụn vặt về các kinh ngiệm trên cơi trung giới trong lúc ngủ, gia tăng sự mẫn cảm với việc chỉ đạo trực tiếp của Chơn ngă, có khả năng nhận ra được ảnh hưởng của các Chơn sư và những người phát triển về mặt tâm linh v.v. . .

    Sự  tham thiền có kết quả là được soi sáng vốn có thể là một trong ba điều khác hẳn nhau:

    [1]. Nhờ cực lực suy tư kỹ lưỡng về một  đề tài, bản thân người ta có thể đạt tới một kết luận nào đó liên quan tới nó.

    [2]. Nó có thể đạt được sự soi sáng của Chơn ngă, khám phá được Chơn ngă thực sự nghĩ như thế nào về vấn đề hữu quan trên cơi của riêng ḿnh.

    [3]. Nếu phát triển cao siêu, người ta có thể bước vào tiếp xúc với các Chơn sư  hoặc Thiên thần. Chỉ  trong trường hợp thứ nhất [1] th́ những kết luận của y rất có thể bị ô nhiễm bởi những tư tưởng của chính y, c̣n Chơn ngă ắt có thể bị siêu việt được những điều này và một Chơn sư hoặc một Thiên thần cũng đạt được như vậy.

    Điều mà ta có thể thực hiện được trong khi tham thiền c̣n tùy thuộc vào điều mà ta đang làm suốt ngày. Nếu trong sinh hoạt b́nh thường, ta có những thành kiến chẳng hạn th́ ta không thể thoát khỏi chúng trong khi tham thiền.

    Dĩ  nhiên sự tham thiền trên cơi trần là để rèn luyện các hạ thể chứ không phải dành cho Chơn ngă. Trong khi tham thiền, Chơn ngă coi phàm ngă  cũng như bất cứ lúc nào khác, nghĩa là thường thường th́ Chơn ngă hơi khinh thị phàm ngă. Nếu Chơn ngă đă phát triển ở một mức nào đó th́ nó sẽ tham thiền trên cơi của riêng ḿnh, nhưng sự tham thiền ấy dĩ nhiên không cần phải đồng bộ với sự tham thiền của phàm ngă.

    Tham thiền là một phương tiện để đạt được thuật rời bỏ thể xác với trọn vẹn ư thức. Tâm thức được củng cố tới mức kiên định, không nao núng và cố định; sự chú ư dần dần được triệt thoái ra khỏi ngoại giới và cơ thể, các giác quan vẫn c̣n yên tịnh trong khi cái trí linh hoạt cực lực nhưng có mọi năng lượng được triệt thoái vào bên trong để rồi sẵn sàng được phóng ra chỉ cần có một tư tưởng nào thôi, mức cao nhất mà nó có thể đạt được. Như vậy, khi nó có thể trụ lại tương đối dễ dàng với một nỗ lực mạnh mẽ nhưng b́nh tĩnh của ư chí, th́ nó có thể phóng ra vượt quá tư tưởng cao nhất mà nó có thể đạt được trong khi c̣n hoạt động nơi óc phàm, và trong nỗ lực ấy nó sẽ vươn lên hiệp nhất với tâm thức cao siêu để rồi thấy ḿnh được giải thoát khỏi cơ thể. Khi điều này được thực hiện th́ không có ư thức về giấc ngủ hoặc giấc mơ cũng không hề bị mất ư thức; con người thấy ḿnh ở bên ngoài cơ thể dường như lướt ra khỏi một thứ nặng nề cồng kềnh mà như không bị mất đi bất cứ bộ phận nào của bản thân. Có những cách khác để được giải thoát khỏi cơ thể, chẳng hạn như do cường độ đê mê của sự sùng tín hoặc do những phương pháp đặc biệt có thể được truyền thụ bởi một bậc đại đạo sư cho môn đồ của ḿnh. Con người có thể trở về với cơ thể và tùy ư nhập lại vào nó; trong những trường hợp như vậy, y cũng có thể gây ấn tượng lên bộ óc và như thế trong khi ngự nơi thể xác vẫn c̣n nhớ lại được những kinh nghiệm mà ḿnh đă trải qua. Việc tham thiền thật sự có nghĩa là nỗ lực hết sức, chứ không phải là cảm giác hạnh phúc bắt nguồn từ một trạng thái ngủ lơ mơ và cơ thể cảm thấy thoải mái về tiện nghi vật chất. V́ vậy, nó chẳng dính dáng ǵ tới và thật ra khác hẳn loại thuật đồng cốt thụ động mà khoa thần linh học đă phát triển. Môn sinh không cần phải băn khoăn do huấn lệnh ḿnh nên cởi mở với những ảnh hưởng tâm linh và đồng thời lại phải tích cực. Nỗ lực tích cực là cần thiết như một điều kiện sơ bộ; điều này nâng cao tâm thức lên những mức cao sao cho các ảnh hưởng cao siêu có thể tác động được; bấy giờ và chỉ bấy giờ th́ ta mới an toàn thư giản được đối với sự phấn đấu hướng thượng và đạt được sự thực chứng an b́nh. Cụm từ “mở ra cho những ảnh hưởng tâm linh” có thể bị coi là ngụ ư duy tŕ một thái độ cực lực tĩnh lặng ở một mức cao về tâm linh, rất giống như một con chim mặc dù có vẻ thụ động và bất động nhưng lại thăng bằng chống lại trận cuồng phong bằng một nỗ lực mạnh mẽ liên tục vẫy cánh. 

    ------------------------- 

SỰ NHẬP ĐỊNH

(CONTEMPLATION) 

(Trích Chương XVII của quyển THỂ HẠ TRÍ)

THE MENTAL BODY 

Tác giả: A. E. POWELL 

    NHẬP ĐỊNH là giai đoạn thứ ba trong ba giai đoạn mà chúng ta đă xét được hia giai đoạn rồi. Ba giai đoạn này là:

    (1). Định Trí: Gh́ chặt chú tâm vào một đối tượng.

    (2). Tham Thiền: Kích thích tâm thức hoạt động nhằm chỉ nói tới đối tượng ấy thôi, nh́n ngắm đối tượng theo mọi khía cạnh khả hữu và cố gắng thâm nhập ư nghĩa của nó, đạt tới một tư tưởng mới mẻ hoặc sâu sắc hoặc là nhận được một ánh sáng trực giác nào đó về đối tượng ấy.

    (3). Nhập Định: Tích cực tập trung tâm thức vào đối tượng trong khi đă ức chế thành công được các hoạt động hạ đẳng của tâm thức; cố định được chú ư trong một thời gian đối với ánh sáng mà người ta nhận được. Nó đă được định nghĩa là sự Định Trí ở đầu mút đường lối tư tưởng hoặc tham thiền.

    Theo thuật ngữ của Ấn Độ th́ các giai đoạn này được khuếch đại và đặt tên như sau:

    [1] Prātyāhara: Giai đoạn sơ khởi, bao gồm việc hoàn toàn kiểm soát được các giác quan.

    [2] Dhāranā: Định Trí.

    [3] Dhyana: Tham Thiền.

    [4] Samādhi: Nhập Định. 

    Dhāranā, Dhyana, Samādhi được gọi gộp lại là Samyama tức Tam muội. Trong tham thiền ta phát hiện được đối tượng là ǵ khi so sánh với những sự vật khác và có liên quan tới chúng. Chúng ta tiếp tục với quá tŕnh lư luận và lập luận này cho đến khi ta không c̣n có thể lư luận hoặc lập luận ǵ thêm nữa về đối tượng ấy: lúc bấy giờ ta ức chế quá tŕnh này, ngưng mọi so sánh và lập luận, với chú tâm cố định chủ động lên đối tượng, cố gắng thâm nhập sự bất định mà đối với chúng ta dường như bao xung quanh nó. Đó chính là Sự Nhập Định.

    Kẻ  sơ cơ nên nhớ rằng Tham Thiền là một khoa học của trọn một kiếp sống sao cho y không thể  trông mong đạt tới giai đoạn nhập định thuần túy qua những nỗ lực sơ khởi. Ta cũng có thể mô tả sự Nhập Định là duy tŕ ư thức về một điều duy nhất, thu hút nó vào nơi bản thân sao cho người suy tư và nó hiệp nhất lại. Khi một cái trí lăo luyện có thể duy tŕ được sự nhất tâm hoặc định trí trong một thời gian nào đó, thế rồi bỏ luôn đối tượng, vẫn duy tŕ sự chú tâm cố định nhưng không có chú tâm nào hướng về bất cứ điều ǵ th́ ta đă đạt được giai đoạn nhập định. Trong giai đoạn này thể trí không phô ra một h́nh ảnh nào; các vật liệu của chính ḿnh được giữ cho kiên định và vững bền, không nhận ấn tượng, hoàn toàn yên tịnh giống như nước tĩnh lặng. Ta không thể giữ cho trạng thái này kéo dài nhiều hơn một phút giây rất ngắn ngủi v́ nó giống như trạng thái “tới hạn” của nhà hóa học, điểm ở giữa hai trạng thái vật chất. Diễn tả theo cách khác th́ khi thể trí được yên tịnh, tâm thức thoát ra khỏi thể trí chuyển vào trong rồi ra khỏi “trung tâm Laya”, tức là điểm tiếp xúc trung ḥa giữa thể trí và thể nguyên nhân. Sự thoát ra này có kèm theo việc tạm thời bị ngất đi hoặc mất ư thức, đó là kết quả tất yếu của việc các đối tượng tâm thức biến mất tiếp theo sau là có ư thức nơi một thể cao hơn. Như vậy, việc bỏ đi những đối tượng tâm thức thuộc về các cơi thấp được nối tiếp bởi sự xuất hiện các đối tượng tâm thức thuộc cơi cao. Lúc bấy giờ Chơn ngă có thể uốn nắn thể trí theo những tư tưởng cao siêu của chính ḿnh và thấm nhuần nó bằng những rung động của chính ḿnh. Y có thể uốn nắn nó theo những linh ảnh mà ḿnh đă đạt được trên các cơi thậm chí c̣n cao hơn các cơi của chính ḿnh; như vậy, Chơn ngă có thể truyền đạt cho tâm thức hạ đẳng những ư tường mà thể trí không thể đáp ứng được bằng cách khác.

    Đây là những sự linh cảm của các thiên tài vốn lóe xuống vào trong thể trí với ánh sáng chói ḷa để soi sáng cho thế gian. Bản thân con người tiết lộ chúng cho thế gian trong trạng thái tâm trí b́nh thường cũng khó ḷng diễn tả được chúng đă đến với ḿnh bằng cách nào; nhưng y biết rằng bằng một cách kỳ lạ nào đó “những quyền năng bên trong tôi reo vang. Các kiếp sống trên môi tôi và vẫy gọi bằng bàn tay tôi.

    Sự  xuất thần và linh ảnh của Chư Thánh, thuộc mọi tín ngưỡng trong mọi thời đại cũng thuộc vào bản chất này. Trong những trường hợp như thế, sự  cầu nguyện kéo dài và sự tập trung tức sự nhập định đă tạo ra điều kiện trí năo cần thiết. Những đường lối của giác quan đều bị khép chặt lại do sức mạnh của sự định trí nội tâm và cũng trạng thái ấy cũng đă được đạt đến một cách năm th́ mười họa và không cố ư nhưng đạo sĩ Raja Yoga t́m cách cố ư đạt tới nó.

    Sự  chuyển tiếp từ tham thiền sang nhập định đă  được mô tả là chuyển từ tham thiền  “hữu chủng” sang tham thiền “vô chủng”. Sau khi tâm trí đă được ổn định, nó  được giữ cho thăng bằng ở mức cao nhất của lư luận; mối liên kết cuối cùng trong chuỗi lập luận hoặc là đối với tư tưởng trung tâm hoặc là h́nh ảnh của trọn cả quá tŕnh; đó là tham thiền hữu chủng. Thế rồi học viên nên dẹp hết mọi chuyện nhưng vẫn c̣n giữ cho cái trí ở mức độ đạt được, mức cao nhất đạt được một cách sung măn và tỉnh thức. Đó là tham thiền vô chủng. Khi vẫn c̣n thăng bằng chờ đợi trong sự tịch lặng và hư vô th́ con người ở trong Pháp vân (cloud). Bấy giờ đột nhiên có một sự thay đổi, một sự thay đổi không thể nhầm lẫn được, kỳ diệu không thể tin được. Đây là sự Nhập định dẫn tới giác ngộ.

    Vậy là chẳng hạn như khi thực hành nhập định về con người lư tưởng, về một Chơn sư; sau khi đă tạo ra một linh ảnh của Chơn sư, học viên lặng ngắm nó một cách ngất ngây làm cho ḿnh tràn trề sự vinh diệu và vẻ đẹp của nó.; thế rồi khi vút thằng lên hướng về Ngài, y cố gắng nâng cao tâm thức lên tới lư tưởng để ḥa lẫn bản thân vào đó, để hiệp nhất với nó. Sự ngất đi tạm thời được nêu trên th́ tiếng Bắc phạn gọi là Pháp vân (Dharma Mega = Đám mây chính trực); các nhà thần bí Tây phương gọi nó là “Đám mây trên Núi”, “Đám mây trên Thánh Điện”, “Đám mây trên Đền thờ Tạm”. Con người cảm thấy dường như thể được bao quanh bởi một lớp sương mù dày đặc, ư thức rằng ḿnh không cô đơn nhưng không thể nh́n thấy được ǵ. Hiện nay đám mây mỏng đi và ư thức về cơi cao nhất xuất lộ. Nhưng trước khi được như vậy th́ đối với con người, sự sống của chính y đang bị rút cạn đi, y bị treo lơ lửng trong hư không đen kịt và cô đơn khôn tả. Nhưng “Hăy yên tịnh và biết rằng ta là Thượng Đế”. Trong sự tịch lặng và yên ắng ấy y sẽ nghe được Tiếng nói của Chơn ngă, sẽ thấy được sự vinh quang của Chơn ngă. Đám mây tan biến đi và Chơn ngă hiển lộ ra. Trước khi người ta có thể chuyển từ sự tham thiền sang nhập định, th́ y phải từ bỏ hoàn toàn sự mong ước và hi vọng, ít ra th́ cũng là trong thời kỳ thực hành; nói cách khác, y phải kiểm soát hoàn toàn được Kāma. Cái trí chẳng bao giờ có thể đơn độc được trong khi nó c̣n bận tâm với những mong ước; mọi sự mong ước là mầm mống có thể làm nảy sinh ra sự giận dữ, không trung thực, không trong sạch, hiềm khích, tham lam, cẩu thả, bất măn, lười biếng, dốt nát v.v. . . Trong khi c̣n một mơ ước hoặc hi vọng nào đó th́ vẫn c̣n có thể có những sự vi phạm thiên luật này. Chừng nào c̣n có mơ ước, c̣n có bất măn th́ chúng c̣n khiến ta lệch lạc; luồng tư tưởng bao giờ cũng t́m cách len lỏi qua những khe suối nhỏ và những kênh dẫn mở toang ra do những ham muốn chưa được thỏa măn, mọi vấn đề chưa nghĩ ra cách giải quyết sẽ há hốc miệng ra khiến cho chú tâm của ta bị xao lăng, khi chuỗi tư tưởng đụng phải khó khăn th́ nó sẽ luồng lách để nghe theo những lời gào thét ấy. Nếu ta truy nguyên cái chuỗi tư tưởng liên miên không dứt ấy th́ ta ắt phát hiện ra rằng chúng có nguồn gốc là những ham muốn chưa được thỏa măn và những vầnđế chưa giải quyết được.

    Quá  tŕnh nhập định bắt đầu khi hoạt động hữu thức có thể nói là chạy vuông góc với hoạt động theo thông lệ vốn t́m hiểu một sự  vật bằng cách tham chiếu tới những sự vật khác có bản chất riêng thuộc một b́nh diện khác; sự  vận động như thế ắt cắt ngang qua những b́nh diện tồn tại của nó để thâm nhập vào bản chất nội tại tinh vi hơn của nó. Khi chú tâm không c̣n bị chia chẻ ra thành những bộ phận do hoạt động đối đăi so sánh th́ cái trí sẽ vậnđộng như một tổng thể vốn dường như hoàn toàn yên tĩnh, chẳng khác nào một bông vụ đang quay nhanh trông có vẻ như đang đứng im khi nó đạt chuyểnđộng nhanh nhất.

    Trong khi nhập định người ta không c̣n nghĩ tới  đối tượng nữa, thậm chí tốt hơn là đừng bắt đầu với bất kỳ ư niệm nào về  bản ngă và đối tượng coi như hai sự vật khác nhau có quan hệ với nhau, bởi v́ làm như vậy có khuynh hướng khiến cho ư niệm nhuốm màu sắc xúc cảm. Ta nên cố gắng đạt tới một mức dứt bỏ bản ngă sao cho sự nhập định có thể bắt đầu từ bên trong chính đối tượng; sự nhiệt thành về trí năng và nghị lực đồng thời cũng được duy tŕ trong suốt đường lối tư tưởng. Ư thức được giữ cho thăng bằng giống như một con chim vỗ cánh nh́n ra phía trước và chẳng bao giờ nghĩ tới việc quay trở lại.

    Trong việc nhập định, tư tưởng được đưa vào bên trong cho đến khi nó không c̣n tiến thêm được nữa; nó được giữ ở vị trí ấy mà không thối lui hoặc trở ngược v́ biết rằng ở đó có một cái ǵ đấy mặc dù ta chưa thể lĩnh hội rơ ràng được cái ấy là cái ǵ. Trong sự nhập định này,  dĩ nhiên chẳng có điều chi mang bản chất là giấc ngủ hoặc hoạt động của hạ trí, mà là một t́m kiếm cực lực, một nỗ lực kéo dài để thấy được trong cái bất định ấy có một điều ǵ đó xác định mà không tụt xuống những cơi thấp kém thông thường được rơ ràng và chính xác. Một tín đồ ắt thực hành sự nhập định một cách tương tự, nhưng trong trường hợp này hoạt động ắt chủ yếu là xúc cảm hơn là tư tưởng.

    Trong sự nhập định, về bản chất của ḿnh, học viên chối bỏ sự đồng nhất của ḿnh với các cơ thể ngoại giới và với cái trí. Trong tiến tŕnh này, y không từ bỏ những thuộc tính mà chỉ từ bỏ những sự hạn chế. Cái trí vốn nhanh nhẹn và tự do hơn cái xác; vượt ngoài tầm cái trí là tinh thần vốn lại c̣n nhanh nhẹn và tự do hơn nữa. T́nh thương vốn khả hữu nhiều hơn khi tâm hồn được tịch lặng so với lúc được biểu hiện ra bên ngoài, nhưng tinh thần vốn vượt ngoài tầm cái trí th́ t́nh thương là chắc chắn mang tính thiêng liêng. Lư trí và sự phán đoán bao giờ cũng chỉnh lư được bằng chứng khập khiển của các giác quan; linh ảnh của tinh thần phân biệt được sự thật mà không cần có cơ quan nào và cũng không cần tới cái trí. Ch́a khóa để đạt được thành công trong mọi bước của phép thực hành này có thể được phát biểu như sau: nếu ta ngăn cản được những hoạt động thấp thỏi mà vẫn duy tŕ được luồng chảy đầy đủ của năng lượng hữu thức th́ trước tiên là cái hạ trí ắt sẽ trở nên tràn đầy sức sống và tỉnh táo, rồi lúc bấy giờ hoạt động của nó phải được ta ngăn chặn lại nhưng cái xung lực mà ta tịch thu của nó được sử dụng để phát triển và vận hành những năng lực cao siêu trong nội tâm.

    Một khoa học Yoga cổ truyền có dạy rằng khi ư  chí chủ động ức chế được những quá  tŕnh của cái trí suy tư th́ con người thấy ḿnh ở một trạng thái tâm thức mới vốn siêu việt  được và kiểm soát được kiểu suy nghĩ b́nh thường cũng giống như tư tưởng siêu việt được các dục vọng cho nên mới chọn lựa ra được từ đó một dục vọng nào đấy và cũng giống như dục vọng thúc đẩy những hành động và nỗ lực đặc thù. Một trạng thái tâm thức siêu việt như vậy không thể mô tả được theo kiểu hạ trí, nhưng sự thành tựu được nó có nghĩa là con người ư thức được rằng ḿnh là một cái ǵ đấy vượt trên cái trí và vượt trên tư tưởng cho dẫu cái hoạt động trí tuệ ấy vẫn có thể đang hoạt động, giống hêt như mọi người có văn hóa đều nhận biết được rằng ḿnh đâu phải là cái xác, ngay cả khi cái xác ấy đang hoạt động.

    Như  vậy, có một trạng thái tồn tại khác hoặc nói cho đúng hơn là một nhân sinh quan khác vượt ngoài tầm của cái trí với những quá tŕnh vất vả  phân biệt, so sánh và mưu t́m mối quan hệ nhân quả giữa các sự việc. Ta chỉ thực chứng được cái trạng thái cao siêu ấy khi những hoạt động của tâm thức tràn đầy sức sống và sự nhiệt thành trần tục đă được đưa lên vượt quá cái lối sống ṃ mẫm thoe kiểu ăn lông ở lỗ của những con người b́nh thường vẫn sống một cách dă man. Cái tâm thức cao siêu ấy sớm muộn ǵ mọi người cũng thực chứng được và khi thực chứng được nó th́ trọn cả cuộc đời sẽ đột nhiên đổi mới.

    Khi học viên nhờ vào việc tham thiền mà trải nghiệm  được về mặt tâm linh một cách phong phú hơn th́ nhớ vậy y sẽ phát hiện ra những giai kỳ mới của tâm thức dần dần mở ra bên trong ḿnh. Khi đă có hoài băo cố định hướng về lư tưởng th́ bây giờ y sẽ ư thức được ảnh hưởng của cái lư tưởng ấy tuôn đổ xuống ḿnh khi y thực hiện một nỗ lực vô vọng nhằm đạt tới đối tượng sùng tín của ḿnh th́ trong một phút giây ngắn ngủi, cánh cổng thiên đường mở toang ra để cho y thấy ḿnh hiệp nhất với lư tưởng của ḿnh và tràn đầy sự vinh quang về sự thực chứng ấy. Sau khi đă siêu việt được những h́nh ảnh đúng mô thức hơn của cái trí th́ là một nỗ lực tuyệt vời để vươn lên trên. Lúc bấy giờ ta sẽ đạt được cái trạng thái ngất ngây của tinh thần khi các g̣ bó của phàm ngă đă rơi rụng đi và mọi h́nh bóng của sự chia rẽ đă nhạt nḥa đi trong sự phối ngẫu toàn bích giữa chủ thể t́m kiếm và đối tượng t́m kiếm.

    Trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh có dạy như sau: “Con không thể bước trên đường Đạo nếu con chưa trở thành chính đường Đạo. . . Xem này con đă trở thành ánh sáng, con đă trở thành âm thanh, con chính là Sư phụ và là Thượng Đế của chính ḿnh. Bản thân con là đối tượng mà con đang mưu t́m, là cái tiếng nói chưa bao giờ đứt đoạn vẫn ngâm vang trong suốt chu kỳ vĩnh hằng, bất di bất dịch, vô nhiễm, bảy âm thanh chỉ là một âm thanh thôi”.

    Thật là hoài công khi ta toan tính miêu tả thêm nữa về  những sự trải nghiệm như vậy bởi v́ chúng vượt ngoài tầm cách diễn tả theo công thức. Ngôn từ chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng cho thấy một cái ǵ đấy vinh diệu khôn tả để cho kẻ hành hương có thể biết lê bước đi theo hướng ấy. 

    ------------------ 

HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES