Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS


PHƯƠNG TIỆN PHÁT TRIỂN L̉NG SÙNG TÍN.

CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT

Trích SELF CULTURE

Tác giả I. K. TAIMNI

PHƯƠNG TIỆN PHÁT TRIỂN L̉NG SÙNG TÍN.

CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT

                                                      

Trong quyển Bhakti Sūtras (Cách ngôn về Ḷng Sùng Tín) của ông Nārada, các câu cách ngôn dạy về những phương tiện phát triển ḷng sùng tín rải rác khắp nơi và không thứ tự, chúng ta sẽ chọn những câu quan trọng liên quan mật thiết đến đề tài và thảo luận chung tất cả trước khi tiến đến những khía cạnh khác

 

10. “Chỉ một ḷng duy nhứt sùng tín đối với Ngài và không lưu tâm đến tất cả những ǵ đối nghịch với Ngài” (9).

 

11. “Chỉ một ḷng duy nhứt sùng tín đối với Ngài có nghĩa là từ khước tất cả những nơi nương tựa khác”(10).

 

12-  “Không lưu tâm đến tất cả những ǵ đối nghịch với Ngài có nghĩa là hạnh kiểm đúng đắn, ḥa hợp với những bổn phận thuộc xă hội, luân lư và tâm linh” (11).

 

Nhóm ba câu cách ngôn (9,10,11) vừa kể đem lại ánh sáng cho hai điều cần thiết để đi trên con đường t́nh thương và chúng ta sẽ bắt đầu với ba câu đó. Câu sutra số 10 nêu ra hai điều căn bản cần thiết và hai câu kế cho biết bản chất tổng quát về những điều này. Hai điều cần thiết chỉ ra do nhóm từ Phạn ngữ AnanyatāTad virodhisudasinata. Chúng ta hăy xem qua trước hết nhóm từ Anayatā.

Anayatā được dịch là ḷng duy nhứt sùng tín đối với Thượng Đế và được giảng nghĩa là từ khước tất cả những nơi nương tựa khác. Nhóm từ này chỉ ra nghĩa tổng quát được người b́nh thường hiểu; nhưng người hành giả muốn đem ra thực hành phải cố gắng t́m hiểu sâu rộng hơn nữa về từ Anayatā. Xét theo nghĩa đen của câu và lưu tâm đến truyền thống và cách thực hành của các vị Thần bí và thánh hiền, tôi nghĩ rằng đúng hơn nên hiểu câu kinh đó như vầy: “trọn vẹn tùy thuộc vào Thượng Đế trong tất cả sự việc”. Đương nhiên mọi người chí nguyện sẽ sẵn sàng chấp nhận lư tưởng ngoan đạo này và cố gắng thể hiện đúng đắn trong đời sống ḿnh càng nhiều càng tốt. Nhưng, điểm then chốt của trọn vấn đề nằm trong hai từ “trọn vẹn” và “tất cả sự việc”. Thật là dễ dàng tùy thuộc vào Thượng Đế khi thuận tiện làm điều đó, nhưng hết sức khó khăn phát triển một tác phong và thói quen của tâm trí để trọn vẹn vào mọi việc tùy thuộc nơi Ngài. Và chính đây là lư do tại sao phương tiện hiển nhiên nhứt này để làm phát triển ḷng sùng tín vẫn tỏ ra vô hiệu quá trong hầu hết tất cả nhà sùng đạo đă nghĩ rằng ḿnh đă tùy thuộc nơi Thượng Đế, nhưng trên thực tế vẫn không có sự thay đổi nào đích đáng trong nếp sống và tâm trí ḿnh. Nếu bạn chỉ tùy thuộc vào Thượng Đế khi cơ hội tỏ ra thuận tiện, và lại tùy thuộc nơi bạn, hay nơi kẻ khác phần lớn thời giờ th́ thái độ ấy không phải tùy thuộc thật sự vào Thượng Đế. Đó là một mưu chước mà bạn chỉ dùng Ngài như một phương tiện thích nghi, cũng như bạn có thể nhờ tất cả bất cứ người khác, và điều này không thể như vậy được.

Đương nhiên người ta không thể phát triển Ananyatā một cách đột ngột bằng ḷng quyết tâm được. Đó là một tiến tŕnh chậm răi của sự tăng trưởng và bao hàm một ṿng tṛn đạo đức. Bạn càng tin tưởng nơi Thượng Đế và tùy thuộc vào Ngài th́ Ngài càng sẵn sàng và đáp ứng trọn vẹn ḷng tin tưởng của bạn và thỏa măn những nhu cầu và đ̣i hỏi thất sự của bạn. Khi quả thật bạn nhận thấy những nhu cầu thật sự của bạn được thỏa măn – đôi khi gần như là do một phép lạ - th́ đức tin của bạn vào sự chăm lo quảng đại và tŕu mến của Ngài càng tăng trưởng mau lẹ. Và chừng đó, từ bên trong nội tâm, ḷng sùng tín thật sự của bạn bắt đầu tự tuôn trào, dưới h́nh thức đơn giản một niềm vui mừng tôn kính, không mong muốn ǵ khác hơn là tỏ ra xứng đáng với sự chăm sóc tŕu mến và t́nh thương mà Ngài đă ban tặng cho bạn. Như đă vừa nói, đây là một tiến tŕnh chậm răi, nhưng chậm hay mau chỉ tùy thuộc nơi chúng ta chứ không do nơi Ngài, v́ Ngài vẫn đang chờ cơ hội ban cho mọi điều – nay đến cả Ngài nữa – nhưng chúng ta lại tỏ ra chưa xứng đáng để nhận lănh Ngài. Thật vậy, bản chất của con nguời là như thế ấy, chúng ta phải kiên nhẫn và bền chí trong cố gắng này, luôn luôn nuôi dưỡng ư tưởng tùy thuộc trọn vẹn nơi Ngài trước mắt, mặc dầu không thể lúc nào chúng ta cũng có thể thành công như mong muốn. Chúng ta phải chuẩn bị ḿnh sẽ bị thử thách một cách nghiêm khắc, để nhận thấy ḷng tin cậy của chúng ta có chân thành thật sự hay chỉ là ḷng tùy thuộc giả tạo nó tan biến đi và đến nỗi trở thành sự thất vọng và oán giận, khi các dục vọng và nhu cầu của ḿnh không được thỏa măn. Bởi v́ Ngài làm cái ǵ thật sự tốt lành cho chúng ta, chứ không phải những ǵ, v́ vô minh, chúng ta tưởng là tốt cho ḿnh.

Nơi đây, chúng ta chỉ bàn qua nguyên tắc tổng quát. Bằng cách nào Ananyatā được phát triển thật sự trong đời sống một người là vấn đề cá nhân, mà mỗi người phải tự ḿnh giải quyết lấy. Trong nếp sống tâm linh đích thực th́ khác với nếp sống tôn giáo thông thường, không thể có những luật lệ cứng ngắt và chặt chẻ phải tuân theo một cách máy móc và kém thông minh để mang lại một kết quả mong muốn. Chúng ta phải đặt trọn tâm trí vào vấn đề này, luôn luôn chú ư, kinh nghiệm qua nhiều đường lối khác nhau và tự chuẩn bị đón lấy thất bại. Chỉ có như thế chúng ta mới có thể thành công, đạt được cứu cánh. Nhưng nếu chúng ta kiên nhẫn một cách chân thành, rốt ráo sự thành công nhứt định phải đến, bởi v́ chúng ta đang sống trong một thế giới của những định luật cố định có thể tin cậy được như những định luật của thế giới vật chất, và điều quan trọng nhứt là Đấng mà chúng ta đang t́m kiếm, đang ở phía sau sự cố gắng của chúng ta, và Ngài c̣n nôn nóng hơn chúng ta để thực hiện sự ḥa hợp này. Nhưng một ḷng trung thành và một đức tin dơng mănh th́ tỏ ra cần thiết. Nên nhớ rằng, thực hành những điều đó một cách cố gắng lưng chừng hay tùy hứng – như chúng ta thường có thói quen – là điều vô ích. Ḷng hoài nghi là kẻ thù to lớn của sự tiến bộ tâm linh. Bằng một cách làm hại âm thầm, nó vô hiệu hóa tất cả mọi cố gắng  và đục khoét bên dưới ṭa lâu đài của đời sống tâm linh chúng ta. Ḷng hoài nghi là một vũ khí hữu ích và cần thiết ở giai đoạn t́m hiểu buổi đầu. Nhưng chúng ta phải cố gắng xem xét những việc này, suy nghĩ cẩn thận, trắc nghiệm chúng,và đi đến những kết luận rơ rệt và niềm tin tưởng vững chắc, được gọi là Nischaya trong Chương trước. Nếu các cố gắng của chúng ta thành tựu, và nếu thật tâm chúng ta muốn được bước chân vào con Đường này, chúng ta phải cầu nguyện và thanh lọc tâm trí để có ánh sáng Bồ Đề Tâm, v́ đức tin thật sự không ǵ khác hơn là sự soi rọi của hạ trí với ánh sáng Bồ Đề Tâm, mang lại cho chúng ta ḷng vững chắc và sự tin tưởng, bởi v́ nó phản ảnh phần nào các thực tại của đời sống nội tâm vào trí chúng ta. Một khi chúng ta quyết định bước vào con Đường, phải xóa bỏ tất cả dấu vết của sự nghi ngờ trong trí chúng ta, đừng cho phép nó lai văng với ư niệm sai lầm là điều đó tốt cho chúng ta, và là một dấu hiệu của tri thức. Đó không phải là một dấu hiệu của trí thức. Chính đó là bằng chứng cho biết Bồ Đề Tâm không soi sáng trí chúng ta, và nó luôn luôn phất phơ giữa vô số quan điểm và đường lối hành động, nhưng vẫn không thể quyết định chọn lấy cái nào đúng. Nếu chúng ta không tin tưởng nơi điều này và vẫn cho tánh hoài nghi là phần cần thiết cho sự tiến triển trong đời sống tâm linh, như thế tôi e rằng hiện nay, thật sự chúng ta không có vị trí nào ở lănh vực của sự cố gắng Thiêng Liêng này. Đúng ra vị trí của chúng ta thuộc nhóm được gọi là trí thức của thời hiện đại, tự cho ḿnh là người tiền phong của văn minh, bởi v́ ḿnh không tin tưởng vào điều ǵ cả và khăng khăng vào quyền ngờ vực mọi việc của ḿnh.

Chúng ta hăy xem qua những ǵ Đức Krishna nói đến ḷng nghi ngờ và con người có Shraddā (đức tin) thật sự, trong quyển kinh Bhagavad Gitā:

 

“Những kẻ vô minh, không đức tin, nghi ngờ ḿnh, đi đến sự hủy diệt, người có tánh ngờ vực không t́m thấy hạnh phúc thông thường ở thế gian này; lẫn cả ở các cơi kế tiếp” (IV.40).

 

“Con người đầy đủ đức tin, có được minh triết, và y cũng chế ngự được các giác quan, và nhờ có Minh Triết, y sẽ mau lẹ hưởng sự An Tịnh Tột Cùng” IV. 39).

 

Tôi nghĩ những lời nói này thật rơ rệt và vĩnh viễn giải quyết vấn đề ḷng nghi ngờ của những ai có tánh hoài nghi về sự Minh Triết và về sự cần thiết nuôi tánh hoài nghi đối với đời sống cao cả.

Mặc dầu thói quen hoài nghi làm ảnh hưởng hết sức nặng nề một số người, tất cả chúng ta đều ít nhiều đau khổ v́ những mối hoài nghi ẩn núp trong tâm trí chúng ta mà phần lớn ḿnh không ư thức. Chính những mối hoài nghi này đă cản ngăn chúng ta thành thật vâng lời một cách trọn vẹn hăng say những huấn thị của các Đấng Sư Phụ Cao Cả của chúng ta, và không mạnh dạn thực hành những phương pháp được t́m ra để khai mở bản chất tâm linh của ḿnh. Về trí thức chúng ta chấp nhận những điều này, nhưng trong thâm tâm th́ không trọn vẹn tin tưởng. Chúng ta không ư thức rằng ḿnh hăy c̣n những ngờ vực trong trí. Chính thái độ ḿnh không chuẩn bị để nghiêm chỉnh áp dụng những biện pháp đề nghị đó chứng tỏ sự hiện diện của những mối hoài nghi ngấm ngầm.

Chúng ta lăng phí bao nhiêu món quà quí báu nhất mà đời sống mang lại cho chúng ta, bằng cách ḿnh không chịu tập thử những phương pháp thật đáng tin cậy, mà những người khác đă sử dụng qua và thành công! Tới đây, tôi nhớ lại một câu chuyện đă được xem qua nơi nào đó, kể lại chuyện hai người dân nước Anh, một người biết nhiều về tánh ngờ vực của dân chúng, và người kia không biết. Họ đánh cá một trăm đồng tiền vàng. Người biết nhiều về tánh hoài nghi của dân chúng nói rằng: “Tôi sẽ đứng trên cầu sông Thames với một trăm đồng tiền vàng thứ thiệt đặt trên một cái khay, trong ṿng 15 phút, và cố gắng bán những đồng tiền vàng đó với giá một shilling thôi (mỗi đồng tiền vàng giá bằng hai đồng shilling). Nếu trong ṿng 15 phút, có được một người mua một đồng tiền vàng theo giá đề nghị th́ anh thắng cuộc. Nếu không bán được đồng nào cả th́ anh thua. Y đứng trên cầu như đă định. Dân chúng qua lại, tỏ ra rất thích thú, nhưng ai cũng nghĩ ḿnh quá khôn ngoan không dễ bị đánh lừa. Ai ai cũng nghĩ rằng phải có một mưu mẹo bí ẩn ǵ đó. V́ thế, có đến cả mấy trăm người bộ hành qua lại trên cầu mà chẳng bán được một đồng tiền vàng nào cả, mặc dầu đề nghị rất chân thành.

Phần đông chúng ta giống như những người bộ hành đi trên cầu ấy. Các Chân Sư Cao Cả của nhân loại, các thánh nhân và hiền triết đă đi trên con Đường và đạt được mục tiêu, hiến cho chúng ta biết bao sự thật quí báu của đời sống tâm linh một cách nghiêm chỉnh, nhưng chúng ta lại không nghiêm chỉnh đón nhận những lời dạy bảo đó. Các Ngài cho biết có một Thực Tại kỳ diệu ẩn núp bên trong nội tâm chúng ta và chúng ta có thể thực hiện Nó, nếu chúng ta làm những cố gắng cần thiết và chuẩn bị hy sinh hiện tại đầy ảo ảnh của lạc thú, để hưởng Sự Sống Vĩnh Cửu đang để dành cho chúng ta. Chúng ta hoan nghênh các Ngài ngoài đầu môi chót lưỡi, nhưng chúng ta không hành động ǵ cả, và nếu có làm cái ǵ th́ cũng chỉ làm cho lấy lệ thôi. Lư do sao vậy? Ấy v́ có những hoài nghi ẩn núp nơi nào đó trong trí chúng ta. Đương nhiên, trong nhiều trường hợp, lư do là v́ chúng ta chưa sẵn sàng đón nhận vận số huy hoàng ấy đang chờ đợi chúng ta, mà những việc không sẵn sàng này cũng bắt nguồn từ ḷng hoài nghi mà ra. Một cách tổng quát, không có ǵ bảo vệ một chân lư hữu hiệu và khiến nó không đến được con người hơn bằng ḷng hoài nghi. Do đó, một Đấng Chân Sư nói rằng: để bảo vệ sự lạm dụng các hiểu biết về Huyền Bí Học và các quyền năng không có ǵ hơn là ḷng nghi ngờ của những người có thể lạm dụng chúng. Đó là lư do tại sao các Ngài không nhiệt t́nh mong muốn mọi người trên thế gian phải chấp nhận những chân lư huyền bí này.

Thế th́, Ananyatā là một trong những chân lư quư báu đó, có những tiềm năng khổng lồ trong công việc phát triển ḷng sùng tín. Nhưng có được bao nhiêu người nghiêm chỉnh xem xét vấn đề, hay bắt tay vào một cuộc thực tập thật tâm?

Bây giờ, chúng ta hăy bước sang yêu cầu kế được gợi ư trong câu sutra thứ 3. Theo h́nh thức bên ngoài của nó, dường như câu sutra này chỉ được áp dụng riêng cho những người Ấn Độ mà thôi, v́ họ chuyên theo lời dạy kinh Véda (Vệ Đà) trong công cuộc tu thân hành đạo. Kinh này đặt nền tảng trên những điều mặc khải và thuộc phái chính thống Ấn Độ. Trong kinh chứa đựng đủ mọi tŕnh độ phát triển cho người hành giả, từ thấp nhất đến cao nhất. Có phần riêng cho những ai muốn thụ hưởng những thú vui của thế gian này, hoặc là của Cơi Trời Cực Lạc; và cũng có phần của kinh Upanishads hướng dẫn những người đă nhận thức được bản chất ảo ảnh phù du của cuộc đời cũng như của cơi Trời, và sẵn sàng dấn thân vào công việc khó nhọc khám phá Chân Lư vĩnh cửu của Thực Tại, ẩn tàng trong nội tâm họ. Bất cứ ai cũng đều được tự do chọn lựa con đường của ḿnh, mặc dầu phải chính thống t́m cách mang lại hạn chế đủ loại. Nhưng không một ai giữ những điều này một cách nghiêm túc vào thời buổi bây giờ.

Thế th́, nếu bạn quan sát câu kinh đó kỹ lưỡng và bỏ đi phần bên ngoài thuộc về tư tưởng và truyền thống Ấn Độ, bạn thấy nó không khuyên ǵ hơn là sống một nếp sống ngay thẳng, với tất cả ư nghĩa rộng răi và phổ quát của từ “ngay thẳng” này. Sống “Ngay thẳng” có nghĩa là sống một cách nghiêm nhặt, thận trọng hơn với những ǵ trong thâm tâm chúng ta biết là đúng, chớ không do ảnh hưởng của các dục vọng cá nhân ḿnh. Cũng có thể, điều ấy liên quan phần nào đến Phạn ngữ huyền bí “Rta” của tôn giáo và triết lư Ấn Độ, biểu thị cái trật tự luân lư hùng mạnh tiềm ẩn trong vũ trụ và cả trong lănh vực thời gian và không gian. “Rta” là Định Luật Thiêng Liêng ẩn tàng đang diễn tiến, bắt nguồn từ Chương Tŕnh và Ư Chí Thiêng Liêng và nó định đoạt sự ngay thẳng cố hữu của mọi hành động, mọi hoạt động ở bất cứ lúc nào và nơi nào, đối với cá nhân cũng như đối với đoàn thể. Nếu một sự việc hài ḥa với Rta này, tất nhiên nó đúng đắn, bằng không th́ nó sai lầm.

Chúng ta không đi sâu vào khía cạnh triết lư của từ ngay thẳng, nhưng chỉ t́m hiểu khía cạnh thực thế của nó, như một điều kiện cần thiết đối với những ai đi trên con đường dắt đến sự Toàn Thiện và Giải Thoát.

Dù chúng ta quyết định điều chỉnh cuộc đời và hạnh kiểm ḿnh ḥa hợp với các chỉ dẫn về tánh t́nh ngay thẳng, làm thế nào định đoạt điều ǵ là đúng ở một hoàn cảnh đặc biệt? Không có luật lệ máy móc nào có thể d́u dắt chúng ta về phương diện này. Chỉ một cách duy nhứt giúp chúng ta có thể nhận thức tánh chất ngay thăng, là ánh sáng Bồ Đề Tâm soi rọi tâm trí và tâm thức tâm linh của chúng ta, và Bồ Đề Tâm đó liên quan với Rta. Khả năng nhận thức điều ngay thẳng xuyên qua ánh sáng Bồ Đề Tâm, như đă xem qua trước đây, chỉ có thể có được nhờ một thói quen liên tục làm điều thiện, điều phải làm, một cách đúng đắn với bất cứ giá nào, mặc cho sự mất mát to tát tới đâu đối với chúng ta ở buổi hiện tại. Một lần nữa nơi đây chúng ta gặp một ṿng tṛn đạo đức. Chúng ta càng làm những cố gắng sống đúng với những ǵ ḿnh nhận thức là ngay thẳng, th́ chúng ta càng dễ dàng và mau lẹ nh́n ra đâu là điều thiện, ngay thẳng dưới ánh sáng của Bồ Đề Tâm và chúng ta càng dễ dàng biến đổi sự nhận thức đó ra hành động thực tế đúng đắn. Đó là con đường duy nhứt để mang lại sự ngay thẳng thật sự và giúp nó trở thành một phần bản chất của con người ḿnh để chúng ta hành động ngay thẳng không khó nhọc, không do dự và cũng không cố gắng. Đương nhiên, ở vào lúc đầu, chúng ta có thể và phải đi theo một số qui luật thật rơ rệt, bởi v́ có những đường lối hạnh kiểm luôn luôn đúng với lẽ phải, và những đường lối khác luôn luôn sai lầm ở mọi hoàn cảnh. Cách sống kỷ luật này thanh lọc tâm trí chúng ta, giúp ánh sáng Bồ Đề Tâm soi rọi nó phần nào, nhưng chúng ta không thể luôn luôn tùy thuộc vào những qui luật đó và rốt ráo phải tùy vào trực giác của ḿnh ở những giai đoạn cao hơn sau này.

Bây giờ, điểm quan trọng phải nhận thức nơi đây là tánh chất cần thiết của một nếp sống ngay thẳng đối với người chí nguyện nghiêm chỉnh muốn khai mở bản chất tâm linh của y, dù theo Bhakti Marga (Con đường Sùng Tín) hoặc con đường Raja Yoga. Sự quan trọng của một nếp sống ngay thẳng có nhiều lư do cần lập đi lập lại và ôn tập. Trước tiên, đó là việc duy nhứt có thể bảo đảm sự an toàn của chúng ta, đặc biệt ở các giai đoạn cao, khi mà các quyền năng bắt đầu xuất hiện một cách tự nhiên, do kết quả của sự đạt được những trạng thái cao của tâm thức, và người hành giả có thể lạm dụng các quyền năng đó trong các mục tiêu riêng tư. Điểm thứ nh́, là điều duy nhứt để bảo đảm không xảy ra những xung đột nội tâm, luôn luôn quấy rầy cái trí, khiến nó không thể trở nên yên tịnh và hài ḥa. Điểm thứ ba, là không có điều kiện “ngay thẳng” th́ không thể nào khai mở cái trí để cho nó đón nhận ảnh hưởng và sự soi rọi của ánh sáng Bồ Đề Tâm. Và sau rốt, chỉ có xuyên qua một cái trí đặt nền tảng trên một nếp sống hoàn toàn ngay thẳng, mà Sự Sống và Tâm Thức Thiêng Liêng mới có thể hoạt động. Thử hỏi làm sao một nếp sống không ngay thẳng có thể ḥa đồng với Sự Sống Thanh Cao và Siêu Việt của Thượng Đế, và làm sao Ngài có thể giáng ngự xuống tâm của chúng ta, nếu chúng ta không chuẩn bị điều đó để đón nhận Ngài, bằng cách biến nó trở nên hoàn toàn thanh trong nhờ tánh ngay thẳng? Chúng ta cũng sẽ thấy rằng chính nơi điểm thiếu ngay thẳng này, mà đời sống của nhiều nhà Huyền Bí Học và Thần Bí mới phát triển thường bị sụp đổ.

“Người nào không nh́n kết quả của hành động ḿnh, hiến dâng tất cả hành động cho Thượng Đế (hay là trong mọi việc đều thực hành Ư Muốn của Thượng Đế) th́ thật sự trở nên tự do, không bị ảnh hưởng của những cặp đối đăi”.

 

Đây là một câu sutra khác hết sức quan trọng, mà chúng ta phải cố gắng thấu hiểu cặn kẽ. Nó bàn về lănh vực hoạt động, phải hành động thế nào nhưng vẫn không bị các hậu quả của Luật Nhân Quả trói buộc. Như Đức Shri Krishna nói trong quyển Kinh Bagavad Gita, không một ai có thể đứng yên không hoạt động, dù trong giây phút, hiểu nghĩa hoạt động một cách rộng răi nhứt, gồm có chẳng những hành động vật chất, mà luôn cả các dục vọng và tư tưởng của chúng ta nữa. Cũng đúng rằng hoạt động của bất cứ loại nào th́ đều trói buộc chúng ta do cách tạo Nghiệp, do những khuynh hướng hoặc những mănh lực tiềm tàng của sự thành tựu các dục vọng chúng ta trong tương lai. Tất cả mọi điều này không ngừng sanh ra những xiềng xích cho chúng ta. Những Nghiệp quả phải trang trải; nhưng kinh nghiệm cần thiết do các dục vọng của chúng ta tạo ra phải được thực hiện; và những khuynh hướng được phát triển cần phải loại bỏ, và trong tiến tŕnh thanh toán những kinh nghiệm này, chúng ta tạo ra những Nghiệp quả mới, những khuynh hướng mới, những dục vọng mới. Bởi thế, tiến tŕnh này như có vẻ bất tận, một thứ ṿng tṛn tai hại trói buộc chúng ta vào bánh xe sinh và tử với tất cả những ảo ảnh và hạn chế là thành phần của bánh xe này. Vậy,  không có lối thoát nào để ra khỏi ṿng tṛn tai hại đó sao? Có! Có một lối thoát được tŕnh bày trong câu sutra chúng ta đang thảo luận. Phương pháp được đưa ra trong đó, chẳng những giúp chúng ta cắt bỏ mọi xiềng xích trói buộc của hậu quả các hoạt động, mà lại c̣n phát triển ḷng sùng tín của ḿnh, biến đổi chúng ta trở thành một dụng cụ ư thức của Sự Sống Thiêng Liêng. Và vô t́nh nó giúp chúng ta ra khỏi ảnh hưởng của những cặp đối đăi đă gây ra bao nhiêu rắc rối cho trí chúng ta. Chúng ta hăy di sâu vào chi tiết vấn đề này để cố gắng hiểu rơ ư nghĩa bên trong của nó. Bởi v́ điều mà thật sự chúng ta đang giải quyết trong câu sutra này, chinh là Karma Yoga (Yoga của hành động) – là sự chuẩn bị và nền tảng cần thiết cho tất cả mọi hệ thống cao cấp của môn Yoga. Nếu chúng ta không học lấy kỹ thuật để hành động cách nào mà không tạo ra Nghiệp quả, để chúng không trói buộc chúng ta một cách liên tục trong chuỗi dài nhân và quả th́ chúng ta không có hy vọng ǵ đạt đến sự giải thoát. Chỉ khi chúng ta học được kỹ thuật này và ngưng tạo những Nghiệp quả mới ở tương lai; đó là cách làm dứt Nghiệp quả quá khứ để chuẩn bị cho Sự Giải Thoát. Phần Karma Yoga này được bàn đến thật nhiều trong quyển kinh Bhagavad Gitā, nhưng nơi đây, chúng ta hăy xem qua một cách thật vắn tắt vài điểm chính yếu của nó.

 Điểm thứ nhứt, chúng ta nên nhận thức sự rơ ràng cần thiết phải học tập kỹ thuật của Nishkāma-Karma, nghĩa là hành động thực hiện như thế nào để không lưu lại ảnh hưởng của Nghiệp quả trong tương lai và không ràng buộc chúng ta vào các cơi thấp của ảo ảnh và hạn chế. Chúng ta đều biết Kāma có nghĩa là dục vọng, chỉ có thể thỏa măn trong ba cơi thấp nhất, nơi đó phàm nhơn hoạt động và như thế Nishkāma-Karma có nghĩa là hành động mà không liên kết với dục vọng. Rơ ràng là khi chúng ta thực hiện một hành động, nó do sự thúc đẩy của một dục vọng cá nhân thấp kém và  điểm sai lầm của hành động chỉ ở động cơ của nó. Chính động cơ này tạo ra những hậu quả sẽ trói buộc chúng ta trong tương lai. Và không phải chỉ v́ sự việc có một động cơ thúc đẩy phía sau hành động, mà quan trọng là động cơ thuộc loại nào để khiến nó tạo ra Nghiệp quả, chỉ có thể trang trải ở các cơi thấp mà thôi – động cơ là nguyên nhân của hậu quả trói buộc ấy. Rơ ràng là không thể nào thực hiện một hành động mà không có động cơ thuộc bất cứ loại nào, nhưng chúng ta có thể thay thế động cơ thấp kém gây ra những kết quả khó chịu này. Một động cơ cao cả không như thế. Điều này có thể thực hành và phải được thực hành bằng cách học tập kỹ thuật Nishkāma-Karma. Vậy Nishkāma-Karma không phải là một hành động không động cơ, cũng không phải là một hành động không dục vọng – như nhiều người đă hiểu lầm – mà là một hành động không do dục vọng thấp hèn của phàm nhơn, chỉ có thể thỏa măn ở các cơi thấp mà thôi. Cần thiết phải có một động cơ và một dục vọng ở sau lưng mỗi hành động, nhưng dục vọng này phải thuộc loại tâm linh, nếu tôi có thể nói như thế. Chúng ta hăy xem qua quyển Ánh Sáng Trên Đường Đạo nói những ǵ về điểm đó. Sáu câu cách ngôn đầu là :

1.- Hăy diệt tham vọng

2.- Hăy diệt ḷng tham sống.

3.- Hăy diệt ḷng tham sung sướng.

4.- Hăy diệt mọi ư thức chia rẽ.

5.- Hăy diệt ư muốn cảm giác.

6.- Hăy diệt ḷng khao khát tăng trưởng.

 

Kế đó theo sau là một loạt sáu cách ngôn:

 

1.- Chỉ nên ham muốn thứ ǵ ở nơi con.

2.- Chỉ nên ham muốn thứ ǵ ở ngoài con.

3.- Chỉ nên ham muốn thứ ǵ không thể đạt được.

4.- Hăy muốn quyền năng một cách hăng hái.

5.- Hăy muốn an tịnh một cách chân thành.

6.- Hăy muốn chiếm hữu trên tất cả mọi vật.

 

Loạt ham muốn đầu tiên là dục vọng của phàm nhơn, loạt ham muốn thứ nh́ là dục vọng của Chơn nhơn tâm linh linh hay Chơn Ngă. Như vậy rơ ràng không phải mọi dục vọng đều phải loại bỏ, nhưng chỉ loại bỏ các dục vọng thấp hèn mà thôi. Bạn có thể ham muốn quyền năng và chiếm hữu, nhưng các ham muốn này phải thuộc về Linh Hồn thanh trong hay Chân Ngă.

Trở lại điều chúng ta có thể thắc mắc: hỏi vậy động cơ hay dục vọng nào phải được chọn để thay thế cho dục vọng cá nhân thấp kém thường ở phía sau các hoạt động của chúng ta, để hủy diệt mănh lực tiềm tàng của chúng hầu tránh tạo ra những Nghiệp quả không tốt ở tương lai? Trong Kinh Bhagavad Gita có câu trả lời thật rơ rệt cho những ai đang đi trên con đường Sùng Tín. Hăy hiến dâng tất cả mọi hoạt động cho Thượng Đế, hay nói cách khác, hăy làm mọi việc để phụng sự Ngài, hoặc để cung hiến cho Ngài. Sự thay đổi động cơ này phá hủy hoàn toàn phần tiềm tàng của hoạt động mang lại Nghiệp quả cá nhân thấp kém. Nhưng đó chưa phải hết. Nó c̣n mang lại một hậu quả hùng mạnh, giúp đỡ tích cực người sùng đạo trong sự tiến bộ hướng đến cứu cánh của y, là hợp nhất với Vị mà y tôn thờ. Hăy nh́n xem kết quả của sự hiến dâng tất cả mọi hoạt động của ḿnh dưới chân hoa sen phúc lạc của Thượng Đế. Nếu bạn hiến dâng một bông hoa, hay một lời cầu nguyện đến Ngài một cách chân thành, Tâm bạn tức khắc hướng thượng, và ḷng sùng tín tuôn tràn trong Tâm bạn, ít hay nhiều, tùy thuộc nơi thái độ bạn. Nhưng, nếu bạn hiến dâng tất cả mọi hoạt động của bạn trọn ngày, có thể trở thành một trạng thái tôn thờ liên tục, nó sẽ được ứng đáp trong ân sủng của Ngài, và khiến cho ḷng sùng tín của bạn tăng trưởng rất nhanh. Nhiều người h́nh dung Nishkāma- Karma không c̣n những động cơ cá nhân của nó như là một cách thi hành bổn phận khô khan và buồn chán, v́ thế họ lánh xa đi. Họ không nhận thức rằng đó là một niềm vui thích, hiến dâng trọn đời ḿnh dưới chân Thượng Đế đối với người sùng đạo thật sự. Đó là sự hứng thú vĩnh viễn của t́nh thương nếu đó là t́nh thương thật sự trong tâm trí. Nó loại đi khỏi nếp sống chúng ta mọi sự lănh đạm, thất vọng, u tối, mà do đó phần đông con người đau khổ, và chúng ta có thể thi hành công việc buồn chán nhất và khó chịu nhất với một giọng hát trong tâm, nếu ḿnh nghĩ rằng đang làm điều đó v́ Ngài.

Nếu tiến tŕnh này tiếp tục và bạn trở nên toàn hảo trong kỹ thuật Nishkāma- Karma bạn nhận thấy sự thay đổi tế nhị xuất hiện trong nội tâm bạn. Càng lúc bạn càng thấy trở nên một dụng cụ của Sự Sống và T́nh Thương của Ngài. Bạn nhận thấy quyền lực, t́nh thương và sự trợ giúp của Ngài tuôn chảy xuyên qua con người bạn, hướng đến những người mà ở giữa họ và v́ họ, bạn đă hoạt động, không kể bạn

Bạn trở thành chỉ một đường vận hà, nhưng xuyên qua vận hà ấy, tuôn chảy Sự Sống và T́nh Thương của Ngài. Rồi đó, xảy ra một sự nhận thức khác ở một giai đoạn cao hơn nữa. Bạn t́m thấy chính Ngài ngự trong tâm bạn, và chỉ huy tất cả hoạt động của bạn. Ngài vẫn làm như thế từ trước tới giờ, nhưng v́ bạn ích kỷ và có một ư thức sai lầm, tưởng ḿnh chính là diễn viên, nên không nhận thức được điều đó, tạo ra mọi thứ chướng ngại, cản trở đường lối của Ngài, khiến cho quyền lực và t́nh thương của Ngài bị chận nghẽn. Nhưng bây giờ đây, bạn hiểu biết và tự đầu hàng trọn vẹn theo chiều hướng đó để ḿnh được trôi chảy theo ḍng từ bên trong Ngài đă ngự trị bên trong nội tâm bạn và bạn sung sướng được trở thành dụng cụ của Ngài. Đó là mục đích của Karma Yoga – Yoga của hành động.

 

“Ḷng sùng tín phát triển do sự từ khước mọi vật và mọi luyến ái đối với chúng”.

 

Câu sutra này cho thấy sự cần thiết dứt bỏ khỏi tâm trí mọi loại luyến ái thuộc về các sự việc của cơi trần. Điều kiện này làm thắc mắc và có thể làm hoảng hốt nhiều người chí nguyện, v́ dường như nó ngụ ư họ phải từ bỏ những sự vật mà họ đang nắm giữ và được coi là cần thiết cho tiện nghi và lạc thú của họ. Quả thật rất đúng là một tâm trí luyến ái với cả ngàn lẻ một sự vật, do những dây ràng buộc bên trong này th́ khó mà trở nên một dụng cụ hữu hiệu cho cuộc phiêu lưu thiêng liêng của việc Tự Khám Phá Chơn ngă. Các luyến ái không ngừng lôi kéo mạnh mẽ người hành giả hướng hạ và trói buộc y vào thế giới thấp kém, mặc dầu y mong ước tiến lên và muốn được giải thoát khỏi mọi hạn chế.

Nhưng, chúng ta phải nhận định rơ ràng trong tâm trí ḿnh là phải thực hiện những ǵ, và phải sử dụng những phương tiện đúng đắn nào để đạt đến cứu cánh. Hỏi vậy, sự ràng buộc tâm trí vào cảnh giới thấp kém có tùy thuộc vào số ít nhiều những sự vật mà con người luyến ái và đang ở xung quanh y? Hỏi vậy, một người có 100 vật cần thiết bị trói buộc nhiều hay ít hơn một người có 10 vật cần thiết, và một người hành khất không có ǵ để luyến ái nữa th́ sao? Rơ ràng là không. V́ thế sự trói buộc vào thế gian này không tùy thuộc vào số ít nhiều sự vật, mà lại tùy thuộc vào thái độ chúng ta và cách hoạt động của năng khiếu phân biện của ḿnh, tùy theo cách họ nh́n đời và các vấn đề thế sự, đúng với phối cảnh của chúng, không bị ảnh hưởng của ảo ảnh mà dục vọng tạo ra xung quanh các sở hữu và mưu cầu trần tục của chúng ta. Trong vấn đề này, điều quan trọng nhứt, chính là trạng thái tâm trí của chúng ta, chứ không phải là cái môi trường xung quanh và những ǵ nằm trong môi trường đó. Rất đúng là khi tánh phân biện được phát triển đầy đủ trong ḷng chúng ta, đương nhiên chúng ta không tạo ra xung quanh ḿnh mọi thứ sự việc không cần thiết để phải phí bao nhiêu thời giờ và năng lực, trước hết để sở hữu chúng và kế đó để giữ ǵn chúng. Nhưng đôi khi Karma (Nhân quả) đặt để chúng ta vào những hoàn cảnh mà nơi đó những sự vật này tự nhiên đến với chúng ta và đôi khi, dù là chúng ta không muốn có. Hoặc là công việc của chúng ta đ̣i hỏi dùng nhiều sự vật mà những người khác cho là không cần thiết. Thật là một hy vọng sai lầm, nếu nghĩ rằng vứt bỏ đi những sự vật cần thiết đó sẽ giúp chúng ta không bị ràng buộc. Nếu trong ḷng chúng ta không có t́nh thương và năng khiếu phân biện vẫn chưa được đánh thức, th́ chẳng ích lợi ǵ cho chúng ta đeo đuổi nếp sống trắng tay của người “fakir” [[1]]. Các dục vọng của chúng ta, sớm hay muộn sẽ lôi cuốn chúng ta, một lần nữa trở về với thế giới mà ta tưởng nghĩ rằng đă ĺa bỏ. Tôi từng thấy nhiều người đă đi và sống trong những hang động ở dăy Hy Mă Lạp Sơn nhiều năm trường lại quay trở về, vẫn khổ sở và bất hạnh như trước kia. Thật ra là các sự vật bên ngoài này đúng là không quan trọng. Điều quan trọng là t́nh thương trong ḷng chúng ta và tánh phân biện, để nh́n thấy rơ ràng những ảo ảnh của cuộc đời, và kế đó, là quyết định thích nghi lướt qua những ảo ảnh này. Một khi ánh sáng của phân biện soi rọi trí ḿnh và t́nh thương Thiêng liêng tràn ngập tâm ta, chừng đó ta sống như thế nào, và những ǵ ta sở hữu ở cơi trần này tỏ ra thật sự không quan trọng. Chúng ta sẽ tự cho ḿnh là người quản gia của Thượng Đế và sẵn sàng ĺa bỏ mọi vật lúc hoàn cảnh đến, khi sự ĺa bỏ ấy cần thiết hay đáng làm.

Bởi thế, đối với vấn đề này, cần thiết thật sự là có thái độ đúng đắn và phát triển tánh dứt bỏ trong nội tâm, do nơi một ư niệm phân biện sắc bén và một nếp sống bên trong phong phú, không cần đến những ǵ từ bên ngoai để thực hiện. Tôi không nói chúng ta không nên từ bỏ một số sự vật để ḿnh nhẹ gánh và phát triển thái độ dúng đắn. Nếu thuận tiện, chúng ta có thể làm như thế, nhưng chúng ta phải giữ trí ḿnh hướng đến thái độ bên trong và những trạng thái của tâm trí, và không trông mong vào những thay đổi bên ngoài thuộc về môi trường và các nếp sống đặc biệt của thế gian. Chúng ta chỉ cần nh́n xem xung quanh ḿnh và lượm lặt bài học về đời sống của những người đă đặt ḷng tin vào những sự vật bên ngoài này và khi đă quá trễ mới nhận thức rằng các sự vật đó không quan trọng chút nào. Thực tế là đôi khi chúng đem lại một ư niệm an toàn sai lầm và đi đến sự hảnh diện và ru ngủ chúng ta theo ư nghĩa tâm linh.

Trong vấn đề này, cũng cần thiết xem qua trường hợp t́nh thương đối với những ai sống gần và thân mến với chúng ta. T́nh thương đó nếu không được phân biện, cũng có thể là một nguyên nhân gây ra trói buộc. Tổng quát, thật sự là loại t́nh thương đó có một mănh lực lôi cuốn mạnh mẽ và có khả năng ràng buộc chúng ta chặt chẽ vào cảnh giới trần tục hơn là những vật vô tri giác. Hỏi vậy chúng ta phải làm ǵ với những t́nh thương này khi mà chúng ta đă phát triển xuyên qua quá tŕnh tiến hóa của ḿnh, do những cơ hội gặp gỡ lập đi lập lại với nhiều linh hồn khác nhau? Phải chăng chúng ta cần diệt chúng như một số người tự cho ḿnh thuộc phái Védanta biện hộ?

Đây là một vấn đề khó khăn: làm sao vẫn giữ ǵn và phát triển các mầm mống của T́nh Thương trong mọi liên quan giao dịch của cá nhân chúng ta, nhưng không cho phép chúng trở thành những dây trói buộc? Chính xuyên qua những t́nh thương riêng tư này mà khả năng yêu thương chúng ta phát triển, và diệt nó là bước lùi một bước khiến chúng ta bớt tế nhị và bớt xứng đáng đi trên con Đường dắt đến Giải Thoát. Tuy vậy, đây là điều mà mọi người Ấn Độ cố gắng thực hành dưới sự hướng dẫn và niềm cảm hứng của Sư Phụ (Guru) họ. Do đó, khiến ḷng họ trở nên chai đá và dửng dưng trước tiếng khóc than của nhân loại khổ đau, kêu gọi t́nh thương yêu nhân loại.

Rơ ràng đây là một cách hoàn toàn sai lầm để giải quyết vấn đề, và nơi đây, một lần nữa, cái ch́a khóa giải đáp nằm trong khả năng của sự phân biện. Chúng ta phải thương yêu, nhưng thương yêu một cách khôn ngoan. Điểm sai lầm đối với t́nh thương yêu thông thường của con người không phải chính là t́nh thương yêu, nhưng ở nơi ḷng gắn bó với phàm ngă, đến mức độ làm ảnh hưởng tới sự tự do của tâm trí chúng ta, và gây thành kiến cho cách lư luận của ḿnh. Bởi thế, chúng ta phải điều chỉnh thái độ của chúng ta đối với người ḿnh thương mến, làm cách nào vẫn giữ t́nh thương yêu được nguyên vẹn, mà không để cho nó trở thành một gông cùm trói buộc. Điều đó khó khăn cũng như bất cứ việc điều chỉnh nào khác, đ̣i hỏi sử dụng trí thông minh của ḿnh. Để phát triển tánh dứt bỏ, nếu diệt hết tất cả t́nh thương yêu thật là một biện pháp dễ dàng và khiến chúng ta trở nên cứng cỏi và không cảm xúc. Nhưng hành động như thế, rơ ràng chúng ta ném đứa bé, cùng một lúc với nước đă dùng để tắm gội nó, và rước lấy hiểm họa lần hồi đi ra ngoài Đường Ngay lẽ phải.

Thật sự, không có giải pháp hiệu nghiệm và lâu bền cho vấn đề, ngoại trừ phát triển sự nhận thức rằng ḿnh là một với Sự Sống Tâm Linh, nhờ đó mà chúng ta thấy Đức Thượng Đế ở trong mọi vật và mọi vật ở trong Thượng Đế. Bởi v́, một kết quả của điều nhận thức này là khi T́nh Thương cao cả được nẩy sinh trong tâm chúng ta, th́ tất cả những t́nh thương nhỏ hơn trở về đúng vị trí tương ứng của nó, được nh́n và cảm thấy với bối cảnh của T́nh Thương cao cả. Có một lần, một đệ tử hỏi Đức Phật: Ông Tathāgata vẫn c̣n thương con trai của ḿnh hay không? Đức Phật trả lời: “Có”, và người đệ tử tỏ ra ngờ vực. Ngài nói: “T́nh thương cao cả chứa đựng t́nh thương nhỏ hơn”. Có một bí mật về t́nh thương một cách khôn ngoan - ấy là khả năng thấy tất cả t́nh thương nhỏ hơn, thậm chí những t́nh thương cá nhân như là những phản ảnh của T́nh Thương bao la, liên kết tất cả mọi sinh vật lại. Bởi thế, chúng ta đừng thắc mắc quá nhiều về các t́nh thương cá nhân của ḿnh. Chúng ta hăy dồn mọi cố gắng vào việc phát triển T́nh Thương cao cả ấy. Khi chúng ta thành công trong công việc này, dù trong một phạm vi có giới hạn, vấn đề các t́nh thương cá nhân của chúng ta sẽ được giải quyết một cách tự động và tự nhiên.

Trong quyển Kinh Bhakti Sutras của ông Nārada, có nhiều câu châm ngôn nêu tên của một số đặc tính trí tuệ và luân lư phải được phát triển nơi người chí nguyện đi trên con Đường Sùng Tín. Vấn đề này đă được bàn luận ở phần II, chúng ta không cần nhắc lại nơi đây.

 


[[1]] Người tu sĩ thường hành khất nghèo nàn và có quan niệm cực đoan về tài sản. Chú thích người dịch.


 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS