|
|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
|
Một người Báo điềm về Hội Thông Thiên Học
(Tạp chí Nhà Thông Thiên Học, số tháng 8 năm 2004)
|
|
Một người Báo điềm về Hội Thông Thiên Học
Ramalinga Swami mà ta gọi là Vallalar, sống ở miền Nam Ấn Độ vào thế
kỷ thứ 19 và từ trần trước khi những vị Sáng lập Hội Thông Thiên Học
đặt chân tới Ấn Độ, thế nhưng ông là người tiên phong của Hội Thông
Thiên Học. Người ta c̣n ghi chép lại rằng ông tiên tri có hai người
nước ngoài đến Ấn Độ để xúc tiến T́nh Huynh Đệ Đại Đồng thông qua
một Hội tượng trưng cho tính đơn nhất của tất cả loài người. Bản
thân ông cũng ủng hộ T́nh Huynh Đệ Đại Đồng của mọi chúng sinh chứ
không chỉ của loài người trong suốt buổi sinh thời của ông. Những ǵ
ông viết lách và thuyết tŕnh đều rất gần với giáo huấn của Thông
Thiên Học, nhưng ông đề cao việc thực hành thoải mái hơn bởi v́ công
tŕnh của ông chỉ hạn chế trong nước Ấn Độ, nơi mà những khái niệm
như thế, chẳng hạn như việc tôn trọng sự sống đă có sẵn rồi trong
tâm thức của hầu hết mọi người, và v́ vậy một phần trong sinh hoạt
hàng ngày của họ là sống từ bi và thực hành việc ăn chay.
Bà Blavatsky có tŕnh bày rơ ràng trong Ch́a Khóa Thông Thiên Học về
cái giá trị của việc không ăn thịt thú vật. Bà nêu rơ rằng từ khí
của động vật ắt nhập vào cơ thể con người khi ta ăn thịt, nó ảnh
hưởng tới các rung động của thể xác mà lúc bấy giờ không thích hợp
cho việc sinh hoạt với đời sống tinh thần: “Khi người ta đồng hóa
thịt thú vật dưới dạng đồ ăn th́ xét về mặt sinh lư điều này truyền
thụ cho y một số đặc tính của con thú mà ta giết thịt. Hơn nữa, khoa
học huyền bí có dạy dỗ và chứng minh điều này cho các học viên qua
sự mục kích, cũng cho thấy rằng cái tác dụng làm thô kệch hoặc thú
vật hóa con người là lớn nhất khi ta ăn thịt những con thú lớn so
với những con chim, ít hơn nữa là cá và những con thú có máu lạnh và
ít nhất khi người ta chỉ ăn thực vật thôi”.
Bà cũng nêu rơ chống đối việc uống rượu bằng cách tuyên bố: “Việc
uống rượu vang và rượu mạnh chỉ phá hoại sự phát triển quyền năng
nội giới ít hơn việc thường xuyên sử dụng ma túy, thuốc phiện và
những chất gây nghiện khác.”
Nhưng H. P. B. chẳng bao giờ đề nghị các hội viên Thông Thiên Học
phải tuân lệnh hoặc là ăn chay hay là kiêng uống rượu và hút thuốc
lá; có lẽ bởi v́ vào thời đó có nhiều khó khăn trong việc ăn chay ở
các nước Âu Mỹ hay là v́ người ta có dụng ư thu hút đến Hội Thông
Thiên Học những người đủ mọi giống dân và nền văn hóa.
Tuy nhiên Vallalar khẳng định rất rơ rằng một phần trong giáo huấn
của ông là việc ăn chay. Ông không rao giảng bất cứ tôn giáo đặc thù
nào hoặc khen ngợi bất cứ thần linh nào của Ấn giáo. Qua nhiều câu
thơ thần bí bằng tiếng Tamil, ông dạy rằng Thực tại Tối cao là Ánh
sáng và Hồng ân. Có một Đấng vô thượng khác với trí tuệ vũ trụ hoặc
ánh sáng có mặt ở khắp mọi nơi, bao trùm vạn vật và thấm nhuần vạn
vật. Ramalinja Swami chống lại việc dùng các ngẫu tượng và lập nên
một cây đèn ở một thị trấn nhỏ tên là Vadalur ở miền Nam Ấn Độ, đèn
cháy ngày đêm v́ là biểu tượng của Đấng Tối Cao. Điều này phù hợp
với ư tưởng của Hội Thông Thiên Học được tŕnh bày trong Thư của các
Chơn sư theo đó không có Thượng Đế nào khác với sự sống vũ trụ.
Ḷng ngu tín tôn giáo vẫn c̣n là một sức mạnh lớn lao trên thế giới.
Nó bắt đầu bằng cách gán cho thần linh một h́nh dạng và tên gọi đặc
thù, rồi gán một vài câu nói trong kinh điển cho thần linh ấy. Mỗi
nhóm người ngu tín về tôn giáo đều tin rằng kinh điển và ảnh tượng
mà ḿnh ưa chuộng là đích thực. Vallalar phủ nhận mọi điều ấy và nêu
rơ rằng tôn giáo chính là đạo tâm hướng về ánh sáng tối cao. Ông
không ủng hộ bất cứ phương pháp đặc thù nào để đạt được giải thoát,
nhưng ông nhấn mạnh tới nhu cầu cần phải tẩy trược bản ngă và có
t́nh huynh đệ đại đồng.
Cách đây không lâu Đức Đạt lai lạt ma có nói bằng lời lẽ dứt khoát
rằng, bất cứ ai mưu t́m Niết bàn ắt chẳng được lợi ích ǵ nếu người
ấy không sống một cuộc đời vị tha, thực hành ḷng từ bi và t́nh
thương. Tự thân Niết bàn sẽ có, khi tâm trí được thanh khiết và vị
tha. Cư xử đúng đắn là nền tảng của sự tham thiền và nhận thức trong
sáng. Krishnamurti có nêu rơ rằng khi tham thiền trở thành một loại
tham vọng mới đối với những điều cao siêu – th́ nó chẳng đưa ta tới
đâu. Bà Blavatsky cũng khẳng định rằng việc có được Minh triết
Thiêng liêng tùy thuộc vào việc ta trở nên vị tha: “Không một minh
triết nào từ bên trên giáng xuống bất cứ ai, nếu y không từ bỏ mọi
tí chút ḷng ích kỷ hoặc ham muốn đối với những mục tiêu cá nhân.
Thiên nhiên chỉ ban tặng những bí mật sâu kín nhất và minh triết
chân chính cho người nào mưu cầu sự thật v́ sự thật, và khao khát
tri thức để mang lại lợi ích cho những người khác, chứ không phải v́
phàm ngă không quan trọng của chính ḿnh”.
Vallalar cũng dạy chân lư đúng như thế, ông hiệu triệu người ta hăy
tẩy trược bản thân và chú ư tới cả thể xác lẫn tâm trí. Người ta
phải rèn luyện thân xác bằng việc ăn uống đúng mức và chăm sóc nó
thích đáng để cho nó được nhạy cảm và cũng cần phải thao dượt đúng
mức. Khi thể xác đă được tẩy trược và đáp ứng với một cái trí vốn
b́nh thản và không ô uế th́ nó trở nên chói sáng mà ta thấy có vầng
hào quang xung quanh những người thánh thiện. Bà Blavatsky có viết
rằng: “Nhờ việc rèn luyện Yoga thân xác mới được trong sạch giống
như một cái tráp bằng pha lê, linh hồn được gột rửa mọi điều thô
trược, và tinh thần – trước khi bắt đầu quá tŕnh tẩy trược bản ngă
và phát triển, chẳng qua chỉ là một giấc mơ đối với người ta – th́
giờ đây lại trở thành thực tại”.
Khi thân xác và tâm trí được chuẩn bị như vậy th́ ḷng từ bi chi
phối mọi mối quan hệ với con người, thú vật và cây cỏ. Có nhiều lần
người ta trích dẫn những lời từ bi của Ramalinga Swami ở miền Nam Ấn
Độ tuyên bố rằng ḷng dạ ông héo hon bất cứ khi nào ông nh́n thấy
cây cỏ héo úa.
C̣n một nhân vật nữa được tôn kính ở miền Nam Ấn Độ, đó là
Tiruvalluvar. Trong tác phẩm nổi tiếng bằng tiếng Tamil, ông có dành
toàn bộ một chương gồm mười câu thơ nói về việc kiêng không gây hại
và không ăn thịt. Giáo huấn c̣n đi xa đến mức bảo rằng khi người ta
bị cố t́nh đối xử bất công mà nếu người ta trả thù th́ điều này gây
ra phiền năo mà chính ḿnh không chịu đựng nổi. Thật thú vị khi
trong Hội Tam Điểm cũng có một giáo huấn tương tự: Ta không được tự
tay ḿnh dành lại sự công b́nh bằng cách trả thù. Những định luật
lớn trong Vũ trụ ắt đảm đương việc thực hiện công bằng.
Khi T́nh Huynh Đệ Đại Đồng và ḷng từ bi đối với mọi tạo vật đă trở
thành định luật trong sinh hoạt của ta, khi giới luật tự giác đă tẩy
trược cho thân xác, tâm trí và toàn bộ bản chất ta, và khi sinh hoạt
hàng ngày của ta biểu thị nguyên lư tối cao là vô hại th́ hồng ân ắt
giáng xuống. Chẳng ai cần phải xin xỏ hồng ân, nó tuôn xuống như mưa
rào cho tất cả những ai đă sống với cái loại sinh hoạt đúng đắn.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS