Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

GIÁO HUẤN CỦA KRISHNAMURTI

VÀ THÔNG THIÊN HỌC

(Krishnamurti’s Teachings and Theosophy)

Tác giả PABLO SENDER

Bản Dịch www:thongthienhoc.com

Liệu giáo huấn của Krishnamurti có mâu thuẫn với giáo huấn Thông Thiên Học hiện đại chăng? Hay là chúng phản ánh những lời lẽ của H.P.Blavatsky và lời dạy của các Chơn sư. Thật ra th́ chúng bổ sung cho nhau và soi sáng cho nhau.

Tuy nhiên, có nhiều người không thấy được mối liên hệ ấy. Có lẽ ta cần khảo cứu một vài khía cạnh cả hai thứ giáo huấn để phát hiện ra tính tương tự sâu sắc của chúng. Thế th́ ta sẽ khảo sát một vài điều theo quan điểm của J.K. cũng như theo quan điểm của H.P.B. và các Chơn sư.

Điều hảo huyền về “bản ngă”

H.P.B. và J.K. đều cảnh báo chúng ta về sự hăo huyền của “hạ ngă”, phàm ngă. Nhưng cái bản ngă ấy là ǵ, cái trung tâm mà ta tự đồng nhất hóa ḿnh với nó và thường thường hành động từ đó?

H.P.B. bảo rằng:

‘. . . phàm ngă là tạo vật của môi trường xung quanh và nô lệ cho kư ức của bộ óc [1]’

J.K. suy gẫm:

‘. . . Chủ thể quan sát là quá khứ. .  . Tính liên tục là do chủ thể quan sát (vốn là quá khứ) hội ngộ với hiện tại, tự biến đổi nó và làm cho hiện tại tiếp tục [2]’.

Kiến thức về bản ngă (kāma-manas, trí óc) vốn dựa trên trí nhớ và quá khứ. Cái ta gọi là “tính t́nh” vốn là kết quả của những đặc trưng di truyền, những trải nghiệm mà ta đă sống do kết quả của việc ta tiếp xúc với thế giới, gia đ́nh v.v. . .  Cá thể bị điều kiện chế định bởi văn hóa, khí hậu, thực phẩm, hoạt động của các tuyến nội tiết và - theo khoa học huyền bí - bởi những khuynh hướng mà ta tích lũy được, huân tập trong những kiếp trước.

Bản ngă chỉ là sản phẩm của quá khứ, nó thường xuyên tự biến đổi ḿnh để thường xuyên tạo ra sự liên tục. Cảm thức ‘tôi là kẻ sống qua những trải nghiệm quá khứ’ là kết quả của những tác động của trí nhớ vốn liên kết mọi trải nghiệm vô thường với một trung tâm hăo huyền xét theo biểu kiến là trường tồn; trung tâm này được gọi là ‘bản ngă’, cái tôi. Song le mỗi người chúng ta lại nghĩ rằng ḿnh là một thực thể độc lập có quyền tự quyết, chứ không phải là hậu quả của vô số ảnh hưởng mà ḿnh không tự chủ được.

Chính kāma-manas tức cái Hạ ngă đă si mê với ư niệm về sự tồn tại độc lập, đến lượt nó tự cho ḿnh là ‘kẻ tạo ra’ và chủ nhân ông của năm tanmātras, để trở thành Ngă thức, cái Bản ngă ích kỷ (H.P.B). [3]

* (trong triết học Samkhya tức Số luận, tanmātras tương ứng với năm yếu tố vật chất nguyên thủy, một trong năm cái đó là năm giác quan).

 

Bị mê mẫn bởi cảm thức ḿnh là một tồn tại độc lập, mỗi cá thể cảm thấy ḿnh là chủ nhân ông tạo ra nhân cách phàm ngă mà không hề biết rằng phàm ngă này là  ‘sản phẩm’ của việc các giác quan vận hành. Đây chính là maya, tức hăo huyền, bởi v́ nếu ta xem xét cách thức sinh hoạt của ḿnh th́ ‘cái tôi’ này là trung tâm phản ứng đối với đủ thứ ảnh hưởng, đó là một thực thể hăo huyền, một tư tưởng khác nữa sản sinh ra cảm thức về sự liên tục nhờ vào kư ức.

Nhưng cái thực thể biết suy nghĩ này không phải là Chơn ngă (theo H.P.B.th́ Chơn ngă không suy nghĩ, mà lại biết); Chơn ngă ngự trong sự Tịch lặng của Nhận thức thuần túy, bởi v́ cái quan năng suy nghĩ tự tung tự tác trong phạm vi hạn hẹp của những yếu tố đă được thụ đắc và giữa điều kiện chế định đa dạng. V́ thế, những quyết định xuất phát từ tư tưởng là hậu quả của những ảnh hưởng tác động tới phàm ngă và chỉ có một giá trị thứ yếu trong địa hạt tinh thần. Chính v́ thế mà J.K. thường bảo rằng sự chọn lựa là một phần của những vận động của ‘cái tôi’, c̣n hành động đúng đắn bắt nguồn từ một trạng thái ‘không chọn lựa’ xuất phát từ một nguồn gốc khác. Nhưng thế th́ ư chí là ǵ? Liệu nó có phải là sự vận động của ‘cái tôi’ chăng? Chẳng lẽ nó không phải là phương tiện hướng tới sự phát triển tinh thần?

 

Ư chí

Con đường đi tới Đấng Tối Cao không xuyên qua ư chí hoặc dục vọng. Đấng Tối Cao chỉ thể hiện ra khi kẻ nỗ lực không có ở đó. Khi cái trí được hội tụ qua ham muốn đă dứt bặt, không phải nhờ cố gắng, th́ lúc bấy giờ cái sự tịch lặng vốn không phải là mục tiêu mới giúp cho thực tại thể hiện được. (J.K.) [4]

Một số cá thể đâm ra bối rối khi J.K. nghi vấn giá trị của việc sử dụng ư chí để đánh thức Thực tại. Chẳng lẽ ta không nên cố gắng để tiến hóa hay sao?

J.K. bảo rằng: “Chừng nào cái ‘bản ngă’ c̣n đang hoạt động và tạo ra một sự phóng chiếu th́ không có khả năng thực chứng được thực tại”.

C̣n H.P.B. cũng nói một điều ǵ đó tương tự: “Chơn ngă chỉ có thể hoạt động khi phàm ngă đă bị tê liệt” [5].

V́ thế cho nên, ư thức về bản ngă phải bị ‘tê liệt’ (J.K. gọi trạng thái này là ‘sự tỉnh thức thụ động’) để cho Cái Đó có thể biểu lộ ra được, đây là nguyên tắc chủ yếu của Rāja Yoga. Nhưng ta có thể thắc mắc: “Chẳng lẽ Ư chí không phải là một khía cạnh của Linh hồn hay sao? Đôi khi từ ngữ có thể gây ra lẫn lộn v́ thường thường cùng một từ ngữ lại biểu thị những thứ khác nhau trong những ngữ cảnh khác nhau. Trước hết ta hăy xem Ư chí là ǵ và nó khác với ham muốn ra sao. Thường thường th́ cả hai năng lượng được dung hợp vào nhau và điều này có thể khiến cho ta không thấy đường. Trong đủ thứ đoạn văn do ḿnh viết ra, H.P.B. cũng như các Chơn sư xác định Ư chí là một hoạt động của nguyên khí thứ tư (Kāma tức nguyên khi ham muốn).

Chẳng hạn như ở một trong các Thư của Chơn sư ta đọc thấy:

Toàn thể cá tính được tập trung vào ba nguyên khí trung gian tức nguyên khí thứ ba, thứ tư và thứ năm (Prāna, Kāma và Manas). Trong khi sinh hoạt trên trần thế, tất cả tụ tập nơi nguyên khí thứ tư, trung tâm năng lượng tác ư - ư chí (Chơn sư M) [6].

J. Krishnamurti kịch liệt thách đố ư tưởng ‘tinh thần hóa’ Ư chí, bởi v́ ông bảo rằng cái ta gọi là Ư chí chẳng qua chỉ là ham muốn, đó là ‘ư chí qui ngă’.

H.P.B. cũng cảnh báo về khía cạnh này: “Hầu hết mọi người sinh hoạt bằng và qua ham muốn, nhầm lẫn nó là ư chí”. Nhưng ta không luôn luôn có ư thức về sự kiện này. Khi nhầm lẫn ham muốn với Ư chí, cá thể trở thành nô lệ cho những sự thôi thúc của nguyên khí kāma mà cứ tưởng rằng ḿnh đang phát triển ‘ư chí tinh thần’. Tác phẩm  Ánh Sáng Trên Đường Đạo bảo rằng: “Hăy diệt trừ ḷng khao khát tăng trưởng bởi v́ Ư chí tập trung vào ‘sự phát triển tinh thần’ thường là sản phẩm của tham vọng, là một ham muốn để cho cá nhân ḿnh được vĩ đại, đó là một hoạt động của Kāma.

Chúng ta có thể thắc mắc liệu có tồn tại một Ư chí thuần túy cá nhân chăng, tức là một năng lượng không phải là hoạt động (cá nhân) của Kāma. H.P.B. có viết một điều ǵ đó soi sáng cho vấn đề này.

. . . Ở đây Ư chí và Ham muốn được coi là đối lập nhau. Thế th́ Ư chí bắt nguồn từ Đấng Thiêng Liêng, là Thượng Đế nơi con người, c̣n Ham muốn là động cơ thúc đẩy sinh hoạt đầy thú tính. Hầu hết mọi người sống bằng và qua ham muốn nhưng lại lầm lẫn nó là Ư chí.. Người nào muốn thành tựu phải tách ư chí ra khỏi ham muốn, biến ư chí thành chủ nhân ông; ấy là v́ ham muốn vốn bất ổn và vô thường, c̣n ư chí vốn ổn định và thường trụ . . . Nhiệm vụ của y gồm cả hai phần; đánh thức ư chí, củng cố ư chí bằng việc sử dụng và chinh phục, khiến cho nó là chủ nhân ông tuyệt đối trong cơ thể và song hành với điều này th́ phải tẩy trược ham muốn (H.P.B.) [7].

Ở đây ta có nhiều khía cạnh cần phải được khảo sát. Một là H.P.B. nêu định đề rằng có tồn tại một Ư chí khác với cái ta thường gọi là ư chí, ư chí này chẳng qua chỉ là ham muốn. Ta phải xét tới điều này để không lẫn lộn Ư chí thực này với ham muốn. Có một dịp J.K. bảo rằng: “cái ư chí qui ngă và ham muốn nuôi dưỡng, củng cố bản ngă”; mọi thứ này chống lại điều cần thiết để bước trên thánh đạo.

H.P.B. cũng bảo rằng Ư chí (xét theo khía cạnh vô ngă) và Ham muốn (hữu ngă) đối lập với nhau và ta phải học cách phân biệt ‘tách ư chí ra khỏi ham muốn’. Làm cách nào ta có thể nhận diện được cái Ư chí tinh thần khác với ư chí qui ngă tức ham muốn?

Có một mấu chốt mà ta có thể t́m được qua lời dạy của H.P.B.: “Ham muốn vốn bất ổn và vô thường, c̣n Ư chí vốn ổn định và thường trụ”. Ta hăy tham chiếu một sự mô tả của J.K. về đề tài này, nó có thể giúp ta t́m ra được ư nghĩa:

Trong đa số trường hợp, chúng ta là những tạo vật được nhận diện qua những tâm trạng và theo cách thức biến đổi tâm trạng . .  Ta thích cái trạng thái vô thường này, ta nghĩ rằng sự vận động về tâm trạng là một phần của sự tồn tại  . . Nhưng có một số ít người không bị chi phối bởi sự náo động này, họ thoát khỏi trận đấu tranh trong tương lai theo một cách thức là nơi ngóc ngách trong nội tâm của họ có tồn tại một sự ổn định vốn không phải là sản phẩm của những hoạt động này. Điều này chỉ xuất hiện với cái ư chí qui ngă đă ngừng bặt. [8].

Ở đây J.K. đang nói tới một điều ǵ đó mà ta biết, tức là vô số những sự thay đổi tâm trạng chịu trách nhiệm cho sự kiện có ngày th́ ta rất có nghị lực, c̣n ngày khác th́ ta lại ră rời uể oai, nhát nhớn; ta chú ư tới ‘sự tăng trưởng’ nhưng lại sợ sự bất đắc chí v.v. . .

Mọi loại hoạt động này đều có liên quan tới ham muốn chứ không dính dáng ǵ tới Ư chí. Ư chí là một lực ổn định nhưng yên lặng, nó không tạo ra bất kỳ sự lệch hướng nào bởi v́ nó không mưu t́m bất cứ điều ǵ ‘nghe thấy được’ hoặc ‘nh́n thấy được’. Khi Ư chí bắt đầu biểu hiện th́ cá thể vẫn thanh thản thực thi đủ thứ hoạt động trong sinh hoạt mà nội tâm không phải phấn đấu, nhưng có sự dịu dàng vốn là thành quả của thông hiểu. Ư chí không phấn đấu, c̣n ham muốn tức ư chí qui ngă lại phấn đấu. Tuy nhiên, J.K. cũng như H.P.B. bảo rằng có thể thoát khỏi sự bất ổn này để đạt tới sự ổn định trong nội tâm. Song le, sự thức tỉnh của Ư chí tinh thần chỉ xảy ra khi cái ư chí qui ngă, tức ham muốn đă ngừng bặt. Ta ắt thấy rằng: “Ư chí và Ham muốn đối lập nhau”.

Một số người nghĩ rằng nếu ḿnh trở thành những thực thể không có ham muốn, không có tham vọng th́ ḿnh có thể rớt vào trạng thái giống như thực vật và điều này có lẽ đúng đối với những người không bước trên thánh đạo. Nhưng đối với những người ra sức bước trên thánh đạo th́ có tồn tại một năng lượng lớn hơn nhiều ẩn đằng sau cái ư chí qui ngă ấy, năng lượng này đang chờ được xuất hiện ngay khi nó được phép xuất hiện. Ta phải buông xả (ham muốn, ư chí qui ngă) để cho năng lượng ấy xuất hiện.

Và nếu ta muốn khám phá thực tại th́ ta phải chuyển động hướng về cái ắt làm ngưng trệ những hoạt động của bản ngă. Thế th́ ta lại thắc mắc ‘làm sao có thể ngưng bặt ham muốn tức ư chí qui ngă này?

Hiển nhiên là không cần có nhận thức tinh thần để vượt quá tư tưởng, ư chí (qui ngă) và những hoạt động khác thuộc về kāma manas. J.K. bảo rằng ‘khi có một nhận thức thông minh về mọi điều này th́ phép lạ thực sự xảy ra và cái ư chí qui ngă ắt ngừng bặt’ [9].

 

Vượt ngoài tầm tư tưởng

Có một lần J.K. bảo rằng:

Chúng ta đă dùng tư tưởng để khám phá Chân lư, nhưng Chân lư chỉ có thể được khám phá khi cái trí đă rỗng tuếch’.

Qui tŕnh suy nghĩ là sản phẩm do hoạt động của.kāma manas (cũng được gọi là hạ trí) và ta phải hiểu rằng cái tâm thức kāma manas ấy không thể nhận thức được điều vượt ngoài tầm ‘phạm vi vật chất’. Nó có thể suy nghĩ về phạm vi tinh thần; nói liếng thoắng về điều đó và coi đó là một điều khả hữu hợp lư, nhưng nó chẳng bao giờ nhận thức được trọn vẹn điều đó. H.P.Blavatsky giải thích điều này như sau:

Bởi v́ manas xét theo khía cạnh thấp là trụ xứ của cái trí trần tục, cho nên nó chỉ có thể cung cấp cái nhận thức về Vũ trụ dựa trên bằng chứng của cái trí trần tục, và không thể cung cấp  tầm nh́n theo tinh thần [10].

Ta không thể đạt được cái loại tự tri này bởi điều mà người ta thường gọi là ‘tự phân tích’. Ta không đạt được nó bằng cách lư luận hoặc bất kỳ qui tŕnh trí óc nào, bởi v́ đó là sự thức tỉnh đối với ư thức về bản chất Thiêng liêng của con người [11].

Tầm nh́n tinh thần không xuất hiện qua bất kỳ hoạt động nào của hạ trí tức ư thức trí óc. Để nhận thức được Thực tại, con người phải thay đổi trạng thái ư thức b́nh thường, y phải ‘đánh thức được cái ư thức về Bản chất Thiêng liêng nơi con người’. Cái tâm thức thiêng liêng này vốn nhất nguyên chứ không nhị nguyên. Phần b́nh luận về Yoga Sutras của Patañjali nêu rơ ràng chừng nào c̣n có nhị nguyên giữa chủ thể tri thức và đối tượng được tri thức th́ không thể có nhận thức tinh thần; và J.K. với H.P.B. cũng như các Chơn sư nêu định đề giống như vậy: Để khám phá được sự thật th́ cái bản ngă tâm lư (vốn tạo ra nhị nguyên) phải ngưng bặt.

Xét cho cùng th́ chủ thể tư tưởng là một phần của tư tưởng có đúng vậy chăng? Nếu không có tư tưởng th́ không có chủ thể tư tưởng, nhưng ta lại chia cách chủ thể tư tưởng với tư tưởng . . Thế mà chừng nào c̣n có việc chủ thể tư tưởng tách rời khỏi tư tưởng th́ ắt phải có xung đột, đó là qui tŕnh nhị nguyên. (J.K). [12].

Và chừng nào sự tương phản giữa Chủ thể và Khách thể c̣n kéo dài th́ chừng đó phàm ngă không thể bứt phá ra khỏi cái hàng rào ngăn cách nó với tri thức về tự thân sự việc. (H.P.B.) [13]

Tri thức chân thực (chân đế) được nói tới ở đây không phải là một trạng thái tâm trí mà là một trạng thái tinh thần, nó hàm ư có sự hợp nhất trọn vẹn giữa chủ thể tri thức và đối tượng tri thức (Chơn sư M) [14].

V́ thế cho nên khi xét rằng hoạt động nhị nguyên của tư tưởng khiến cho nó không thể đạt tới Thực tại th́ hiển nhiên là cần phải vượt quá tầm tư tưởng. Nhưng liệu nơi con người có tồn tại khả năng có một tầm nh́n siêu việt được tư tưởng hay chăng?

Thông Thiên Học có nói tới khả năng ấy mà J.K. gọi là ‘thấu ngộ’, c̣n H.P.B. gọi là ‘trực giác tinh thần’, tức buddhi.

Chỉ những người nào thực chứng được Trực giác có thể bay bổng vượt trên qui tŕnh lề mề của tư tưởng suy đi ngẫm lại, th́ những người ấy mới có thể có một quan niệm lờ mờ nhất về cái MInh triết tuyệt đối vốn siêu việt được ư niệm về Thời gian và Không gian. (H.P.B.) [15]

Chơn ngă không phản chiếu những trạng thái tâm thức biến thiên; Chơn ngă độc lập với mọi cảm giác (tức trải nghiệm); Chơn ngă không suy nghĩ mà lại BIẾT bằng qui tŕnh trực giác mà kẻ phàm phu chỉ lờ mờ quan niệm được  (H.P.B.) [16]

V́ thế cho nên, phải khảo cứu sâu sắc đâu là những điều kiện để tạo ra thành quả là trực giác này.

Tôi chẳng biết liệu các bạn có để ư thấy rằng có sự thông hiểu khi cái trí rất tịch lặng ngay cả chỉ một giây thôi; khi tư tưởng không c̣n huyên thuyên thốt nên lời th́ có một tia chớp lóe thông hiểu .Chỉ cần thực nghiệm điều đó th́ bạn ắt tự ḿnh thấy rằng ḿnh có cái tia chớp lóe thông hiểu ấy, cái sự thấu ngộ nhanh phi thường ấy khi cái trí rất tịch lặng, khi không có mặt tư tưởng [17] .

Chính trên bề mặt thanh thản và b́nh an của cái trí không điên đảo th́ những linh ảnh thu thập được từ cơi vô h́nh mới được biểu diễn trong thế giới hữu h́nh. Bằng không th́ các con ắt hoài công mưu t́m những linh ảnh ấy, những tia chớp lóe đốn ngộ đă giúp giải quyết được biết bao nhiêu vấn đề lặt vặt và chỉ có nó mới có thể đưa chân lư ra trước đạo nhăn của linh hồn. Ta phải giữ cho cái b́nh diện tâm trí ḿnh tránh khỏi mọi ảnh hưởng bất lợi hàng ngày đều xuất hiện khi ta trải nghiệm sinh hoạt trên trần thế. (Chơn sư  K.H.) [18].

H.P.B. và các Chơn sư cũng như J.K. khuyến khích ta hăy t́m cách thực chứng được cái trạng thái Minh triết vượt ngoài tầm điều chỉ mang chất con người, đó là trạng thái Theosophia hay Minh triết của Thượng Đế. Có lẽ với vai tṛ là người mong muốn trở thành Thông Thiên Học gia, ta có nhiệm vụ phải giữ cho vấn đề ấy luôn luôn được minh tâm khắc cốt; thế th́ ta sẵn có cái công cụ nào? Liệu thái độ của ta ra sao đối với khả năng thực chứng được trạng thái ấy?

Đề tài này rất phức tạp và có đủ mọi khía cạnh mà ta không thể hoàn toàn bao quát được trong một bài viết hoặc thậm chí một loạt bài viết. Chúng tôi chỉ tŕnh bày một vài tham chiếu tổng quát mà chúng tôi thấy trong giáo huấn của J.K. cũng như trong kho tài liệu Thông Thiên Học chỉ đường cho ta đi theo.

V́ con người trên trần thế bị hạn chế và câu thúc mọi phía qua hăo huyền, cho nên không thể đạt được chân lư qua sự minh giải của những nhận thức trần tục; v́ thế chúng tôi xin bảo rằng: Hăy phát triển tri thức nội tâm nơi bạn . .  Con người phải tự biết ḿnh nghĩa là có được những nhận thức nội tại không bao giờ lừa gạt th́ mới có thể nhiên hậu quán triệt được bất kỳ sự thật tuyệt đối nào. Sự thật tuyệt đối là biểu tượng của Vĩnh hằng và không một cái trí  hữu hạn nào đă từng bao giờ có thể lĩnh hội được vĩnh hằng. (H.P.B). [19]

Khi tâm thức cá thể xoay chuyển vào bên trong th́ có diễn ra một sự liên hợp giữa manas buddhi. Nơi người đă tái sinh xét theo phương diện tinh thần th́ sự liên hợp này là thường trụ, Thượng trí bám cứng lấy Buddhi (H.P.B.) [20]

Nơi con người cái tŕ có thể ở hai trạng thái mà người ta có thể lựa chọn được: trạng thái cá nhân và bị điều kiện chế định - đó là kāma manas, hoặc là trạng thái đă được soi sáng về tinh thần, đó là buddhi manas. Liệu có cái ǵ mở ra được cánh cửa dẫn tới nhận thức tinh thần đó? H.P.B. bảo rằng ta phải phát triển ‘tri thức nội tại’. Nơi đại đa số chúng ta tâm thức hướng ngoại; ta một phần nào có ư thức về những điều ḿnh đang làm, nhưng ta không có ư thức về điều đang diễn tiến bên trong ta khi ta hành động, phán đoán, suy nghĩ, phản ứng v.v . . . Mặt khác ta lại đọc biết rằng để đạt tới nhận thức tinh thần th́ trí óc phải ngưng bặt. Hai vấn đề này liên quan rất mật thiết với nhau bởi v́ J. K. có viết rằng chỉ do một việc quan sát bản ngă sâu sắc, do thông hiểu chính ḿnh th́ cái trí mới bắt đầu tịch lặng được.

Chỉ khi hiểu được chính ḿnh th́ cái trí mới trở nên tịch lặng và nếu không hiểu được chính ḿnh th́ không thể có được sự yên tịnh của cái trí. Khi cái trí nhờ giới luật mà được tịch lặng: nghĩa là khi ta không kiểm soát cái trí, không câu thúc nó qua sự kết tội và chống đối mà tịch lặng một cách hồn nhiên th́ chỉ có lúc bấy giờ ta mới có thể t́m ra được đâu là sự thật và cái ǵ vượt ngoài tầm những phóng chiếu của cái trí [21]

Nhận xét này là một hoạt động khác nữa của tư tưởng tức kāma manas. Trong phần trích dẫn vừa nêu trên của H.P.B. có sự kiện là khi nhận thức của manas được hướng dẫn về phía trung tâm th́ nó bắt đầu tạo ra sự liên hợp với buddhi và đây chính là điều tạo ra sự tịch lặng trong cái trí. Ta hăy thử xem xét sự kiện này một cách tỉ mỉ hơn. H.P.B. bảo rằng khi ta cố định sự chú ư chẳng những hướng về bên ngoài mà c̣n hướng về việc nhận thức ta có được những sự kiện và những điều ta làm th́ tâm thức của manas được đặt vào trạng thái cao nhất.

(Trạng thái thứ bảy) thuộc về Tinh thần hoàn toàn là nhận thức có ư thức; bởi v́ nó đạt tới Thượng trí, vốn tự ư thức về ḿnh. Nhận thức nghĩa là nhận thức về chính ḿnh, là hành động có ư thức . . . khi ta cố định sự chú ư vào nhận thức (H.P.B.) [22].

Tại sao đó lại là trạng thái cao nhất của manas? Bởi v́ trong các loại quan sát tự ḿnh ấy, cái bản ngă kāma manas không c̣n là chủ thể quan sát và phán đoán, mà lại là đối tượng được quan sát. Ta có thể thắc mắc: nếu sự quan sát này không bắt nguồn từ ‘cái tôi’ th́ nó bắt nguồn từ đâu? Sự quan sát diễn ra mà không có một trung tâm quan sát; cho nên nó bắt nguồn từ cái điều mang tính vô ngă. Khi điều này xảy ra, nhị nguyên tính do ‘cái tôi’ gây ra không c̣n nữa, không c̣n nhận thức nhị nguyên mà chỉ c̣n sự tịch lặng của nhận thức thuần khiết tức buddhi.

Ấy là v́ trong hành vi tự phân tích (tự quan sát) đến lượt Cái trí trở thành một đối tượng (của nhận thức) so với tâm thức tinh thần. Chính việc Buddhi tiếp điển phù hộ cho Cái trí có thành quả là tối hậu thực chứng được tồn tại nghĩa là tự ư thức dưới dạng thuần khiết nhất. (H.P.B.) [22]

 

Kết luận

Chúng ta phải hiểu rằng nhờ vào một cuộc đời hành động ở trạng thái có ư thức (không cẩu thả, vô ư tứ hoặc máy móc) và nhờ vào một sự chú ư sâu sắc tới cách thức mà ‘cái tôi’ đáp ứng với vạn vật. Sự tự tri xuất hiện để mở ra khả năng xảy đến một hành động không thuộc về phàm ngă với một sức mạnh không phải là ư chí qui ngă mà là sự nhận thức bao quát vốn không thuộc về trí năo.

Chính nhờ vào nhận thức (toàn cục, tịch lặng và tỉnh táo) này cho nên ta mới có thể bắt đầu nh́n thấy được hạ ngă theo sự minh giải của Thượng ngă - H.P.B. đă gợi ư như vậy, bởi v́ ở đâu không có một đường lối theo khái niệm th́ ở đó ta thấy ‘cái tôi’ là một điều hăo huyền và căn tính chân thật của ta không phải là mọi hoạt động suy tư và cảm xúc.

Đâu là cái trạng thái thuần túy quan sát không thuộc về cái trí? Nó có những tính chất nào? H.P.B. đưa ra những chỉ dẫn quan trọng và những nguyên lư phổ quát vũ trụ về đề tài này mặc dù bà không mô tả tỉ mỉ; nhưng may mắn thay J.K. lại quan tâm tới khía cạnh này rất nhiều. Thậm chí ta có thể bảo rằng đây là công tác chính yếu của ông. Ông không nói nhiều về những khía cạnh đại vũ trụ vốn là một điều ǵ đó mà  H.P.B. và các Chơn sư đă b́nh luận thỏa đáng rồi, nhưng J.K. dành trọn cuộc đời để chứng tỏ một cách kiên nhẫn, hết sức thông minh và sâu sắc. Một khía cạnh khác của công tŕnh hướng về việc phát triển trạng thái Minh triết của Thượng Đế (Theos-Sophia).

V́ thế cho nên, giáo huấn của J.K. không hề chống đối với giáo huấn Thông Thiên Học, mà lại là một bộ phận bất khả phân ly của giáo huấn ấy, bởi v́ công tŕnh Thông Thiên Học bao gồm hai khía cạnh: khía cạnh triết lư siêu h́nh và khía cạnh thực nghiệm tâm lư. Nếu ta chỉ đề cập tới khía cạnh thứ nhất th́ ta chỉ tŕnh bày Thông Thiên Học dưới dạng một lư thuyết, không dính dáng ǵ tới cuộc sống và không đưa ra những dụng cụ để tự chuyển hóa ḿnh. Ngược lại, nếu ta chỉ chú ư tới công tác tâm lư th́ cái trí vẫn c̣n bị câu thúc trong những phạm vi khó ḷng bứt phá ra được, do đó cái trí trở nên qui ngă, đánh mất khía cạnh siêu việt đại đồng vũ trụ của cuộc sống.

Khi tạo ra một sự thăng bằng giữa hai địa hạt công tác này th́ ta t́m ra được con đường đưa tới sự phát triển Minh triết của Thượng Đế (Theos-Sophia), và nếu ta học cách xây dựng được một nhịp cầu bắc qua hai thứ th́ có lẽ bên trong ta ắt xuất hiện một tầm nh́n thâm thúy hơn về sự tái sinh tinh thần của nhân loại vốn là mục tiêu chân thực của Thông Thiên Học.

 

Tài liệu tham khảo

 

1.      Ch́a khóa Thông Thiên Học, Tiết 8, Tại sao ta không nhớ được các kiếp quá khứ?

2.      Con đường Trí tuệ, Chương 4 – Phần 3. Bản chất của sinh hoạt Tôn giáo?

3.      Giáo Lư Bí Truyền, Quyển V, trang 494. Nhà xuất bản Thông Thiên Học Adyar. Cơ sở lư luận của triết học tín điều.

4.      B́nh luận về Cuộc sống, Tập I, Chương 78.  Sự tịch lặng và Ư chí

5.      Ch́a khóa Thông Thiên Học, Tiết 8. Tại sao ta không nhớ được các kiếp quá khứ?

6.      Thư của các Chơn sư gửi cho A. P. Sinnett, ngày 13 tháng giêng năm 1882.

7.      Tuyển tập các Tác phẩm của H.P.B., Quyển VIII, trang 109, Ư chí và Ham muốn.

8.      Tiểu sử Krishnamurti, của Pupul Jayakar, Chương XXIII –

9.      Ch́a khóa Thông Thiên Học, Tiết 9, Bàn về tâm thức sau khi chết và sau khi mới sinh ra.

10. Tuyển tập các Tác phẩm của H.P.B. Quyển VIII, trang 108, Tự Tri.

11. Tuyển tập Krishnamurti, Quyển IX, Việc giải đáp có Vấn đề, Bài nói chuyện thứ 5 trước công chúng ở Madras.

12. Giáo Lư Bí Truyền , Quyển II, Chất Nguyên thủy và Tư tưởng Thiêng liêng

13.  Thư của các Chơn sư gửi A. P. Sinnett, Bức thư 69.

14. Giáo Lư Bí Truyền, Quyển II, Lời nói đầu (chú thích cuối trang).

15. Tuyền tập các Tác phẩm của H.P.B., Quyển VIII, trang 96, Chủ nghĩa Duy tâm hiện đại c̣n tệ hơn Chủ nghĩa Duy vật.

16. Tuyển tập của Krishnamurti, Bài nói chuyện thứ năm trước công chúng ở Banaras, ngày 20 tháng 2 năm 1949.

17.  Thư của các Chơn sư gửi A. P. Sinnett, Bức thư 11.

18.  Tuyền tập các Tác phẩm của H.P.B., Quyển IX, trang 39. Đâu là Chân lư?

19.  Giáo Lư Bí Truyền, Quyển V, trang 438, Tài liệu thứ Nh́, Nhà xuất bản Thông Thiên Học, Adyar.

20.  Tuyển tập của Krishnamurti, Bài nói chuyện thứ năm trước công chúng ở Paris, ngày 7 tháng 5 năm 1950.

21. Giáo Lư Bí Truyền, Quyển V, trang 548 - 9, Tâm thức có bảy giai bậc. Nhà xuất bản Thông Thiên Học, Adyar.

22.  Tuyền tập các Tác phẩm của H.P.B., Quyển VIII, trang 96, Chủ nghĩa Duy tâm hiện đại c̣n tệ hơn Chủ nghĩa Duy vật.

 

Liệu bạn có cần bằng chứng về Thượng Đế không?

Phải chăng người ta đốt lên một ngọn đuốc th́ mới thấy được mặt trời?          

                Minh triết Á đông

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS