Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

 

ĐẠI ĐỊNH: SAMĀDHI

KỸ THUẬT CHÁNH YẾU CỦA YOGA

CHUONG HAI MƯƠI HAI  trong SELF CULTURE

Tác giả I. K. TAIMNI


CHUONG HAI MƯƠI HAI

ĐẠI ĐỊNH: SAMĀDHI

KỸ THUẬT CHÁNH YẾU CỦA YOGA

 

Quyển Yoga Sūtras của ông Patanjali là một quyển sách có 196 Sūtras hay câu cách ngôn, chia ra thành bốn chương. Tổng quát th́ chương đầu nói về bản chất của Yoga và kỹ thuật Yoga. Đại Định (Samādhi) là kỹ thuật chính yếu của Yoga, v́ vậy nó được nói ở chương đầu, mặc dầu đó là một điều khó hiểu. Chương hai nói về các vấn đề hạn chế của con người, các ảo ảnh và những phiền năo do ảo ảnh mang lại, và triết lư về Kleshas (Khổ Đế) với phương pháp giúp linh hồn con người vượt ra khỏi những đau khổ này. Nó cũng bàn qua sự chuẩn bị đầu tiên để bước vào đời sống Yoga và năm phần đầu trên số tám phần của kỹ thuật, mà hệ thống Patanjali chia ra. Như thế toàn bộ chương này tiềm ẩn triết lư Yoga và những công việc đầu tiên phải được thực hiện, trước khi người Sādhaka (sinh viên học Yoga thực hành) có khả năng sử dụng cái trí một cách nghiêm chỉnh và hữu hiệu. Do đó nó là chương quan trọng nhứt đối với người sơ cơ. Chương ba bàn qua những thực hành hoàn toàn trí tuệ mà kết cuộc dẫn đến Samādhi (Đại Định) và những thành tựu có thể đạt được xuyên qua việc thực hiện có kết quả Samādhi. Các thành tựu này gồm có, chẳng những quyền lực siêu nhiên của Yoga – thường được gọi là Siddhis (thần thông) theo Phạn ngữ, mà c̣n mang lại sự giải thoát cuối cùng cho tâm thức khỏi các hạn chế và ảo ảnh của cái trí, dẫn đến Kaivalya. Chương chót, thứ 4, nói về triết lư và tâm lư của Yoga, một cách tổng quát và cũng nói đến giai đoạn cuối cùng của Kỹ thuật Yoga, đem lại sự Thực Hiện Chơn Ngă hay Kaivalya). V́ thế, quyển sách có một lănh vực rộng lớn và bàn qua tất cả mọi vấn đề liên quan đến Sự Khám Phá Chân Ngă và Sự Thực Hiện Chân Ngă, do phương pháp Rāja Yoga. Mặc dầu đề tài được tŕnh bày dưới h́nh thức những Sūtras, sự hiểu biết thật sự phải được lần hồi t́m ra từ cái trí của chính ḿnh, do tưởng nghĩ và suy luận cẩn thận. Nhưng đối với người chí nguyện, đề tài thật là hấp dẫn và quan trọng khiến cho sự khó nhọc tỏ ra đáng công và được đền bồi.

Chúng ta đừng quên rằng kỹ thuật Rāja Yoga bàn đến những giai đoạn chót, Tự ḿnh Hướng dẫn lấy ḿnh của cơ tiến hóa nhân loại, mà kết cuộc là Sự Giải Thoát, hay là vượt qua tất cả hạn chế và ảo ảnh của nhân loại. V́ thế mà đừng mong có sự dễ dàng ở phần học tập lư thuyết của kỹ thuật này cho cả đến cách thực hành của nó. Nhưng đối với những ai mà năng khiếu phân biện tâm linh đă khai mở, dù chỉ phần nào thôi, phương pháp cũng mang lại những phương tiện hữu hiệu, đầy kinh nghiệm, giúp sự giải phóng con người khỏi các hạn chế và khổ đau, chẳng những cho kiếp hiện tại mà c̣n trong tương lai mai hậu. Thậm chí, nếu người chí nguyện không đủ khả năng để thực hiện trọn vẹn kỹ thuật ngay bây giờ, v́ kỹ thuật này đem lại cho y một ư niệm tổng quát của toàn bộ lănh vực cố gắng dưới mọi khía cạnh từ đầu đến cuối, th́ ít ra y phải nắm vững nó về mặt lư thuyết và lần hồi cố gắng mở rộng lănh vực thưc hành nó, một khi y càng lúc càng tỏ ra thích thú và khả năng mỗi lúc mỗi gia tăng. Đây là Con Đường Vương Giả dẫn chúng ta trở về Quê Nhà thật sự của ḿnh, và ít ra về phần lư thuyết, chúng ta phải biết qua nó, mặc dầu chúng ta thường có khuynh hướng hay nấn ná trên đường và c̣n một khoảng cách dài dể phải đi.

V́ mục đích của chúng ta, trong quyển sách này, là có một ư niệm tổng quát về vấn đề Yoga, chúng ta sẽ chỉ chọn những sūtras nào quan trọng nhứt giúp ḿnh có một cái nh́n rơ rệt vào những khía cạnh nổi bật của môn Rāja Yoga, và xem qua một cách vắn tắt. Quyển Khoa Học Yoga bàn đến tất cả các sūtras một cách có hệ thống, và những ai muốn nghiên cứu trọn vẹn đề tài, có thể tham khảo lời giảng lư này,hay là bất cứ sách nào khác, nói đến Yoga Sūtras của Patanjali.

Sūtra đầu tiên được lựa chọn để bàn luận là sūtra nhiều người biết đến ở Chương I, mang lại định nghĩa của kỹ thuật Yoga trong bốn từ (theo Phạn ngữ):

 

“Yoga là sự kềm chế những biến đổi của cái trí’ (I - 2)

 

Trong  phần b́nh luận, người ta cố gắng giải nghĩa bốn từ này (theo Phạn ngữ, câu sūtra gồm có bốn từ) nhưng, thật sự không làm sao thấu  hiểu được ư nghĩa của sūtra bằng cách chỉ t́m hiểu nghĩa của các từ. Người ta phải đợi đọc xong trọn quyển sách mới có thể thật sự thấu hiểu nghĩa của sūtra đó muốn nói ǵ, bởi v́ hiểu được câu này là thật sự hiểu biết được toàn bộ kỹ thuật của Yoga. Như vậy, người sơ cơ phải bằng ḷng hiểu ư nghĩa tổng quát của sūtra, và đừng thắc mắc quá nhiều về ư nghĩa thâm sâu của nó cho đến khi y đă đọc qua trọn cả quyển sách.

Nhưng về điểm này, có lẽ một minh họa khoa học có thể đem lại một quan niệm rơ ràng cho ư nghĩa câu sūtra này, hơn là một b́nh luận dài ḍng. Giả sử chúng ta có một cái thùng bằng kiếng đầy nước trong. Treo trong nước là một bóng đèn điện đang cháy sáng, mạnh đến 1.000 ngọn nến và ở phía mà bạn không thể thấy được, có một máy “tuộc bin” nhỏ (máy dùng để quay tṛn) nhờ đó một mô tơ điện làm hoạt động. Dụng cụ này có khả năng là khuấy động nước trong thùng, từ nhẹ đến mạnh, tùy tốc độ khác nhau của máy. Khi nước hăy c̣n đứng yên, bạn có thể thấy rơ cái bóng đèn đang sáng và sẽ không thấy được nước trong điều kiện này. Giả sử bây giờ bạn cho mô tơ chạy và bạn làm nước khuấy động với một tốc độ càng lúc càng mạnh thêm. Nước bị xáo động này sẽ đem lại điều ǵ? Khi mà máy bắt đầu chạy, bóng đèn không được thấy như b́nh thường, mà có một h́nh dáng méo mó. Nước càng được quấy động, h́nh dáng bóng đèn càng méo mó hơn, và cùng một lúc, nước trong thùng, trước kia ta không thể trông thấy nó được và nó không thu nhận ánh sáng của bóng đèn, bây giờ nó khởi sự thu nhận ánh sáng và người ta thấy nước càng lúc càng dễ hơn. Khi bạn tăng thêm tốc độ của mô tơ, sự khuấy động gia tăng theo, và có những mẫu h́nh dáng xuất hiện trong nước. Các mẫu nầy hiện ra và biến mất liên tiếp một cách mau lẹ. Những mẫu tạm bợ này tạo ra trong nước được trông thấy và việc thấy được rơ ràng, ít nhiều là do nó đă thu thập một ít ánh sáng của bóng đèn. Chúng nó chiếu sáng không phải do ánh sáng của chính nó mà do ánh sáng mượn từ bóng đèm ra. Nếu tốc độ của mô tơ gia tăng thêm nữa và sự khuấy động đến một mức độ nào đó, các mẫu h́nh trở nên quá nhiều và dầy đặc, chúng sẽ che lấp bóng đèn trọn vẹn. Bạn không trông thấy bóng đèn chút nào cả. Bạn chỉ thấy những mẫu h́nh trong nước, hiện ra rồi biến mất, liên tiếp thật mau lẹ và nó chói sáng với ánh sáng của bóng đèn, mà bóng đèn bạn cũng không thể thấy nữa. Bây giờ hăy đảo ngược lại tiến tŕnh và để cho tốc độ của mô tơ giảm bớt lần lần. Sự khuấy động của nước cũng lắng đi chầm chậm. Những mẫu h́nh ảnh trở nên bớt dầy đặc hơn và lần hồi v́ tốc độ bớt đi, bóng đèn bắt đầu hiện ra, mặc dầu h́nh dáng nó bị méo mó. Lúc mô tơ ngưng và sự khuất động của nước lắng đi, bóng đèn trở nên càng lúc càng thấy rơ. Khi nước hoàn toàn đứng yên như trước kia, bóng đèn được thấy rơ, không bị méo mó, các mẫu h́nh biến mất và người ta lại không nhận thấy nước nữa. Toàn bộ tiến tŕnh đảo ngược và chúng ta trở lại t́nh trạng ban đầu.

Như thế chúng ta có thể nhận thấy ngay sự tương tự kỳ lạ của hiện tượng này và tiến tŕnh che lấp Thực Tại do những khuấy động và sự làm méo mó xảy ra trong trí chúng ta và cũng có thể t́m được manh mối của phương pháp, nhờ đó có thể bỏ đi sự che lấp để chúng ta có thể trở lại nhận thức Thực Tại bên trong nội tâm ḿnh. Nhưng có lẽ cần phải lưu ư độc giả về một vài điểm để làm vấn đề rơ rệt hơn.

Điểm thứ nhứt cần ghi chú là: những khuấy động, méo mó và những biến đổi thông thường – được gọi là Citta-Writtis trong trí chúng ta, đă làm mờ đi Thực Tại và che lấp bản chất thiêng liêng thật sự đối với chúng ta. Nếu những điều đó được chấm dứt do một phương pháp nào đó và cái trí trở nên hoàn toàn thanh trong, yên tịnh và không biến đổi ǵ cả, nó trở nên trong suốt, nhờ vậy mà chúng ta nhận thức được Thực Tại, nó vẫn luôn chói sáng bên trong trung tâm tâm thức của chúng ta. Theo môn Yoga, những khuấy động và biến đổi của cái trí, hiện hữu dưới nhiều mức độ tinh vi khác nhau, được lần lượt chận đứng từ bước một, cho đến khi cái trí trở nên như nước trong thùng, rơ ràng, trong suốt và yên lặng. Nó vẫn hiện diện, nhưng chúng ta không nhận ra nó. Đó là trạng thái của Thực Hiện Chơn Ngă. Nhưng chúng ta phải thấu hiểu là mặc dầu trên nguyên tắc, cái tiến tŕnh làm mất đi những khuấy động và che lấp của cái trí để nhận thức Thực Tại tiềm ẩn có vẻ thật đơn giản, nhưng trên thực tế không như thế, do những khuynh hướng mạnh mẽ hiện diện, do động lực thúc đẩy của quá khứ, những ảnh hưởng của Nhân quả và sự chậm chạp của các biến đổi phải thực hiện trong các thể của con người. V́ thế mà cần phải có một thời gian dài theo một kỷ luật  và thực hành những kỹ thuật Yoga cần thiết, và mục tiêu không thể đạt do những phương pháp quá giản dị và dễ dàng đôi khi được biện hộ ra. Kết quả đến chắc chắn, nhưng chúng ta phải chuẩn bị trả giá điều này dưới h́nh thức một cố gắng và những hy sinh.

Điểm thứ nh́ được ghi chú là cái trí chói sáng nhờ ánh sáng của Thực Tại chứ không phải tự nó sáng. Thực Tại được ví như mặt trời và cái trí như mặt trăng. Chỉ là sự hấp thụ ánh sáng của Thực Tại ẩn tàng bên trong nó truyền đạt đến, để cho nó có cảm giác của thực tế mà chúng ta có, khi ḿnh sống trong thế giới những h́nh ảnh trí tuệ của cá nhân ḿnh. Thế giới trí thức của chúng ta, trong đó chúng ta thật sự sống sẽ là một thế giới chết, nếu không có phía sau nó ánh sáng và sự sống của Thực Tại chiếu rọi và tăng cường cho nó.

Tuy nhiên chúng ta phải thận trọng nhớ rằng chỉ trong lănh vực của sự biểu hiện, tâm thức của Chơn Thần mới bị đồng hóa và biến mất trong những thay đổi của cái trí. Ở trong cơi giới riêng của nó, nó vẫn Tự Ư Thức, đúng như ánh sáng của bóng đèn điện vẫn chói sáng như trước kia, mặc dầu trong trạng thái khuấy động của nước, ánh sáng của nó phần nào mất đi trong nước và bóng đèn không thể được trông thấy từ bên ngoài.

Sau khi xem qua nguyên tắc tổng quát của sự che lấp và để lộ Thực Tại ẩn tàng bên trong cái trí chúng ta, bây giờ chúng ta sẽ tiến tới thảo luận về kỹ thuật đặc biệt được dùng trong môn Yoga để t́m ra Thực Tại. Kỹ thuật này được gọi là Samādhi (Đại Định) và chính đó là trung tâm và bản chất của Yoga. Tất cả những thực hành và kỹ thuật khác được sử dụng trong Yoga đều là sơ khởi và chuẩn bị để phụ giúp cho kỹ thuật Samādhi.

Từ Samādhi được dùng để chỉ trạng thái cao nhứt của sự thiền định, khi mà chỉ có ư thức về đối tượng của thiền định, và chúng không phải của chính cái trí. Đó là sự cùng tột của việc thiền định về một đối tượng mà thực tại của nó được nhận thức trực tiếp sau hai giai đoạn khác, được gọi là DhāranāDhyāna. Người Yogi bắt đầu với Dhāranā hay sự định trí. Khi Dhāranā trở nên toàn hảo, nó chuyển thành Dhyāna, hay là suy gẫm (tham thiền), và khi suy gẫm được toàn hảo, nó chuyển thành Samādhi hay Đại Định. Bằng cách ấy, cả ba hợp lại thành một tiến tŕnh liên tục càng thâm sâu hơn của sự định trí, như đă được nói rơ ở Sutra 1 - 2 và 3 của Chương III theo sau đây.

 

Định trí là sự giữ vững cái trí trong một vùng trí tuệ được giới hạn (do đối tượng của sự định trí chỉ định). (III-1)

 

Một ḍng liên tục (của cái trí) hướng đến đối tượng (được chọn lựa để thiền định), đó là tham thiền (chiêm ngưỡng). (II-2)

 

Cũng thời sự tham thiền (chiêm ngưỡng) đó khi mà chỉ c̣n có ư thức về đối tượng của sự thiền định, và ư thức của chính cái trí đă biến mất, đó là Đại Định. (III-3)

 

Sự khác biệt của ba trạng thái liên tục của thiền định và trạng thái này dẫn đến trạng thái kia bằng cách nào chỉ có thể thấu hiểu bằng cách nghiên cứu phần b́nh luận. Nơi đây, chúng ta chỉ quan tâm đến bản chất chánh yếu của Samādhi (Đại Định) và để hiểu điểm này, cần phải bắt đầu với Sutra 41 của Chương I dưới đây:

 

“Trong trường hợp của một người mà những Citta-Writti (hay biến đổi của trí tuệ) đă gần như bị hủy diệt do sự ḥa hợp hay thu hút trọn vẹn cái này trong cái kia của người hiểu biết, sự hiểu biết, hay đối tượng được hiểu biết, sẽ thực hiện như trường hợp một hạt đá quí trong suốt (nằm trên một bề mặt có nhuộm màu)”

 

Đây là một Sūtra khá khó hiểu, nhưng nó minh họa trạng thái của Đại Định một cách rất xác đáng bằng một thí dụ đơn giản. Đă nói ở trên, từ Đại Định được hiểu như là kỹ thuật nhận thức Thực Tại của bất cứ đối tượng nào, dùng từ “đối tượng” ở nghĩa rộng nhất là bất cứ sự việc nào mà cái trí có thể quan niệm thấu hiểu được. Chúng ta cũng biết rằng nhận thức là “hiểu biết do sự trở thành”, có nghĩa là cái trí tự biến đổi nó thành bản chất của đối tượng của cái thực tại được nhận thức. Và chúng ta cũng biết rơ rằng nhận thức hay sự hiểu biết thông thường được thực hiện trên nền tảng của sự liên quan chủ thể - khách thể, trong đó hiện diện bộ ba (người hiểu biết, đối tượng hiểu biết và sự hiểu biết); và sự nhận thức là do nơi sự phối hợp cả ba ấy thành một trạng thái duy nhứt của tâm thức. Bây giờ tất cả những ư nghĩ này đều gồm trong Samādhi và được minh họa trong thí dụ kể ra trong câu Sūtra trên. V́ vậy, nó tŕnh bày trạng thái chính yếu của Samādhi một cách rất hữu hiệu và phải được suy gẫm cẩn thận để nắm lấy ư nghĩa thật sự của nó.

Trước hết, chúng ta hăy t́m hiểu minh họa trong Sūtra muốn nói ǵ và ư nghĩ của nó liên quan đến trạng thái Samādhi. Giả sử bạn có một bức tranh đẹp đẽ để trải trên mặt bàn và bạn che trọn tấm tranh với một miếng kiếng đục, như thế tấm tranh bị che lấp dưới miếng kiếng đục, và không ai đứng trên nh́n xuống có thể thấy được phần nào của tranh cả. Bây giờ, hăy h́nh dung – do một phương pháp khoa học nào đó – chúng ta có khả năng biến đổi bất cứ phần nào của miếng kiếng đục lần hồi trở nên hoàn toàn trong suốt. Rồi đó, chúng ta vạch một ṿng tṛn ở phía đầu của miếng kiếng và đem sử dụng phương pháp vừa nói cho cái ṿng bên trong h́nh tṛn. Từ từ, phần mặt kiếng đục bên trong ṿng tṛn trở nên bớt đục, và sau rốt trở nên trong suốt. Kết quả của điều này ra sao? Chúng ta trông thấy cái phần của bức tranh nằm dưới chỗ trong suốt của miếng kiếng, trong khi phần c̣n lại của tranh vẫn bị che khuất. Chỗ đó của miếng kiếng trên tấm tranh đă trở nên trong suốt, và không gây trở ngại cho ánh sáng soi rọi, khác hẳn với phần c̣n lại của miếng kiếng. Miếng kiếng vẫn c̣n đó, nhưng nó đă được đồng hóa với phần của tấm tranh hiện nay được trông thấy. Bạn có thể vạch thêm một ṿng tṛn ở vùng khác trên miếng kiếng và lập lại tiến tŕnh, để thấy được một phần khác của bức tranh. Điều mà chúng ta phải ghi chú là vùng của miếng kiếng đă mất đi sự cản trở và làm méo mó cái nh́n của ḿnh đă được trọn vẹn đồng hóa hoặc biến mất với vùng tương ứng của tấm tranh, và như thế nó mang lấy h́nh dáng của tấm tranh, dù nó vẫn không biến mất và vẫn c̣n ở lại đó. Chính là “sự tự do” của bất cứ phần nào của miếng kiếng không c̣n bị cản trở và làm méo mó, đă đem lại cho nó khả năng mang lấy màu sắc, h́nh dáng và vẽ đẹp của vùng tấm tranh nằm dưới nó, và nó đă bộc lộ được phần đó của tranh, bằng cách trở nên một với phần đó. Bạn cũng sẽ thấy rằng do biến đổi như thế, những vùng khác nhau của miếng kiếng được tiến tŕnh làm trở nên trong suốt mang lại ánh sáng cho những vùng khác nhau của bức tranh, và như vậy tiến tŕnh trở nên chọn lọc.

Điểm thứ ba cần ghi chú là “cá tính” của bất cứ vùng nào của miếng kiếng đục, tùy thuộc nơi bản chất cản trở đă làm nó đục. Không có điều này, thật sự nó không có một vai tṛ riêng tư, mặc dù nó vẫn hiện hữu. Một vùng của miếng kiếng đục khác đi với một vùng khác, bởi v́ nó có chứa đựng cái chất đem lại sự cản trở. Nhưng khi nó mất đi tánh chất cản trở đó, nó trở nên trong suốt và sẽ giống hệt như bất cứ vùng nào khác đă được xử lư bằng phương pháp này. V́ thế, có thể nói một cách ẩn dụ rằng sự việc miếng kiếng đồng hóa với bức tranh – hay là cả hai biến thành một – đă tùy thuộc vào miếng kiếng đục mất đi “cá tính” của nó, hay là mất đi cái “ta” của nó.

Những ai đă nghiên cứu phần nào kỹ thuật của Samādhi, sẽ nhận thấy cái thí dụ đó đẹp đẽ biết mấy để minh họa tiến tŕnh “hiểu biết do sự trở thành” (hay đồng hóa). Trong kỹ thuật Sabīja Samādhi (khác với Nirbīja Samādhi), mục tiêu không phải là nhận thức chính cái Thực Tại, mà là một thực tại giới hạn, được gọi là nhận thức thực tại đă bị che lấp bên trong một đối tượng cá biệt nào đó, bất cứ đối tượng nào. Đó là lư do tại sao một đối tượng cá biệt được chọn lựa để thực hiện Samyama, và đó là sự thật đứng phía sau đối tượng được tiết lộ trong kỹ thuật Sabīja Samādhi. Bây giờ thực tại của tất cả mọi đối tượng của sự biểu lộ hiện diện trong cái Trí Đại Đồng hay Trí Thiêng Liêng được tưởng tượng là một hệ thống biểu lộ riêng biệt trong các khía cạnh muôn mặt của nó. Và khi chúng ta chọn lựa một đối tượng để thực hiện Samyama, với mục đích khám phá thực tại ẩn núp phía sau nó, như thế chúng ta đă ghi trên miếng kiếng cái vùng riêng biệt của bức tranh mà chúng ta muốn phát hiện, cái phần riêng biệt hay khía cạnh của cái Trí Đại Đồng mà chúng ta muốn “hiểu biết” do sự “trở thành”. Cái Trí Đại Đồng chứa đựng những thực tại của tất cả những đối tượng biểu hiện, tương ứng với bức tranh trọn vẹn. Cái trí chúng ta tương ứng với miếng kiếng đục. Đối tượng mà chúng ta tập trung vào, trong kỹ thuật Sabīja Samādhi, tương ứng với cái vùng mà chúng ta đă vạch trên miếng kiếng đục. Và sau rốt, tiến tŕnh thực hiện Samyama đối với đối tượng cá biệt đó, chính là cách xử lư miếng kiếng đục khiến nó trở nên trong suốt, để có khả năng tiết lộ h́nh ảnh phần tương ứng của bức tranh. Trong khi tấm kiếng đục – là trí chúng ta – trở nên từ từ bớt đục, chúng ta bắt đầu thấy được thực tại đứng phía sau đối tượng cá biệt mà chúng ta tập trung vào đó, mỗi lúc càng rơ rệt thêm lên, cho đến khi vùng đó của miếng kiếng trở nên trong suốt, và thực tại của đối tượng bị che đậy trong vùng riêng biệt này của cái Trí Đại Đồng được bộc lộ một cách đầy dủ. Đó là bí quyết của kỹ thuật “hiểu biết do sự trở thành”, nghĩa là bằng cách làm cho cái trí, trên thực tế không c̣n hiện hữu và trở thành một với đối tượng của kỹ thuật Sabīja Samādhi.

Điều này đúng như một gian pḥng h́nh tṛn, nằm giữa những dăy núi nguy nga lộng lẫy, với những phong cảnh đẹp đẽ xung quanh. Gian pḥng có nhiều cửa sổ nhỏ ở xung quanh đang đóng kín. Bạn mở một cửa sổ và trước mặt bạn là một toàn cảnh xinh dẹp. Bạn đóng cửa sổ ấy lại và mở một cái khác, một toàn cảnh khác lại hiện ra. Bạn có thể lập lại tiến tŕnh đó và có nhiều cái nh́n khác nhau về phong cảnh xung quanh, từng cái một, bằng cách mở từng cửa sổ, cái này tới cái kia. Trong kỹ thuật Sabīja Samādhi, chúng ta mở nhiều cửa sổ khác nhau của trí ḿnh để nh́n phong cảnh của cái Trí Đại Đồng và đạt được nhiều cái nh́n về những Thực Tại đă giấu phía sau những đối tượng khác nhau mà chúng ta đă chọn lọc để định trí bằng cách này.

Từ trước đến giờ, chúng ta xem qua những nhận thức của một bản chất giới hạn, gọi là những thực tại tương xứng với những đối tượng cá biệt, thuộc bất cứ loại nào. Nhưng c̣n đối với Chính Thực Tại th́ ra sao? Mục tiêu rốt ráo của chúng ta không phải sự khám phá những Thực Tại ẩn giấu phía sau những đối tượng cá biệt đang biểu hiện. Vậy Thực Tại sẽ được tâm thức chúng ta nhận thức như thế nào? Muốn đến điểm này, chúng ta cần phải đi sâu vào cái trí chúng ta. Tóm lại là chúng ta cần phải đi xa hơn lănh vực của cái trí để bước vào lănh vực của Chính Thực Tại.

Ở lănh vực của Sabīja Samādhi, chúng ta biến trí cá nhân của chúng ta thành một với cái Trí Đại Đồng và nhờ sự hợp nhứt này chúng ta biết được những ǵ hiện diện trong cái Trí Đại Đồng. Nhưng Trí Đại Đồng  không phải là Thực Tại. Nó là sản phẩm của Ư Tưởng Thiêng Liêng. Nó từ Thực Tại mà ra, do sự khác biệt giữa cái Ngă và Phi Ngă, ví như một bức tranh do nơi tâm thức của một nghệ sĩ mà có khi nghệ sĩ h́nh dung nó trong trí của y. V́ thế rơ ràng chúng ta phải đi xa hơn cái Trí Thiêng Liêng để đến Thực Tại. Chúng ta phải đi xa hơn Ư Tưởng Thiêng Liêng và trở thành một với Đấng Tư Tưởng hay là Chủ Thể, để có thể biết được Chủ Thể trong bản chất thật sự của Ngài. Đây là kỹ thuật Nirbīja Samāhi được tŕnh bày, không phải ở chương đầu, mà là ở chương cuối của quyển Yoga Sūtras. Có một Sūtra trong chương đó mà chúng ta sắp sửa bàn luận nơi đây, v́ nó chiếu sáng bản chất của Nirbīja Samādhi khác biệt với Sabīja Samādhi.

Sūtra này như sau:

 “Sự hiểu biết chính bản thân của nó được thực hiện xuyên qua sự hiểu biết của bản ngă, khi tâm thức mang lấy hinh dáng mà trong  đó nó không di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác”.

 

Câu Sūtra này rất sáng sủa, nhưng để thấu hiểu nó, chúng ta phải sử dụng một loại tỉ giảo khác để mang lại ư nghĩa bên trong của Sūtra này một cách có hiệu quả.

Giả sử bạn có một bóng đèn điện chiếu sáng ở trung tâm một số quả cầu đồng tâm bằng kiếng. Các quả cầu này trong mờ, do đó chúng làm giảm bớt dần ánh sáng do bóng đèn rọi ra. Ánh sáng trở nên từ từ ít hơn khi nó lần hồi đi ngang qua các quả cầu, và do đó quả cầu ở ngoài nhất trở nên gần như tối so sánh với ánh sáng rực rỡ của bóng đèn điện, bởi v́ phần lớn ánh sáng đă bị những quả cầu xen giữa hấp thu. Chúng ta hăy tưởng tượng thêm rằng chẳng những các quả cầu này trong mờ mà c̣n có nhiều loại thiết kế khác nhau, những h́nh ảnh, hoặc chạm sâu, hoặc vẽ trên chúng v́ thế ánh sáng soi rọi xuyên qua một quả cầu riêng biệt làm sáng tỏ những h́nh ảnh đặc biệt được chạm trên đó. Bây giờ, hăy tưởng tượng những quả cầu này được tháo gỡ từng cái một, bắt đầu từ cái ở ngoài nhứt. Khi gỡ mỗi quả cầu đi, ánh sáng sẽ trở nên mạnh hơn và quả cầu mới hiện ra với những kiểu vẽ đặc biệt của nó. Mỗi lần quả cầu được gỡ đi, cái kế tiếp hiện ra sẽ trông thấy một h́nh ảnh mới, và sáng sủa hơn cái đă vừa được tháo. Nếu bạn tiếp tục tiến tŕnh này, cho đến khi quả cầu chót được tháo gỡ chỉ c̣n lại có bóng đèn điện soi sáng với ánh sáng rực rỡ của chính nó.

Điều chúng ta cần ghi chú là khi các quả cầu c̣n đó, ánh sáng của bóng đèn c̣n soi rọi chúng. Khi tất cả quả cầu được tháo gỡ hết, ánh sáng ấy soi rọi chính cái bóng đèn điện. Điều đó cũng xảy ra ở trường hợp của tâm thức ẩn giấu ở những mức độ khác nhau của cái trí, cái ở bên ngoài nhứt là tâm thức của bộ óc vật chất chúng ta. Bao lâu mà c̣n một cái trí để được soi sáng, tâm thức soi sáng cái trí đó ví như đă được tŕnh bày, cái trí hoạt động hay nhận thức xuyên qua ánh sáng của thể Bồ Đề và nó không Tự ḿnh sáng tỏ như Thực Tại. Khi mà tất cả mức độ của cái trí được vượt qua trong các giai đoạn khác nhau của Samādhi (Đại Định), và các thể của Chơn Thần đă được bỏ ở sau, vậy ánh sáng của tâm thức y có thể soi rọi cái ǵ? Không c̣n cái trí để nó soi rọi cho nên  nó phải soi rọi lấy nó, bởi tự nó có ánh sáng để soi lấy ḿnh và không tùy thuộc bất cứ cái ǵ khác để được soi rọi. Đây là tiến tŕnh của Nirbīja Samādhi vừa được nói ở phần trên trong câu Sūtra, dẫn đến sự Thực Hiện Chân Ngă và là mục tiêu rốt ráo của kỹ thuật Yoga.

Điều mà câu Sūtra muốn diễn tả là sự vươn lên của tâm thức xuyên qua các cơi khác nhau trong những giai đoạn khác nhau của Samādhi được nói trong Sūtra 17 của Chương I. Khi nó đến Cơi Niết Bàn – cơi cao nhứt trong hệ thống biểu hiện – chỉ c̣n lại một trở ngại, hay một tấm màn mỏng chót c̣n lại. Nơi đây, chúng ta ở vào một vị trí đặc biệt. Ở các giai đoạn trung gian kia, luôn luôn c̣n có một mức độ sâu đậm hơn của cái trí để lặn vào. Nhưng đây, chúng ta đă đến bức rào phân cách lănh vực tế nhị nhứt của cái trí với lănh vực của Thực Tại. Bởi thế, kết quả của bất cứ sự lặn sâu thêm vào tâm thức chỉ là lặn vào Thực Tại mà thôi – nghĩa là Thực Hiện Chân Ngă.

Chừng đó, chúng ta đến một khía cạnh khác của Samādhi, và đó là cái chót mà chúng ta có thể xem qua trong cuộc khào sát vắn tắt này. Đó là sự khác biệt gữa Samprajnāta Asamprajnāta Samādhi được gợi ư đến ở Sūtra 17 và 18 của  chương I.

Samprajnāta Samādhi là loại Samādhi có đi kèm theo sự lư luận, suy gẫm, chí phúc và một cách thức của một người thanh trong. (I- 17)

 

Cái cảm tưởng c̣n lại trong cái trí khi đă bỏ rơi Pratyaya sau cuộc thực hành Samprajnāta trước đó chính là Asamprajnāta Samādhi. (I-18)

 

Cả hai Sūtras đă được bàn qua đầy đủ trong phần b́nh luận, v́ thế chúng ta sẽ không cần đi vào chi tiết nơi đây. Nhưng chúng ta có thể nắm lấy cái ư tổng quát phía sau chúng, như thế quan niệm của chúng ta về trạng thái của Samādhi có thể trở nên sáng tỏ thêm.

Trong Samādhi (Đại Định), cái trí được đóng kín, không bị ảnh hưởng từ bên ngoài và bên trong của các sự quấy rầy hay náo động, và cường độ của sự tập trung càng tăng thêm khi nó tiến càng sâu thêm vào đối tượng của sự tập trung vào đó, và thực tại của đối tượng đó đang được t́m kiếm để hiểu biết. Nó tiến đến giới hạn xa nhất nó có thể đi t́m mà không thể đi xa hơn nữa. Tất cả mọi khía cạnh của đối tượng đang được thiền định đều được phanh phui đầy đủ. Nơi đây, nó vẫn phải trụ trong một t́nh trạng tập trung cực độ. Nó không thể thụt lùi hay là tiến tới thêm nữa. Chính ở giai đoạn này và trong trạng thái này, mà đối tượng của sự tập trung – hay là Pratyaya –bị bỏ rơi và cái trí vẫn được giữ trong t́nh trạng tập trung của nó, trụ trong một cái trống không. Sự tập trung mănh liệt của Samprajnāta Samādhi đă cắt đứt mất đi sự rút lui của nó với mọi nguồn liên lạc từ bên ngoài. Do đó, chỉ có lối thoát duy nhứt c̣n lại, là xuyên qua trung tâm của nó, để bước vào cơi kế tiếp cao hơn nữa. Sớm hay muộn, nó sẽ thoát đi xuyên qua Trung Tâm chung của tất cả mọi thể, bước vào cái thể kế tiếp cao hơn, và một thế giới mới lố dạng ở chân trời của tâm thức và trong thế giới mới này, được phát giác một khía cạnh thâm sâu hơn của đối tượng sự tập trung, ở vào một bề đo cao hơn nữa. Tiến tŕnh của Samādhi cho đến khi đối tượng – hay là Pratyaya – chiếm lấy lănh vực của tâm thức được gọi là Samprajnāta Samādhi, hay là Samādhi với tâm thức, và cùng với đối tượng và tiến tŕnh trong đó đối tượng – hay Pratyaya –bị bỏ rơi và không có đối tượng trong tâm thức, được gọi là Asamprajnāta Samādhi, hay là Samādhi với tâm thức, nhưng không có đối tượng. Đây chỉ là một bước tiến thêm trong quá tŕnh lặn sâu vào trong. Quá tŕnh này được lập đi lập lại nhiều lần ở các cơi giới khác nhau cho đến khi tới cơi Niết Bàn. Lặn sâu hơn nữa, như đă thấy, sẽ dẫn chúng ta đến lănh vực của Chính Thực Tại.

 


 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS