Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES 

 

những chỖ khó khăn trong khoa minh triết thiêng liêng

gọi là thông thiên học

tập  XI

vài điểm chÁnh

trong tâm thức học

 bạch  liên

MỤC  LỤC

PHẦN  NHẤT

CHƯƠNG THỨ NHẤT

  Tâm Thức là gì? Tâm Thức và Sự Sống.

  Tâm Thức hiện ra dưới phương diện: Một Hình dạng.

  Không có gạch nối giữa Tâm Thức và Vật Chất.

chương thứ nhì

            Tâm Thức tuyệt đối.

            Những trạng thái Tâm Thức của con người.

            Tâm Thức Tự Tri.

            Tiềm Thức (Subconscience).

            Tâm Thức Bình Thường (Conscience de Veille).

            Tâm Thức Hồng Trần.   Tâm Thức chỉ là Một.

            Tâm Thức Hồng Trần duy nhứt.

CHƯƠNG THỨ BA

            Guồng máy Tâm Thức.

            Hai hạch quí trong óc con người.

            Hạch mũi (Corps pituitaire), Hạch óc (Glande pinéale).

CHƯƠNG THỨ TƯ

            Siêu Tâm Thức.   Những điềm chiêm bao.

            Chiêm bao Xác thịt.   Chiêm bao Cái Phách.

            Chiêm bao Cái Vía.   Chiêm bao báo tin trước. 

            Chiêm bao bóng dáng tượng trưng.

            Trong chiêm bao không có thời gian và không gian.

CHƯƠNG THỨ NĂM

            Ký Ức.   Bản chất của Ký Ức.

            Sự biến đổi trong Thể xác và trong Tâm Thức.

            Ký Ức là gì? Ký Ức của Thượng Đế.

CHƯƠNG THỨ SÁU

            Ý chí.   Ý muốn sống.

            Mỗi ý muốn sống đều tự mình tìm cách biểu hiện.

            Quyền năng của Ý chí.

            Ý chí sửa đổi được số mạng.

CHƯƠNG THỨ BẢY

            Sự ham muốn.

            Bản tánh của sự ham muốn.

            Sự biến đổi ý muốn.

CHƯƠNG THỨ TÁM

            Cảm xúc.  Cảm xúc thương yêu.

            Cảm xúc thù hận.

            Hậu quả của sự mở mang cảm xúc thương yêu.

        Chánh lý phải điều khiển cảm xúc.

phần nhì

CHƯƠNG THỨ NHỨT

           Sự lạ lùng đầu tiên và lớn lao trong Tâm Thức.

            Sự hy sanh của Đức Thái Dương Thượng Đế.

            Vũ Trụ sanh ra để làm gì?

 CHƯƠNG THỨ NHÌ 

            Muốn tiến hóa Tâm Thức phải nhập thế.

            Sự mở mang Tâm Thức: 1. Tâm Thức Hồng Trần.

                                                  2. Tâm Thức Cái Vía.

            Sự nối liền hai Tâm Thức.

            Tâm Thức Cái Vía và Tâm Thức Hồng Trần.

CHƯƠNG THỨ BA

            Tâm Thức Hạ Trí.   Tâm Thức Thượng Trí.

            Thượng Trí (Nhân Thể) chỉ chứa đựng những điều tốt lành.

            Đem Tâm Thức lên tới Chơn Nhơn.

            Chơn Nhơn.

            Sự liên lạc giữa Chơn Nhơn và Phàm Nhơn.       

            Tại sao Chơn Nhơn đi đầu thai?

CHƯƠNG THỨ TƯ

            Tâm Thức Bồ Đề.

            Tâm Thức Niết Bàn. 

 

vài điểm chÁnh

trong tâm thức học

 

vài lời nói đầu

          Tâm thức, Sự sống và Vật chất là ba vấn đề khó giải nhứt trong Huyền Bí Học. Chúng nó thuộc về Khoa Triết Học Bí Truyền để dành riêng cho những sanh viên đã tiến bước khá cao trên Đường Đạo. Vì vậy không thể nào giải thích một cách rành rẽ cho ai nấy đều biết.

          Một điều khó khăn khác nữa là trong Tâm Thức Học có nhiều chỗ không giống như Khoa Triết Học hiện đại đã bàn đến, gặp mấy điểm đó xin quí bạn lượng thứ và miễn nghị.

          Tuy nhiên, thiết tưởng chúng ta cũng nên biết một cách tổng quát về vài điểm chánh của Tâm Thức Học hầu hiểu được sự tiến hóa của con người khởi đầu từ đâu.

          Chúng ta thường nói đến Tâm Thức, nhưng nếu hỏi đố: Tâm Thức là gì? Thì chắc chắn chúng ta phải nín thinh vì không biết phải trả lời làm sao.

          Phải tu hành tới bực La Hán và cao hơn nữa, mở được Huệ Nhãn và Tối Thượng Huệ Nhãn mới thấy được Tâm Thức và sự hoạt động của nó, bởi vì Trường Tiến Hóa của Tâm Thức bao hàm một Thái Dương Hệ, chớ không phải chỉ ở trong mình nhỏ bé của con người mà thôi đâu.

          Ba vị Cao Đồ của Chơn Sư là Đức Bà A. Besant, Đức Leadbeater và Đức Jinarajadasa có giải về Tâm Thức và sự tiến hóa của  nó trong những quyển sau đây:

          1. Etude sur la Conscience (Khảo cứu về Tâm Thức hay là Tâm Thức Học).

          2. Evolution Occulte de l'humanité (Sự tiến hóa huyền bí của nhơn loại). Nguyên văn chữ  Anh có  nghĩa là:  Les  7 principes  de la Théosophie: 7 nguyên lý của Thông Thiên Học.

          3. Les Maîtres et le Sentier (Chơn Sư và Đường Đạo).

          4. L'Occultisme dans la Nature, Tom II  (Huyền Bí Học trong Thiên Nhiên, Quyển II).

          5. Commentaires sur la Lumière sur le Sentier (Giảng  lý Ánh Sáng trên Đường Đạo).

          Tôi lấy tài liệu trong năm quyển này đặng viết quyển Vài điểm chánh trong Tâm Thức Học. Tôi chia nó ra làm ba phần:

          1. Phần Nhứt: Giải thích về Tâm Thức và những trạng thái của nó theo lời Đức Bà A. Besant nói trong quyển Tâm Thức Học.

          2. Phần Nhì: Sự mở mang và sự tiến hóa của Tâm Thức trong năm cõi:

      - Cõi Trần.

      - Cõi Trung Giới.

      - Cõi Thượng Giới.

      - Cõi Bồ Đề.

      - Cõi Niết Bàn.

theo sự hiểu biết của hai vị Đại Đức Leadbeater và Jinarajadasa.

          3. Phần Ba: Phần thực hành. Phương pháp tập luyện đặng mở mang Tâm Thức. (Không có trong Tập sách nầy, có thể t́m trong những quyển Đạo Lư Thực Hành, Cách Tu Hành, Minh Triết Thiêng Liêng, Học Cơ tiến hóa theo khoa Minh triết Thiêng liêng . . .  của tác giả)

          Nhưng tiện đây tôi xin nói vài lời về cách viết khác nhau của hai Bà: Đức Bà Blavatsky, Đức Bà A. Besant và  của Đức Leadbeater.

          Đức Bà Blavatsky và Đức Bà A. Besant thuộc về Cung thứ Nhứt. Khi hai Bà suy nghĩ về một vấn đề nào thì vấn đề đó từ trên cõi cao tuôn xuống như thác đổ. Hai Bà cứ viết, từ đoạn nầy tới đoạn kia với nhiều chi tiết e cho người mới học Đạo không thể lãnh hội nổi.

          Đức Bà A. Besant, lúc Bà đương diễn thuyết, Bà vừa nói câu nầy rồi thì ba, bốn câu khác xuất hiện trước mắt Bà để Bà chọn lựa.

          Từ xưa đến nay, ít có người sánh kịp tài của Bà. Thường thường Bà không có đủ thì giờ để xem lại những bản tốc ký vì phải làm nhiều việc khác không ngớt, cái nầy vừa xong thì cái kia tới.

          Còn Đức Leadbeater thuộc về Cung thứ Nhì. Khi luận về vấn đề nào thì Ngài sắp đặt kỹ lưỡng, đoạn nào trước, đoạn nào sau, rất có thứ tự rồi Ngài giải nghĩa thật rành rẽ.

          Thế nên đọc những sách của Đức Leadbeater dễ hiểu hơn sách của Đức Bà Blavatsky hay là của Đức Bà A. Besant.

          Về quyển Vài điểm chánh trong Tâm Thức Học này, trước hết xin quí bạn xem qua những tập giải về những chỗ khó khăn trong Khoa Minh Triết Thiêng Liêng gọi là Thông Thiên Học như:

      1. Vũ Trụ và Thượng Đế.

      2. Thái Dương Hệ của chúng ta.

      3. Dãy Địa Cầu.

      4. Nguyên tử căn bản Hồng Trần và Kim Quang Tuyến.

      5. Hồn Khóm.

      6. Sự sinh hóa các Giống dân trên Dãy Địa Cầu.

      7. Tại sao sự tiến hóa của dân chúng không đồng bực với nhau.

      8. Quần Tiên Hội và sự cai trị Thế gian.

      9. Vài sự nhận xét về Hỏa Tinh và Thủy Tinh của các nhà Huyền Bí Học và Danh Hiệu của các vị Siêu Phàm.

      10. Hỏa Hầu khái luận.

          Chúng sẽ giúp quí bạn hiểu được dễ dàng những đoạn trong quyển Tâm Thức Học của Đức Bà A. Besant nói về Đức Thái Dương Thượng Đế, Ba Ngôi của Ngài, Bảy cõi của Thái Dương Hệ, Chơn Thần, Hồn Khóm, Nguyên tử trường tồn, Kim Quang Tuyến, vân vân . . . .

          Quí bạn sẽ có một quan niệm đúng đắn về mục đích sanh hóa con người trong Thái Dương Hệ và chúng ta phải làm điều gì đặng tiến mau, tức là lo cho sự mở mang và sự phát triển Tâm Thức.

          Mỗi người đều cầm số mạng của mình trong tay, muốn đi mau hay đi chậm, muốn vào chốn tối tăm hoặc ra nơi sáng suốt, cũng tự nơi mình. Mỗi người phải tự cứu mình chớ không ai cứu mình được. Mình hãy tự giúp mình trước rồi Trời sẽ giúp mình sau. Mình phải lo mở rộng Tâm Thức mình, ḿnh tự khai sáng cho mình lần lần mới đi tới chỗ ánh sáng vô tận, vô biên. Đừng quên rằng: bức màn nầy vừa hạ xuống thì bức màn khác lại hiện ra. Phải lần lượt vén từ bức màn. Một ngày kia, bức màn chót vén lên rồi thì con người sẽ thành một vị Siêu Phàm và đoạt được mục đích đã định sẵn  cho nhơn loại trong Thái Dương Hệ nầy.

          Cầu xin con thuyền của quí bạn đang lèo lái sớm ghé vào Bờ Giác đặng cứu vớt những bạn hành hương còn chìm đắm nơi bến mê sông khổ.

 Lành thay! Lành thay!

Bạch Liên

Phạm ngọc Đa

53 Nguyễn đình Chiểu Châu Đốc

 -----------------------------------

PHẦN  NHỨT

chương thứ nhỨt

tâm thức là gì ?

          Người học Đạo thường nghe nói đến Tâm Thức (Conscience). Nhưng nếu hỏi Tâm Thức là gì? Thì trong chúng ta không một ai trả lời nổi ngoại trừ từ bực La Hán sắp lên mở được Huệ Nhãn và Tối Thượng Huệ Nhãn.

          Vật chất, Sự sống và Tâm Thức là ba vấn đề khó khăn nhất trong Huyền Bí Học.

          Nếu con người thật hiểu Tâm Thức là gì? Thì sẽ cầm được trong tay bí quyết của tất cả những vấn đề của Cơ Tiến Hóa. Bởi vì Tâm Thức là sự biểu lộ của một Đơn vị Vô hình vừa là sức mạnh và vật chất, vừa là hình dạng và sự sống một lượt.

          Làm sao hiểu nổi một định nghĩa như thế.

          Trong Ánh Sáng Phương Đông (La Lumière de l'Asie) có câu nầy cho là Phật nói: Om! Amitaya! Chớ nên dùng lời nói mà đo cõi vô biên, chớ nên quăng dây tư tưởng vào cõi vô tận. Người hỏi cũng lầm, mà người trả lời cũng lầm. Đừng nói chi hết!

          Mặc dầu biết vậy, nhưng chúng ta phải tìm hiểu nguyên do của mọi việc, đặng nhận định được cái nào là phù du, mộng ảo, cái nào là vĩnh viễn, trường tồn.

          Ở vào trình độ tiến hóa của chúng ta hiện thời, chúng ta không biết rõ Tâm Thức tiến hóa cách nào, chỉ nghe nói rằng: Việc lạ lùng đầu tiên trong Tâm Thức là tất cả ở trong một thành phần và toàn diện ở trong một đơn vị.

          Mặc dầu Tâm Thức ở trong điện tử nhỏ bằng mũi kim (của Tâm Thức), đơn vị nhỏ nhít nầy vẫn liên lạc với Tâm Thức của Đức Thượng Đế và chứa đựng trọn vẹn Tâm Thức nầy.

          Người ta có thể so sánh sự tiến hóa của Tâm Thức với việc xảy ra khi người ta vén một bức màn che đậy một nguồn ánh sáng. Việc vén bức màn không thêm cái chi cho ánh sáng cả. Ánh sáng không được lợi ích nào, nhưng nó xua đuổi được sự tối tăm. Ngày nào người ta chưa đồng hóa với ánh sáng nầy thì ngày đó người ta chưa biết nó muốn cái chi. Sự hành động của nó là sự hy sanh và thú vui một lượt. Hy sanh vì nó bị hạn chế còn thú vui là cho ra.

          Ở nơi con người, sự tiến hóa vốn do sự cho ra. Còn  nguyên tắc chi phối sự phát triển loài thú vật và thảo mộc là sự cạnh tranh, sự đối địch, sưu tầm, kiếm những sự ích lợi riêng tư.

          Về con người, nguyên tắc chi phối sự phát triển là sự hiệp tác, sự từ  bỏ và sự hy sanh Phàm Nhơn.

          Đức Thượng Đế đời đời kiếp kiếp hy sanh trên Thập Tự Giá của đời sống và vật chất. Con người phải bắt chước Ngài mới giống như Ngài được.

          Mà muốn tiến hóa, Tâm Thức phải nhập thể và phải trải qua từ gia đoạn nầy tới giai đoạn khác, từ hình thể nầy đến hình thể kia, khi hết ở trong Tinh Chất thì qua Kim Thạch, Thảo Mộc, Cầm Thú, Con Người và các hạng Tiên Thánh và Thiên Thần.

          Trường tiến hóa của Tâm Thức là Thái Dương Hệ, chớ không phải chỉ trong thân mình nhỏ bé của chúng ta mà thôi đâu. Đây là một vấn đề dài dòng và cực kỳ khó khăn, không phải diễn tả trong vài trăm trang giấy là đủ.

          Tôi xin tóm tắt là: Không có Sự Sống nào mà không có Tâm Thức, và cũng không có Tâm Thức nào mà không có Sự Sống.

          Sự Sống và Tâm Thức đồng nghĩa với nhau và liên quan mật thiết với nhau.

          Nếu ta ướm thử phân giải Sự Sống và Tâm Thức, thì ta thấy: Sự Sống là Tâm Thức quay vô trong, còn Tâm Thức là Sự Sống quay ra ngoài.

          Khi chúng ta chú ý đến Đơn Nhứt hay là Một thì chúng ta nói đến Sự Sống. Khi chúng ta chú ý đến Đa Số thì chúng ta nói đến Tâm Thức và chớ nên quên rằng đa số do vật chất cấu thành.

 

tâm thức hiện ra

dưới phương diện một hình dạng

          Ta hãy xem xét Tâm Thức khi nó hiện ra dưới Phương Diện Một Hình Dạng.

          Luôn luôn điện hiện ra dưới hai mặt: điện Âm và điện Dương. Khi nó trung ḥa thì điện biến mất.

          Trong mọi vật đều có điện trung ḥa. Người ta có thể làm cho điện hiện ra. Nhưng trong trường hợp nầy điện hiện ra dưới một hình thức đặc biệt gồm điện âm và điện dương đồng cân với nhau chớ không phải toàn là một thứ điện âm hay toàn là một thứ điện dương. Hai thứ điện âm và dương này chống đối với nhau luôn luôn và có khuynh hướng hiệp với nhau rồi biến mất trong Hư Không là nguồn cội chung của chúng nó.

không có gạch nối

giữa tâm thức và vật chất

          Ta tưởng tượng một vật gọi là Tâm Thức, rồi ta tưởng tượng một vật nữa khác hơn, riêng rẽ mà ta gọi là Vật Chất. Rồi ta tự hỏi Tâm Thức ảnh hưởng đến Vật Chất cách nào?

          Mà hai vật riêng rẽ như thế không có, mà cũng không thể có được. Chúng nó là hai trạng thái của vô cực, Bất khả tri, chúng vốn phân ra chớ không phải khác nhau.

          Không có chúng nó vô cực không hiện ra được. Khi hiện ra thì vô cực hiện ra dưới hai trạng thái đồng cân với nhau  tức là Âm và Dương, chớ không hề hiện ra dưới một mặt, hoặc Thuần Dương hay hoặc Thuần Âm.

          Không có chỗ nào chỉ có bề mặt chớ không có bề trái, chỉ có cái dưới chớ không có cái trên, chỉ có cái ngoài chớ không có cái trong, chỉ có Tinh Thần mà không có Vật Chất.

          Hai trạng thái vẫn ảnh hưởng lẫn nhau bởi vì chúng nó là hai phần, không thể chia rẽ nhau của Một Đơn vị biểu hiện như là Đối Nguyên hay là Nhị Nguyên trong không gian và trong thời gian.

          Cái hố sâu giữa Tâm Thức và Vật Chất không có bởi vì không có Tâm Thức thuần túy hay là Vật Chất thuần túy. Dầu cho Chơn Thần tối cao cũng có một lớp vật chất bao mình, và Vật Chất luôn luôn có sự sống bên trong làm cho nó linh động.

          Đức Bà A. Besant nói: "Không phải chúng ta muốn vật chất hóa Tinh Thần, nhưng chúng ta muốn chỉ cho quí bạn thấy, Tâm Thức và Vật Chất, hai vật đối kháng nhau, thật sự là dính liền mật thiết với nhau; chúng nó không hề chia rẽ nhau, cho đến thân thể của Đấng Cao Cả nhất cũng vậy".

          Vật chất đồng nghĩa với "Sự giới hạn".

          Vật chất Hồng Trần đặc cứng hơn hết cũng có Tâm Thức của nó. Kim Thạch, các thứ khí đều là những vật sống, chúng nó có Tâm Thức, chúng nó biết cái chi bao phủ nó.

          Như dưỡng khí ở vào một nhiệt độ kia thì biết được sự hiện diện của khinh khí nên nhập với nó đặng làm ra nước.

*

*    *

chương thứ nhì

 

tâm thức tuyệt đối (conscience absolue)

và những trạng thái tâm thức của con người

A. Tâm Thức Tuyệt đối.

          Tâm Thức tuyệt đối là Tâm Thức chứa đựng tất cả. Ấy là Vô Cực, Bất khả tri, cái Trường Tồn Bất Diệt, vô tận, vô biên, bất biến.

          Tâm Thức của mỗi người là Tâm Thức cá nhân riêng biệt, nhưng nó là một thành phần của Tâm Thức của Đức Thượng Đế và có đủ quyền năng như Ngài.

 

B. Tâm Thức tự tri (soi conscience).

          Khởi đầu, sự ham muốn tìm thú vui bằng cách dọ dẫm chỗ nầy, chỗ kia, nhưng không hề lo nghĩ đến vật khêu gợi thú vui bởi vì Tâm Thức bị hạn chế trong cảnh giới của nó. Nó chỉ biết bên trong và những sự biến đổi xảy ra tại đây. Sự chú ý của nó chưa quay ra bên ngoài và chưa biết có một thế giới bên ngoài. Những  sự va chạm dữ  dội không ngớt đập vào những Thể của nó, nhứt là xác thân chịu những ảnh hưởng bên ngoài nhiều hơn ảnh hưởng bên trong.

  Với thời gian, những sự biến đổi thay phiên nhau, cái này đến rồi ra đi, kế cái khác tới, làm cho Tâm Thức bắt đầu thức tỉnh và biết có một sự khác biệt. Sự biết này lần lần trở thành cái cảm giác có một cái gì còn lại trong đám hỗn loạn không ngừng nầy. Đây là sự biết có "một cái ở trong" và "một cái ở ngoài", mà nói cho đúng hơn, có "một cái ở ngoài" và "một cái ở trong" bởi vì những sự đụng chạm không ngừng ở ngoài làm nảy sanh trong Tâm Thức cái cảm giác có một cái ở ngoài và một cái ở trong.

          Chỉ khi nào Tâm Thức nhận ra sự hiện diện của "cái ở ngoài" thì nó mới biết được "cái ở trong". Nếu chỉ có "một cái" thôi thì không thể nói được "cái ở trong" và tất cả đều gom vào "một cái đó” rồi. Nhưng khi "cái ở ngoài" bắt buộc Tâm Thức nhìn nhận nó thì "cái ở trong" đối chọi với nó hiện ra tức khắc.

          Cái cảm giác có "Cái Ở Ngoài" hiện ra ngay ở những chỗ Tâm Thức liên tục tiếp xúc với cõi đời hỗn loạn và biến thiên nầy và điều nầy xảy ra trong xác thân của ta. Chính là trong xác thân ta phân hóa lần lần sự nhận biết có "Kẻ Khác" và cái cảm tưởng "Tôi Đây" hay là Bản Ngã đối chọi với kẻ khác cũng hiện ra cái "Tôi Đây" bây giờ hiểu biết những vật ở ngoài thay vì chỉ biết những sự biến đổi. Rồi lần lần nó nhận biết rằng những sự biến đổi vốn ở trong mình nó, còn những vật thì ở ngoài nó.

          Ấy tại cõi Trần, trước nhứt Tâm Thức biến thành Tâm Thức Tự Tri.

          Sự tiến triển đem đến sự hiểu biết những vật bên ngoài rất phức tạp. Nên nhớ rằng những sự vật ở ngoại giới cảm tới xác thân chúng ta bằng nhiều cách.

          Chung quanh chúng ta có không biết bao nhiêu sự rung động khác nhau mà chúng ta không hay biết bởi vì giác quan của chúng ta chưa được tinh vi cho nên chỉ thâu nhận những làn sóng rung động nào hạp với chúng nó mà thôi.

          Những làn sóng rung động nói trên vô Trung Tâm Cảm Giác của cái óc rồi qua Trung Tâm Hiểu Biết của Cái Vía. Dưới Hình Thức những cảm giác của Màu sắc, Tiếng tăm, Hình dạng, Mùi vị, vân vân . . ., chúng từ Cái Vía truyền qua Tâm Thức đang hoạt động ở trong Cái Trí. Tại đây chúng phối hợp lại với nhau rồi làm ra một hình duy nhứt. Sự nhập lại những làn sóng khác nhau rồi làm ra một làn sóng duy nhứt, sự tổng hợp những cảm giác khác nhau là cơ năng của Cái Trí. Thế nên Tâm Lý Học Ấn gọi Cái Trí là giác quan thứ Sáu.

          Bây giờ đây chúng ta hãy xem năm giác quan của sự hành động (Karmandryas): Tay, chơn, cuống họng, cơ quan sanh dục, cơ quan bài tiết như là dụng cụ của Trí khôn thì ta thấy sự diễn tiến trái ngược lại từ trong ra ngoài như sau đây:

          Trí khôn tạo hình dạng của một việc nào đó.  Những làn sóng rung động về hình dạng nầy truyền qua những Trung Tâm hành động của Cái Vía rồi lập lại trong những Trung Tâm hành động của cái óc. Những Trung Tâm nầy mới phân phát chúng nó cho những cơ quan có phận sự biểu hiện việc đó xuyên qua thần kinh hệ làm trung gian.

          Về phương diện hai sự liên lạc nầy Cái Trí thành ra giác quan thứ Mười Một. Xin giải nghĩa:

          Năm cơ quan của hành động (Karmandryas): mắt, tai, lưỡi, mũi và da, và năm cơ quan thu nhận những cảm giác bên ngoài (Jnanandryas): thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, xúc giác, cộng lại với nhau là mười, thêm Cái Trí là Mười Một.

          Trong chu kỳ tiến hóa nầy, người thường đồng hóa với Tâm Thức Tự Tri trong cái óc. Vì vậy cho nên nó bị hạn chế trong Tâm Thức bình thường lúc thức đây (Conscience de veille). Tâm thức nầy hoạt  động trong Não tủy Thần kinh hệ.

          Chỉ tại cõi Trần mà thôi, con người tự biết mình và tự nói "Tôi Đây", nó phân biệt rõ ràng nó với ngoại giới, những tư tưởng của nó với cái gì bao phủ chung quanh. Những vật nầy đối với nó phải là "thật" và ở ngoài nó.

          Còn ở mấy cõi khác, Tâm Thức Tự Tri của con người chưa mở mang, cho nên những gì xảy ra ở mấy cõi cao siêu nầy đối với con người vẫn "Không có thật" bởi vì con người không nhận thức được cái chi cả.

 

tiềm thức

(sub-conscience)

          Chúng ta thấy rằng một số lớn những hoạt động của Tâm Thức khi có những phận sự nhứt định rồi thì thành ra Tự động và lần lần rơi xuống dưới mức độ Tâm Thức. Người ta gọi nó là Tiềm Thức.

          Tỷ như tỳ vị làm tiêu hóa đồ ăn, trái tim nhảy điều ḥa, bóp vô nở ra, sự bài tiết, vân vân . . . Tâm Thức không cần lo nghĩ đến chúng nữa mà chúng nó vẫn làm việc như thường: Cơ quan nào phận sự nấy.

          Còn một số hiện tượng khác ở trong Tiềm Thức nhưng không thuộc về sự dinh dưỡng xác thân chẳng hạn như: thình lình phát sợ không lý do, không dám vào chỗ tối tăm lúc ban đêm, bản năng tự vệ, tình thương cha mẹ vợ con, ái t́nh nam nữ, oán ghét, thù hận, mến yêu, giận dữ, vân vân . . . Chúng là những sự rung động của Cái Vía rồi ghi vào Hột Lưu Tánh Nguyên Tử hay là Nguyên Tử Trường Tồn (Atome astral permanent) của thể nầy. Nếu có những làn sóng rung động ở ngoài đến kích thích chúng nó và hạp với chúng nó thì chúng nó hoạt động lại liền không khác nào than đỏ vùi dưới tro tàn gặp đồ bổi thì phát cháy tức khắc.

          Hãy xem trên mặt dĩa hát có những lằn ghi. Khi để cây kim lên trên và cho máy chạy thì cái dĩa quây và phát ra những tiếng đã thâu vô.

          Vì mấy lẽ trên đây mà các nhà Huyền Bí Học đều khuyên chúng ta nên nuôi dưỡng và sản xuất những tư tưởng tốt lành. Nếu chẳng may Cái Trí tưởng một việc thấp hèn thì lập tức diệt trừ nó bằng cách sanh ra một tư tưởng cao thượng đối lập ([1]), đừng để nó ghi vào Tiềm Thức rồi một ngày kia sẽ biến thành sự hành động mà ta  không ngăn cản kịp. Các Ngài cũng nói: Trong mình con người bộ giao cảm thần kinh là kho tàng lưu trữ dấu vết còn để lại những biến cố đã xảy ra trong những kiếp quá khứ, từ lúc Linh Hồn mới đi đầu thai làm người hay là hồi còn ở trong mình thú vật và tính ra không biết bao nhiêu triệu năm rồi.

          Đức Bà A. Besant nói rằng: Trong Tiềm Thức của chúng ta có một chỗ do những Tâm Thức phụ thuộc làm ra. Chúng lấy thân mình chúng ta làm trường tiến hóa. Ấy là những nguyên tử, những phân tử, những tế bào đủ loại. Đa số những hình ảnh quái dị, lạ lùng từ Tiềm Thức hiện ra. Thật sự chúng không phải thuộc về chúng ta. Chúng là những sản phẩm của những đơn vị Tâm Thức mà trình độ tiến hóa còn thấp hơn chúng ta. Chúng là những khách tới ở trọ với chúng ta.

          Tiềm thức của con người hoạt động tại cõi Trần gồm nhiều yếu tố rất khác biệt nhau. Điều cần thiết là phải tách nó ra và hiểu biết nó mới phân biệt được những sự hoạt động của nó với những sự hoạt động của Siêu Tâm Thức. Siêu Tâm Thức giống như Bản năng vì những sự hoạt động thình lình của nó. Nhưng Siêu Tâm Thức hoàn toàn khác hẳn Bản năng bởi bản tánh của nó và vị trí của nó trong Cơ Tiến Hóa. Tiềm Thức thuộc về quá khứ. Còn Siêu Tâm Thức thuộc về vị lai.

 

C. tâm thức bình thưỜng. (CONSCIENCE DE VEILLE)

          Tâm Thức Bình Thường là Tâm Thức của ta dùng trong lúc ta đương thức đây. Nó hành động trên hai cõi: Trung Giới và Thượng Giới (cõi Trí Tuệ). Trung tâm của nó là cái óc. Nó xử dụng cái óc xác thịt và bộ thần kinh như là khí cụ của ý chí, của sự hiểu biết và những sự hành động tại cõi Trần. Trong Tâm Thức Bình Thường, cái óc luôn luôn làm việc. Nó là cơ quan chuyển giao, nó có thể bị những sự rung động ở ngoại giới tới kích thích nó xuyên qua giác quan, nó cũng ứng đáp không ngớt với những ảnh hưởng bên trong. Đối với phần đông nhơn loại, cái óc là cơ quan duy nhứt trong đó Tâm Thức thành ra Tâm Thức Tự Tri (Soi conscience) rõ rệt, do đó con người cảm biết "Tôi Đây" và hiểu rằng mình là một cá nhơn riêng biệt.

          Theo lời của Đức Bà A. Besant thì người ta có thể nói rằng: Tâm Thức Bình Thường là một phần của Tâm Thức toàn diện hoạt động trong cái óc và bộ thần kinh, nó thật là Tâm Thức Tự Tri.

          Hãy tưởng tượng Tâm Thức là Ánh sáng mặt trời dọi ngang qua một bóng tròn lớn làm bằng pha lê gắn ở trên trần nhà. Ánh  sáng xuyên qua bóng tròn chỉ chiếu sáng một khoảnh của cái phòng ở dưới trần nhà, còn ánh sáng trên trần nhà vẫn được tự do dọi ra khắp nơi.

          Cũng có thể ví dụ Tâm Thức giống như một cái Trứng lớn chói rạng rỡ, mà đầu nhọn của nó nhận vào cái óc. Đầu nhọn nầy là Tâm Thức Bình Thường.

          Tâm Thức này lệ thuộc cái óc nên bị hạn chế trọn kiếp sống của con người tức là khi con người còn ở trong xác thân nầy.

          Nếu vì một lý do nào mà cái óc bị rối loạn, mắc bịnh hoạn hay bị một vết thương thì con người mất bình tĩnh, khờ khạo, không học hỏi rộng sâu được, có khi phát điên khùng.

          Tiện đây tôi xin nói thêm vài lời: Một người kia thông minh tuyệt thế là nhờ Quả lành của y gây ra ở kiếp trước nên cái óc của y rất mảnh mai. Nếu kiếp nầy, y không tu nhơn, tích đức như xưa mà lại dùng sự khôn ngoan hãm hại kẻ khác và làm những điều tàn ác thì kiếp sau đầu thai lại, cái óc của y sẽ không được lành mạnh. Y không có phương tiện để học hỏi như kiếp mới rồi. Y phải đền tội những việc làm của y trái nghịch lòng Trời.

          Đây là Luật Nhân Quả hay là Luật Báo Ứng Tuần Hườn không hề sai chạy. Con người gieo giống chi thì gặt giống nấy.

 

d. tâm thức hồng trần.

(LA CONSCIENCE PHYSIQUE)

          Thường thường người ta giải thích Tâm Thức Hồng Trần với hai ý nghĩa:

          Một là: Tâm Thức Bình Thường của ta dùng trong lúc ta đương thức đây (Conscience de veille).

          Hai là: Tâm Thức hoạt động trong vật chất là xác thân ta. Nó thâu nhận những cảm giác ở cõi Trần và ứng đáp với chúng nó song không chuyển giao lên mấy cõi cao mà cũng không thâu nhận những cảm giác từ mấy cõi nầy đưa xuống có ảnh hưởng đến xác thân. Theo một nghĩa hẹp và đúng hơn thì Tâm Thức Hồng Trần gồm:

          Một là: Những làn rung động từ những nguyên tử và những phân tử phát ra ngoài. Những nguyên tử và những phân tử này hoạt động vốn do sự sống của Ngôi thứ Ba ([2]).

Hai là: Những làn rung động do những h́nh dạng có sự sống sanh ra. Những h́nh dạng nầy nhờ sự sống của Ngôi thứ Nh́ dinh dưỡng.

          Ba là: Tất cả những sự rung động từ sự sống của Chơn Thần do những Nguyên Tử Trường Tồn phát ra mà không trực tiếp liên lạc với những vòng xoắn (spirilles) ([3]). Khi những vòng xoắn nầy hoạt động thì Tâm Thức Bình Thường trong lúc thức mới bị ảnh hưởng.

          Chính là những sự biến đổi trong Tâm Thức ở trên mấy cõi cao nhờ những sự biến đổi trong Tâm Thức Bình Thường của chúng ta.

          Ngày nay Tâm Thức Hồng Trần rơi xuống dưới mức độ Tâm Thức, có thể nói rằng nó là sự hoạt động thấp thỏi hơn hết của Tâm Thức và nó chỉ có phận sự là điều khiển những cơ năng cần thiết cho sự dinh dưỡng xác thân mà thôi.

 

          tâm thức chỉ là một

          Khi chúng ta học hỏi những sự biểu hiện khác nhau của Tâm Thức thì chúng ta thường quên hai việc đại khái quan trọng sau đây:

          Trước nhứt: Tâm Thức của mỗi người là một Đơn vị riêng biệt, riêng biệt cho đến đỗi dường như nó khác với những sự biểu hiện khác.

          Kế đó là: Tất cả những đơn vị nầy là những thành phần của Tâm Thức của Thượng Đế, thế nên chúng phản ứng một cách với nhau trong những điều kiện in như nhau.

          Các nhà Huyền Bí Học thường nhắc nhở rằng Tâm Thức vẫn Duy Nhứt. Tất cả những Tâm Thức bề ngoài tuy khác nhau nhưng chỉ làm ra một Tâm Thức mà thôi.

          Thí dụ nước biển từ nhiều lỗ trống của một con đê chảy ra ngoài. Nếu mấy lỗ nầy chứa những màu khác nhau thì nước từ lỗ đó tuôn ra cũng nhuộm những màu khác nhau. Vậy, màu tuy không giống nhau song nước của tất cả đều là nước của một cái biển cùng những đặc tính như nhau.

          Cũng thế đó, tất cả những Tâm Thức đều từ một Đại hải Tâm Thức sanh ra, tất cả đều có những điểm đồng nhứt chánh yếu và cũng bị bao phủ trong một lớp màn vật chất như nhau. Thay vì một Đơn vị, Tâm Thức cá nhơn dường như rất phức tạp vì những sự biểu hiện của nó. Nhưng thật sự Tâm Thức là một Đơn vị Duy Nhứt, còn những dị hình mà người ta thấy trong những sự biểu hiện của nó vốn do những vật liệu của nó dùng đặng hoạt động.

 

tâm thức hồng trần duy nhỨt

          Trong tập Hồn Khóm, tôi có thuật chuyện Ông Jagadish Chandra Bose, Tiến sĩ Khoa học, Cử nhơn Văn khoa, Giáo sư tại Đại Học Đường Calcutta bên Ấn Độ đầu thế kỷ XX nầy có thí nghiệm nhiều cách với các loại kim khí, thảo mộc và bắp thịt thì thấy những phản ứng của chúng vẫn in như nhau khi chúng nó bị các thứ thuốc làm cho  phấn khởi, suy nhược hay chết vậy. Những sự phản ứng nầy ghi bằng những đường cong trên một cái ống quây tròn. Bao nhiêu đấy cũng đủ để chứng minh rằng Tâm Thức Hồng Trần vẫn Duy Nhứt. Xin quí bạn xem hình và đọc lại đoạn đó và bài Sự phản ứng của thảo mộc của Ông John Coats, Chánh Hội Trưởng  Hội Thông Thiên Học Quốc Tế trong tập Hồn Khóm.

*

*    *

chương thứ ba 

guồng máy của tâm thức

(le mécanisme de la conscience)

          Nói cho đúng, tất cả những Thể của con người từ: Xác Thân, Phách, Vía, Hạ Trí, Thượng Trí, Kim Thân (Thể Bồ Đề) và Tiên Thể làm ra guồng máy của Tâm Thức với tư cách là cơ quan của ý chí, của tư tưởng và của sự hành động. Nhưng mà có thể nói: Bộ Thần kinh là guồng máy đặc biệt của Tâm Thức, bởi vì do bộ Thần kinh làm trung  gian, Tâm Thức mới kiểm soát và điều khiển được tất cả thân thể con người.

          Mỗi tế bào trong mình chúng ta gồm hằng hà sa số những sự sống hết sức nhỏ nhít, li ti, mỗi sự sống nầy đều có Tâm Thức mới tượng. Mỗi tế bào đều có Tâm Thức riêng biệt kiểm soát nó và tổ chức nó. Nhưng mà Tâm Thức trung ương cao hơn hết, nó dùng xác thân như là một vận cụ, tới phiên nó, nó kiểm soát và tổ chức xác thân. Guồng máy trong đó nó hoạt động ấy là Bộ Thần Kinh.

 

hai  hạch quí trong đầu con người

          Trong đầu con người có hai hạch rất quí:

     Một là Hạch mũi (Corps pituitaire).

     Hai là Hạch óc (Glande pinéale).        

1. hạch mũi (Corps pituitaire).

          Hạch mũi là cơ quan của xác thân, trước nhứt để luyện Thần Nhãn rồi sau đó để luyện Thiên Nhãn (Vision mentale).

          Nhờ nó mà những điều ta học hỏi trong lúc mở Thần Nhãn mới truyền qua cái óc. Nó cũng dùng để kiểm soát những chỗ giao cảm thần kinh tiếp xúc với Cái Vía, nhờ vậy Tâm Thức vẫn tiếp tục không gián đoạn giữa cõi Trần và cõi Trung Giới. Nhưng phải đề phòng, không nên định trí quá mức, làm cho hạch mũi sưng lên, con người mở mắt trao tráo mà không thấy đường.

          Trong Hatha Yoga có nhiều tư thế tập thường xuyên thì hư Hạch mũi, khá thận trọng khi luyện tập một mình.

 

2. hạch óc tùng quả tuyến (glande pinéale).

          Hạch óc liên quan với Cái Trí. Nó dùng để chuyển di tư tưởng từ người này qua người kia. Trong những trường hợp: Thần giao cách cảm (Télépathie) tư tưởng có thể phóng đi từ Cái Trí nầy qua Cái Trí kia, nó dùng chất Thượng Thanh Khí (chất Trí Tuệ) làm phương tiện chuyển giao hay là nó từ Hạch óc truyền đi, xuyên qua Dĩ Thái Hồng Trần (Ether physique) tới Hạch óc của kẻ khác.

          Đối với người da trắng thì Luân xa thứ sáu và Luân xa thứ bảy đồng qui về Hạch mũi. Hạch mũi làm ra sự liên lạc trực tiếp giữa cõi Trần với các cõi cao siêu.

          Đối với nhiều người khác Luân xa thứ sáu dính với Hạch mũi, còn Luân xa thứ bảy cong xuống, dính với Hạch óc. Nó làm ra sự liên lạc trực tiếp giữa cõi Trần và cõi Hạ Thiên, không xuyên qua cõi Trung Giới làm trung gian như thường lệ. Phải mở Huệ Nhãn mới biết được điều này.

*

*    *

chương thứ tư

tâm thức cao siêu hay là siêu tâm thức (super conscience)

          Siêu Tâm Thức là Tâm Thức cao hơn Tâm Thức của ta thường dùng hằng ngày:

          Ấy là:  Tâm Thức Cái Vía

Tâm Thức Cái Trí (Hạ Trí và Thượng Trí).

Tâm Thức Bồ Đề hay Bồ Đề Tâm (Conscience Bouddique).

Tâm Thức Niết Bàn hay là Tâm Thức Tiên Thể (Conscience Nirvanique).

Xin xem Phần Nhì Chương: Sự mở mang Tâm Thức.

 

những điềm chiêm bao

          Nhưng thiết tưởng cũng nên nói vài lời về những điềm chiêm bao, bởi vì thường thường người ta gọi chiêm bao là những điều Cái Vía thấy trong lúc ngủ. Như vậy thì chúng nó thuộc về Tâm Thức cao siêu.

          Nhưng thật sự, tất cả những điềm chiêm bao không phải đều do Cái Vía thấy.

          Có bốn thứ chiêm bao:

     1. Chiêm bao Xác thịt.

     2. Chiêm bao Cái Phách.

     3. Chiêm bao Cái Vía.

     4. Chiêm bao linh.

          Tuy nhiên muốn thật biết cái nào là chiêm bao xác thịt, cái nào là chiêm bao Cái Phách thì phải mở Thần Nhãn, quan sát tỉ mỉ mới chắc không lầm.

          Những chuyện thuật lại dưới đây, xem xét theo cách suy diễn cũng có thể biết được chút đỉnh mỗi chuyện thuộc về loại chiêm bao nào. Thật sự chúng vốn vô hình, không thể lấy việc hữu hình mà giải nghĩa cho đúng được.

 

1. chiêm bao xác thịt

          Trong lúc ngủ, con người không còn kiểm soát cái óc nữa, cho nên nó lập lại những sự rung động của nó đã ghi trong lúc ban ngày, có khi của mấy ngày trước nữa.

          Cũng nên biết xác thân lưu giữ một Tâm Thức riêng biệt còn mơ hồ lắm; chúng ta cũng phải kể thêm Tâm Thức tập thể của những tế bào của xác thân nữa.

          Những sự biến đổi dù ở ngoại giới hay ở trong mình như nóng, lạnh, đói, khát, trược khí, no hơi, sình bụng, máu huyết không điều ḥa, những tiếng, những sự đụng chạm, và nhiều nguyên nhân khác đều có ảnh hưởng đến cái óc và sanh ra chiêm bao.

          Tỷ như những chuyện sau đây 

I

          Một người kia nằm ngủ chiêm bao thấy mình bị thắt cổ, chừng giựt mình tỉnh dậy thấy cổ áo sơ mi mình chật quá, muốn nghẹt thở.

 

II

          Một người khác bị cây kim gút đâm, chiêm bao thấy mình đánh gươm bị một vết thương nặng.

III

          Một vị nữa tên Maury thuật lại rằng một đêm kia ông nằm ngủ bị một cây nuông mùng rớt xuống trúng nhẹ cần cổ ông. Bao nhiêu đó cũng đủ làm cho ông thấy một điềm chiêm bao dữ dội. Ông  thấy ông đóng một vai tuồng trong cuộc Cách Mạng Pháp rồi lên đoạn đầu đài.

IV

          Chiêm bao thấy một bầy quạ.

          Ông Camille Flammarion nói:

          Tôi chiêm bao thấy ở trên một cái núi cao. Một bầy quạ bay ngang qua và kêu quạ quạ. Chúng nó cổi lớp giống như mấy con sâu lột da và mấy con bướm thay lớp nhộng.

          Những lớp nầy rớt xuống chung quanh tôi, nhưng tôi lấy làm lạ, chúng không giống những con quạ mà lại giống đầu những con dă nhơn bằng da giấy. Nhà Thiên văn học Babinet ở tại đó, ông lấy những đầu nầy nhét đầy túi.

          Ông Camille Flammarion giải nghĩa điềm chiêm bao:

Ngày trước tôi chăm chỉ xem chòm sao Ô Thước (Constellation du Corbeau) trong Thiên văn đồ Flamsteed.

          Nhà Bác học Babinet không được đẹp. Gương mặt của ông, cũng như gương mặt của Littré làm cho chúng ta nhớ đến giống khỉ, tổ tiên loài người.

          (Điều chưa biết và những vấn đề Tâm Linh rút trong Quyển II L'Inconnu et les problèmes psychiques, Tom II par Camille Flamm-arion).

V

          Chiêm bao thấy người giậm gót chân trên nấc thang lầu.

          Ông Camille nói:

          Sáng sớm hôm nay, ngày mồng 6 tháng 6 năm 1897, tôi chiêm bao thấy một người giậm mạnh gót chân trên một nấc thang lầu bằng cây. Tiếng giậm mạnh làm cho tôi giựt mình thức dậy. Ấy là tiếng "hỏa pháo" do người ta đốt hồi sáu giờ sáng cách Thiên văn đài hai trăm thước để báo tin Lễ Thánh Linh giáng lâm (Pentecôte).

          Cái tiếng đánh thức tôi là nguyên nhân sanh ra một cái hình. Tôi thấy hình nầy trước khi tôi thức dậy. Đây có nghĩa là hình nầy sanh ra trong khoảng một thời gian rất ngắn có lẽ trong một phần mười giây đồng hồ (1/10 de seconde) làm cho tôi thức dậy.

          Khi tôi thấy người giậm chân trên nấc thang lầu thì tôi chiêm bao thấy mình trần truồng. Tôi phải đi ra khỏi phòng tôi ở và kiếm quần áo để mặc. Tôi đi ngang qua phòng khách thấy có lối ba mươi người ngồi nói chuyện với nhau. Tôi lo lắng rất lâu, tôi tìm cách đi ra, bỗng chút tôi giựt mình thức dậy.

          Tôi mở mắt ra, cảm thấy lạnh. Tôi thấy cái mền của tôi đắp rớt ra ngoài. Chắc chắn sự lạnh này làm cho tôi chiêm bao thấy mình trần truồng cũng như tiếng pháo nổ sanh ra h́nh một người giậm chân trên nấc thang lầu.

          (Điều chưa biết về những vấn đề Tâm Linh, Quyển II L'Inconnu et les problèmes psychiques, Tom II par Camille Flammarion).

VI

          Bị thú rượt cắn.

          Steffens, nhà văn sĩ Đức thường luận về các thứ chiêm bao có thuật lại điềm chiêm bao của ông hồi còn nhỏ như sau đây:

          Một hôm tôi ngủ với anh tôi, bỗng thấy mình đi trên một con đường vắng vẻ bị một con thú rừng dữ tợn rượt theo. Tôi sợ quá, chạy trốn không la được tiếng nào, cho tới khi tôi gặp một cái thang tôi leo lên. Song bị hoảng hốt nên yếu sức, và con thú đó chạy mau quá, nó đuổi theo kịp tôi. Nó cắn tôi một vít sâu ở bắp chuối. Tôi giựt mình thức dậy thì chính là lúc đó anh tôi ngắt bắp chuối tôi, ngay chỗ con thú cắn.

VII

          Đang ngủ nghe tiếng súng nổ.

          Ông Richers cũng là một nhà văn sĩ Đức, có thuật chuyện một người kia đương ngủ bỗng nghe tiếng súng nổ liền nằm chiêm bao thấy y nhập ngũ, rồi bỏ trại trốn đi, bị đói khát và cực khổ vô cùng.

          Kế y bị bắt đem về. Ṭa án quân sự xử bắn. Tiếng súng nổ làm cho y giựt mình thức dậy.

   2. chiêm bao cái phách

          Cái óc của Cái Phách rất nhạy cảm hơn cái óc của xác thịt. Nó phản ứng rất lẹ làng đối với những ảnh hưởng bên ngoài. Nên biết có những luồng Dĩ Thái (Courants éthériques) trên không gian đi từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam. Nếu những luồng Dĩ Thái này đi ngang qua chỗ hôi hám, dơ dáy thì chúng hóa ra trược.

          Khi nó đi ngang qua Cái Phách thì nó làm cho cái óc này sanh ra chiêm bao, thường thường là dữ dằn, hãi hùng như bị cọp rượt, rắn đuổi theo, mộc đè vân vân . .

          Giấc ngủ hóa ra nặng nề. Vì thế nên chọn lựa chỗ ngủ tinh khiết, nếu có thể làm được việc nầy.

          Cũng nên biết rằng mùng mền chiếu gối áo quần của người lạ nhiễm từ điện của họ, mình dùng đồ đó sẽ chiêm bao có thể thấy những việc dị kỳ.

 

3. chiêm bao cái vía

Nói tiếng Anh trong giấc ngủ.

          Trong quyển II Điều chưa biết về vấn đề Tâm Linh Ông Camille Flammarion cũng có thuật chuyện, ông nói tiêng Anh trong lúc  ngủ như sau đây:

          "Đã nhiều năm rồi, trong lúc tôi học tiếng Anh, tôi rất quan tâm đến những động từ có những giới từ theo sau. Tôi nằm chiêm bao thấy tôi nói tiếng Anh. Tôi muốn nói với một người kia rằng hôm rồi tôi có đến viếng y. Tôi dùng câu: I called for you yesterday.

          Người đó trả lời với tôi: Anh nói sai rồi, phải nói: I called on you yesterday.

          Sáng ra thức dậy, tôi nhớ lại điềm chiêm bao, tôi lấy một quyển văn phạm Anh để trên bàn kế đó xem lại thì thấy người trả lời với tôi nói đúng.

          Đây có thể nói: Ấy là chiêm bao Cái Vía. Người trả lời với ông Camille Flammarion rất giỏi tiếng Anh và cố ý dạy ông.

4. chiêm bao linh

          Còn một thứ chiêm bao nữa gọi là chiêm bao linh gồm chiêm bao báo tin trước, chiêm bao bỗng dưng hay là chiêm bao tượng trưng. Con người thấy cái chi thì chẳng bao lâu sẽ xảy ra cái đó in như điều đã thấy, không sai chút nào.

          Việc này do một trong hai nguyên nhân sau đây:

          Một là: Chơn Nhơn thấy những biến cố sắp xảy ra có liên hệ đến Phàm Nhơn nên cố gắng làm cho cái óc xác thịt ghi nhớ điều đó.

          Hai là: Một người khác tới báo tin cho mình

Tôi xin kể vài chuyện ra đây:

a. chiêm bao thấy mình chết đuối.

          Ngày 25 Novembre 1860, chúng tôi đi săn bắn ngoài biển, trên một chiếc ghe. Lối bốn giờ chiều, thì chúng tôi trở về. Còn hơn hai mươi thước nữa thì tới bờ, bỗng nhiên người bạn tôi nói với tôi rằng: "Đêm trước anh nằm chiêm bao thấy hôm nay anh chết đuối".

          Tôi an ủi anh và nói trong mười phút nữa chúng ta sẽ lên bờ.

Một chập sau chiếc ghe chìm, anh và một người bạn nữa chết đuối, mặc dầu chúng tôi tận tâm cứu chữa.

          Anh của người chết mà tôi nói đây, hiên giờ làm Trạng sư tại Havre là nơi đã xảy ra tai nạn. Người ta có thể đọc tin này trong những nhựt báo xuất bản tại Havre ngày 26 Novembre 1860.

                                                                             E.B.

                                                                             78 Rue de Plalsbourg au Havre

                                                                             (Thơ số 194)

(Điều chưa biết và những vấn đề Tâm Linh, Quyển II L'Inconnu et les problèmes psychiques, Tom II).

          Theo lời tường thuật trong thơ thì có thể nói Chơn Nhơn báo cho con người biết rằng y đã mãn kiếp trần rồi. Người chết nhớ rõ ràng điềm chiêm bao trước khi xảy ra tai nạn.

b. hồn ma đáp ơn.

          Có một lần kia, thi sĩ Hy Lạp Simonide đi chơi ngoài mé biển bỗng gặp một cái thây ma. Tuy không biết là ai, nhưng thi sĩ cũng lo chôn cất tử tế.

          Một ngày kia thi sĩ sửa soạn vượt biển bỗng chút nằm chiêm bao thấy người mà thi sĩ đã chôn đó cản trở không cho đi. Thi sĩ nghe lời. Chiếc tàu biển mà thi sĩ định đi bị chìm, hành khách trên tàu đều chết tất cả.

          Đọc chuyện này rồi ta tự hỏi: Nếu anh đi săn ngoài biển bữa đó không nghe theo lời chúng bạn rủ ren, anh ở lại nhà, anh có chết đuối không? Như trường hợp của thi sĩ Simonide không vượt biển nên không chết.

          Vẫn biết có định mệnh mà cũng có tự do ý chí.

          Ví như ngày 25-11-1860, anh đi săn không chết thì cái chết của anh sẽ dời lại, không biết mấy ngày, mấy tháng hay mấy năm, và anh sẽ chết cách nào? có chết đuối không? làm sao nói cho đúng được bây giờ.

         

c. chuyện một người thợ rèn bị cưa chƠn.

          Một người thợ rèn làm việc trong một cái máy xay chạy bằng bánh xe nước, y biết cái bánh xe hư cần phải sửa lại. Một hôm y nằm chiêm bao thấy ông chủ hăng cầm y lại sau khi hết giờ làm việc đặng sửa cái bánh xe đó. Y rủi té, chơn mắc kẹt giữa hai bánh xe, bị thương nặng phải cưa đi.

          Sáng ra thức dậy y thuật chuyện nầy cho vợ con y nghe và hứa chắc chắn nếu chiều người ta bảo y sửa cái bánh xe thì y sẽ bỏ ra về liền.

          Qua ngày sau, ông chủ cho hay, chiều lại, sau khi thầy thợ ra về, thì sửa bánh xe. Anh thợ rèn hay vậy, nhứt định về trước khi mãn giờ làm việc. Y mới lén trốn vào một lùm cây gần đó. Chẳng dè đi tới chỗ chứa cây nhà máy y gặp một đứa nhỏ ăn trộm cây. Thấy mặt y nó liền bỏ chạy. Y quyết định rượt theo bắt nó trả cây lại. Y ham rượt cho đến đỗi quên phứt sự quyết định của y, y chưa kịp nhớ tới ý nghĩ của y hồi sớm thì y đã tới cái máy xay đương lúc thợ thầy ra về. Y tránh không được, người ta đã thấy y. Bởi y là thợ rèn chánh, nên phải ở lại sửa cái bánh xe. Y hứa trong lòng sẽ chủ ư hơn ngày thường. Nào dè y trượt té kẹt chơn giữa hai bánh xe và bị thương nặng.

          Người ta chở y vào nhà thương Bradford và cưa chơn y phía trên đầu gối.

          Điềm chiêm bao đã ứng nghiệm.

          (Rút trong "Real ghost stories", trang 77 của M.W.I. Stead. Ông Leadbeater có đem vô quyển sách "Les rêves" của ông).

d. thấy cha chết trước mười lăm ngày.

          Cha tôi chết hồi tôi mười tám tuổi, sau một trận tấn công. Mười lăm ngày trước đó, tôi nằm chiêm bao thấy cha tôi chết, nằm dài trên giường, mặc y phục đàng hoàng, có năm người bà con ruột canh chừng. Tới khi cha tôi chết, quả thật chính năm người đó canh chừng trọn đêm. Sự nhận thấy lạ lùng này làm cho tôi xúc động mãnh  liệt rất lâu.

P.B.

Marseille (Thơ số 251)

(Điều chưa biết và những vấn đề Tâm Linh, Quyển II L'Inconnu et les problème psychiques, Tom II).

e. thấy việc sẽ tới.

          Năm 1865, tôi mười tám tuổi, tôi làm nữ giáo viên trong một ký túc xá tại Anh quốc. Khí hậu xứ nầy không hạp với tôi, tôi thường đau ốm, luôn luôn muốn trở về Pháp.

          Tôi qua Anh tính ở hai năm, thời gian nầy đủ cho tôi học tiếng Anh. Tôi qua Anh hồi tháng giêng. Tới cuối tháng bảy, tôi chiêm bao thấy tôi phải học mau lẹ vì tôi không còn ở lâu tại xứ nầy, nhưng tôi không biết vì lý do nào tôi bị bắt buộc phải rời khỏi Anh quốc. Tư tưởng nầy ám ảnh tôi, mỗi lần nó đến, tôi xua đuổi nó đi, tôi nói: "mộng là ảo". Nhưng ngày 15 tháng 8, mẹ tôi từ trần, tôi phải trở về Pháp.

          Léonie Serres (nhủ danh Fabre) à deaus, canton de vésénabre (Gard). (Lettre 406)

          (Điều chưa biết và những vấn đề Tâm Linh, Quyển II L'Inconnu et les problèmes psychiques, Tom II).

          Có thể nói rằng: Hai chuyện này vốn do Chơn Nhơn báo tin trước vì thấy biến cố liên hệ đến Phàm Nhơn.

          Thường thường muốn biết vị lai phải mở Huệ Nhãn xem Tiên Thiên Ký Ảnh (Clichés Akasiques). Người thường không khi nào làm được việc nầy, nhưng Chơn Nhơn ở cõi Thượng Thiên tiến hóa  khá cao thì thấy được.

 

chiêm bao bÓng dÁng hay là chiêm bao tượng trưng

          Có khi Chơn Nhơn báo tin trước bằng những tượng trưng, không hiểu vì lẽ nào.

          Tỷ như thường thường thấy răng rụng là trong thân quyến có người chết. Tuy nhiên sau khi nhổ răng mà nằm chiêm bao thấy răng rụng thì là tại cái óc nhớ lại lúc bị nhổ răng chớ không phải là chiêm bao tượng trưng.

          Chiêm bao thấy nước lớn thường có nghĩa là mất tiền bạc hoặc mất của, hoặc bị tai nạn.

          Thấy rắn là gặp kẻ nghịch, còn cả trăm thứ khác nữa. Có điều lạ là Rắn và Voi là tượng trưng Đức Minh Triết, có lẽ là tùy theo Chơn Nhơn của mỗi người.

          Nhưng đừng quá tin chiêm bao bởi vì mỗi Chơn Nhơn, Chơn Nhơn của người da đen, Chơn Nhơn của người da vàng và Chơn Nhơn của người da trắng đều có cách tượng trưng riêng biệt của mình, không ai giống ai.

Tỷ như mấy chuyện sau đây

1. điềm chiêm bao của Đốc Tơ sermyn.

          Ông Đốc tơ De Sermyn chiêm bao thấy ông bồng đứa con trai nhỏ của ông đứng trước lò sưởi đang cháy. Bỗng chút thằng nhỏ chùi xuống và té vô lò. Ông đã không kéo nó ra mà lại còn đóng cửa lò tức tốc. Ông nghe tiếng thằng nhỏ giẫy giụa rên la vì bị lửa thiêu. Ông giựt mình thức dậy thì đứa con của ông vẫn ngủ yên ổn như thường. Sáng ra nó thức dậy cũng vui chơi như mọi bữa. Nhưng tới trưa nó khởi sự đau. Mạch nhảy mau lắm, ông coi thì nó bị sưng hai lá phổi. Bốn ngày sau đứa nhỏ bỏ mình.

 

2. điềm chiêm bao của sir noel platon.

          Sir Noel Platon gởi cho Bà Crowe bức thư nầy có đăng trong cuốn The night side of nature, trương 54. Mẹ tôi có nằm một điềm chiêm bao như vầy: Bà thấy ở trong một cái nhà dài, tối và không bạn ghế chi cả. Một phía thì cha tôi, tôi và tất cả gia quyến đứng ngay một hàng theo tuổi tác. Chúng tôi đứng lẵng lặng và im lìm. Bỗng chút có một vật, không thể tưởng tượng được, vô phòng, bóng nó hiện ra thì gieo kinh khủng cho mọi người. Nó lén đi từ ba nấc thang xuống. Mẹ tôi cảm biết đó là Tử Thần ([4]) đi qua. Tử Thần vác trên vai một cái búa lớn. Mẹ tôi nghĩ rằng: Nó đến giết mấy đứa tôi một lần một. Khi nó vô rồi, em gái tôi, Alexes, liền bước ra ý muốn xen chính giữa mẹ tôi và Tử Thần. Tử Thần giơ búa lên cao giáng xuống Catherine, em gái tôi, mẹ tôi hoảng sợ, ngăn cản không được, dẫu rằng lúc đó bà đã xách một cái ghế đẩu. Bà biết rằng không thể nào ném Tử Thần mà không trúng chết Alexes, vì nó ra đứng giữa bà và Tử Thần.

          Cái búa giáng xuống thì Catherine té nhào. Tử Thần lại giơ búa chém xuống đầu em trai tôi, vì nó lại đứng hàng trước. Nhưng Alexes lại lẻn ra sau lưng Tử Thần. Mẹ tôi hét lên một tiếng, xách ghế ném vào đầu Tử Thần. Tử Thần biến mất, mẹ tôi giựt mình thức dậy.

          Ba tháng sau, mấy anh em tôi đều mắc bệnh Tinh hồng nhiệt (Fièvre scarlatine), nổi mụt đỏ cùng mình và trong cuống họng. Chẳng bao lâu, em gái tôi, Catherine, bỏ mình. Khi nó khởi sự đau thì mẹ tôi vẫn biết tuyệt vô hy vọng. Bà hết sức kinh sợ cho Alexes vì bịnh tình của nó dường như thêm trầm trọng. Một phần điềm chiêm bao đã ứng nghiệm. Tôi cũng vậy, tôi thập phần tử nhứt phần sanh, các thầy thuốc đều chạy, nhưng mẹ tôi chắc ý cứu tôi mạnh được. Còn em trai tôi, quan thầy coi nó như không có điều chi nguy hiểm, mà mẹ tôi hết sức lo sợ, vì thấy Tử Thần giơ búa lên ngay đầu nó, nhưng bà không nhớ Tử Thần có hạ búa xuống hay không lúc y biến mất.

          Em trai tôi mạnh rồi, song chẳng bao lâu trở bịnh lại, cứu nó sống được cũng hết sức khó khăn.

          Còn Alexes không được hạnh phúc ấy, nó đau gầy mòn trong hai mươi hai tháng rồi nó nắm tay tôi mà từ giă cõi đời.

          Điềm chiêm bao của mẹ tôi đã ứng nghiệm như vậy.

 

3. chiêm bao thấy cá.

          Trong cuốn Night side of nature, trương 54, của Bà Crowe cũng có thuật chuyện một bà kia mỗi lần chiêm bao thấy một con cá lớn, là mỗi lần bà có việc buồn xảy đến. Một bữa kia, bà nằm chiêm bao thấy một con cá lớn đó cắn hai ngón tay của đứa con trai nhỏ của bà. Chẳng bao lâu, đứa nhỏ này bị một đứa anh em bạn học lấy búa nhỏ chém vào hai ngón tay in như điềm chiêm bao đã thấy.

 

nhớ lại những sự kinh nghiệm trong lúc xuất vía

          Trong Quyển nhì Huyền Bí Học trong thiên nhiên (L'occultisme dans la nature, Tom II) của Đức Leadbeater có chuyện Nhớ lại những sự kinh nghiệm trong lúc xuất Vía. Tôi xin thuật sơ lược câu chuyện đó ra sau đây:

          Một nhân viên trong Ban Phò Trợ Vô Hình, xin tạm gọi là anh X, được cử đi an ủi một người bị chất nổ giết chết. Cho hay trước vài phút, anh vừa có đủ thì giờ tới chỗ xảy ra tai nạn để làm xong phận sự. Sáng ngày, anh lại thuật cho tôi nghe những điều anh làm đêm hôm, nhưng anh lại nói anh có cảm giác anh chết vì chất nổ, anh bị văng lên trên không.

          Một lần khác anh được lịnh tới giúp đỡ Linh Hồn một anh lính làm tài xế một chiếc xe chở thuốc đạn chạy trên đường núi gồ ghề. Y té xuống xe bị bánh xe cán chết.

          Sáng hôm sau, anh X nhớ lại là anh nằm chiêm bao thấy anh làm tài xế một chiếc xe chở thuốc đạn, anh té xuống xe bị bánh xe cán chết, anh đồng hóa với tên lính làm tài xế.

          Một buổi sáng kia, anh lại thăm tôi và thuật cho tôi nghe điềm chiêm bao kỳ lạ anh thấy đêm rồi, anh chắc chắn không phải là chiêm bao.

          Anh nhớ lại anh thấy một cô gái đang lặn hụp dưới biển. Tôi nghĩ anh có cảm tưởng rằng cô gái đó bị người ta ném xuống biển, nhưng tôi không chắc anh thấy tên sát nhơn. Anh thấy chuyện này trong lúc anh ở trong Cái Vía, nhưng anh chưa biết cách hiện hình ra, anh không thể cứu cô gái, anh biết rằng nguy cơ sắp xảy ra. Anh bèn cho tư tưởng vô trí hôn phu của cô. Anh này lật đật chạy đến nhảy xuống biển, vớt cô đem vô bờ và để nằm trên bãi, rồi dắt cô về nhà giao cho cha cô. Anh nói: Anh nhớ rành rẽ gương mặt của ba người nầy, nếu anh thấy thì anh nhận ra liền. Anh xin tôi xem xét coi sự nhớ của anh có đúng với điềm chiêm bao hay không.

          Tôi bèn quan sát, tôi rất ngạc nhiên mà thấy điềm chiêm bao nầy là chiêm bao tượng trưng, sự việc đó đã xảy ra như sau:

          Cô gái vốn mồ côi mẹ, ở với cha. Cô đã đẹp lại giàu sang nên được nhiều thanh niên gắm ghé. Nhưng câu chuyện này liên quan đến hai cậu trai thôi.

          Một cậu bé dễ thương nhưng nhút nhát. Cậu và cô gái từ nhỏ đến lớn là bạn thân với nhau. Cậu thường tới nhà cô, cả hai đứa yêu nhau. Cậu trai hứa hôn với cô gái, phân nửa ngấm ngầm, phân nửa ưng thuận, việc nầy thường xảy ra giữa đám thanh niên nam nữ.

          Bỗng chút một thanh niên khác đến. Cậu nầy thuộc về hạng phiêu lưu đẹp trai, mặt mày sáng sủa, có tài quyến rủ song giả dối, mong đào mỏ và không đáng tin cậy chút nào. Cô gái lại thích cậu này vì bị những loè loẹt bên ngoài làm chóa mắt. Cô cho là tình cô thương cậu nầy vốn thành thật, còn cảm tình của cô đối với cậu trước là tình bè bạn hồi nhỏ. Nhưng cha cô thấy xa hơn cô; khi cậu nầy tới hỏi cô làm vợ thì ông từ chối một cách có lễ phép nhưng cương quyết. Ông không khứng gả con cho một người mà ông không biết chi về y.

          Đây là một cú đau thương cho cô gái. Cậu trai mới lén tới thăm cô và tìm cách thuyết phục cô. Cậu nói: "Em bị bạc đãi, cha em không hiểu em. Ông là người độc tài chuyên chế, khó chịu. Em phải tỏ ra có đầu óc, em phải cho người ta biết em muốn cái gì. Em hãy trốn theo tôi, rồi cha em sẽ đổi ý. Ông sẽ thấy phải và tương  lai sẽ  rực rỡ đối với đôi ta".

          Cô gái nghe mấy lời nầy rất hữu lý bèn bằng lòng theo y.

          Chính là đêm cô gái sắp sửa trốn ra khỏi nhà mà anh X thấy tấn kịch này.

          Cậu trai đương chờ ở một góc đường với một cái xe sẵn sàng, còn cô gái sắp đặt đồ hành lý trong phòng.

          Nhưng cô gái trong lòng hồi hộp, cô do dự, chưa rời khỏi phòng. Cũng may lúc đó có anh X xuất Vía đi tới gần nhà cô. Sự hồi hộp của cô và ý cô muốn được nghe lời khuyên bảo làm cho anh chú ý đến cô. Anh đọc tư tưởng của cô, anh biết liền tình trạng khẩn cấp; anh hết sức cố gắng ngăn cản cô không cho cô làm chuyện khờ dại đó. Nhưng bị tâm tư cô xáo động quá, tư tưởng của anh không vô trí cô nổi. Anh ḍm chung quanh kiếm coi có ai ảnh hưởng đến cô được. Anh muốn nhờ cha cô, nhưng ông đang ở trong phòng đương đọc một cách say mê một quyển sách nói về văn học, không thể làm cho ông nhớ đến đứa con gái của ông.

          Thời may, anh chàng trai bị bỏ rơi, đêm nay lại đi dạo mát gần đó, anh ḍm lên lầu người yêu, theo cách mà tất cả các thanh niên si tình trên thế gian đã làm. Hữu phước thay! Anh lại rất nhạy cảm. Vì quá thương người yêu, anh chàng rất lo lắng cho cô gái, thế nên rất dễ ảnh hưởng đến anh và dắt anh đi tới góc đường có một cái xe  đương chực sẵn.

          Tình thương làm cho anh sáng mắt. Anh chợt nghĩ ra giật mình và hổ thẹn vì biết việc đó là cái gì rồi. Phải lấy sự công bình mà nói, trong lúc khẩn cấp nầy, anh không nghĩ đến anh hay là việc anh sắp mất người yêu, mà anh lo cho cô gái làm một việc điên rồ hư hỏng tương lai. Anh lật đật chạy vô nhà, leo lên thang và gặp cô gái lúc cô ra khỏi phòng.

          Hai người nói với nhau những gì, không người nào nhớ rõ, nhưng anh chàng năn nỉ cô gái hãy suy nghĩ cho chính chắn trước khi làm một chuyện nguy hiểm có hại cho thân thể và thinh danh. Anh chỉ cho cô gái thấy cô sắp sa vào cái hố sâu và xin cô hãy thú thật việc cô muốn làm cho cha cô nghe.

          Sự hiện diện thình lình của chàng trai nầy và những lời nói chân thành thức tỉnh cô gái, cô hết cơn mê, cô riu ríu đi theo chàng xuống phòng sách gặp ông cha đương chăm chỉ đọc sách. Ông nghe thuật lại câu chuyên thì giựt mình, vô cùng hoảng hốt, không ngờ cô gái lại định làm một việc táo bạo như thế. Cô gái và ông rất cảm ơn chàng trai và cô gái nhớ lại lời hứa hẹn trước kia nên ưng thuận lấy chàng trai nầy làm chồng.

          Tấn tuồng đă diễn ra như thế mà Chơn Nhơn của anh X lại cho anh nhớ lại một cách khác. Vì lẽ nào, không rõ.

          Thế nên, như tôi đã nói trước đây, muốn biết thật sự ý nghĩa của điềm chiêm bao thì phải nhờ một vị Sư Huynh hay một nhà Huyền Bí Học lão luyện có Thần Nhãn xem xét kỹ lưỡng câu chuyện. Đừng vội tin là thật mà cũng đừng quá nghi là mộng mị. Cứ để đó và đề phòng. Trong Trời Đất còn không biết bao nhiêu sự bí mật mà con người chưa khám phá ra được, bởi vì sự tiến hóa của chúng ta chưa được cao siêu.

 

vấn đề không gian và thời gian trong chiêm bao

          Trong giấc chiêm bao không có không gian và thời gian vì nó thuộc về cõi Trung giới mà cõi Trung Giới có bốn thứ Nguyên, không phải chỉ có ba thứ Nguyên như ở thế gian.

          Chơn Nhơn có cách đo thời gian khác hơn Tâm Thức ta tại cõi Trần.

          Trong giấc chiêm bao ta có thể trong giây phút thấy những việc tính theo thời gian ở cõi Trần thì kéo dài cả chục năm.

          Xin xem những chuyện dưới đây:

          A.- Trong cuốn Cô Răn (Coran), Kinh Thánh của Đạo Hồi Hồi có thuật chuyện Đấng Tiên Tri Ma Hô Mê (Mahomet) nằm chiêm bao thấy mình lên viếng mấy từng Trời, có người cắt nghĩa cho Ngài nghe đủ các chi tiết; Ngài có diễn thuyết rất lâu với các hạng Thiên Thần. Chừng Ngài về nhập xác, thì Ngài mới rời cái giường của Ngài ngủ trong vài giây đồng hồ.

 

          B.- Addison thuật lại rằng: Một ngày kia có một Hoàng Đế xứ Ai Cập không tin chuyện nói trên đây. Ngài thưa với Sư Phụ Ngài rằng: Ngài coi chuyện đó như là một chuyện đời xưa.

          Sư phụ Ngài phép tắc cao cường, muốn tỏ cho Vua biết rằng chuyện đó có thể xảy ra được, bèn dạy đem một chậu nước và xin Vua nhúng đầu vào đó rồi ngước lên liền. Vừa nhúng đầu vào chậu nước, thì Vua lấy làm ngạc nhiên mà thấy mình ở giữa một chỗ kia lạ lùng, trên bãi vắng vẻ, dưới chơn một núi cao. Sau khi hết giựt mình rồi, Đức Vua cho rằng Thầy mình phản bội, nên dùng tà thuật hại mình, bèn nguyền rủa người thậm tệ. Nhưng ngày giờ qua, Vua thấy đói, nên nghĩ rằng trước hết phải kiếm phương thế đặng nuôi mình trong xứ lạ quê người. Ngài đi bơ vơ trong giây lát thì gặp những người đốn cây trong rừng, họ kêu Ngài lại tiếp sức với họ, rồi họ cho Ngài theo làm công và dắt Ngài về thành của họ ở.

          Ngài ngụ tại đó trong vài năm, nhờ tiện tặn được một số tiền lớn, nên cưới được một người vợ giàu có. Vua ở với người vợ đó đặng mười bốn đứa con, trong bao nhiêu năm gia đình dẫy đầy hạnh phúc.

          Bỗng chút người vợ thác đi, rồi Vua bị những cuộc tai biến xảy tới, cửa nhà, sự nghiệp tan tành. Vua trở nên nghèo khổ và lúc già lại trở thành ra người hái củi như trước.

          Một ngày kia, Vua đi gần mé biển, mới cổi quần áo xuống tắm. Ngài lặn xuống biển rồi trồi lên, lấy tay chùi nước nhểu trên mặt thì Ngài lấy làm lạ thấy mình đứng trước Quần Thần cũ của mình, gần bên ông là Thầy của Ngài, trước mặt là chậu nước.   Giấc mộng đã tan, có ai tưởng rằng trong một khoảng thời gian ngắn ngủi như thế, nhúng đầu vào chậu nước rồi ngước lên mà Vua thấy những chuyện xảy ra cả một đời người.

          Nhưng hai chuyện trên đây xảy ra đã lâu đời rồi, ta không đủ bằng cớ quả quyết rằng chúng nó có thật. Còn chuyện sau nầy mới xảy ra cho một vị Bác sĩ (tiếc rằng không cho biết tên). Ông rất thích khảo xét những vấn đề mà ta đương bàn luận đây.

          C.-  Một ngày kia, ông có hai cái răng phải nhổ, người ta cho ông hít thuốc mê. Ông định lưu ý tới những cảm xúc của ông trong lúc người ta làm việc. Song lúc hít thuốc mê rồi ông mơ màng quên phứt ý định của ông rồi ông ngủ mê man.

          Ông thấy sáng bữa sau ông thức dậy lo những công việc khoa học hằng ngày, diễn thuyết trước những Hội Thông Thái vân vân   . . . Ông thấy vui vẻ lạ lùng và tăng cường sức lực, mỗi bài diễn văn là một tác phẩm phi thường, mỗi sự thí nghiệm đem tới cho ông những sự phát minh mới mẻ và vinh diệu. Cứ như vậy mãi, ngày nầy qua ngày kia, tuần nầy qua tuần nọ, lâu lắm, cho tới một bữa trong lúc ông đang diễn thuyết trước Vương Hội (Société royale), ông bị một thính giả vô lễ chận ngang mà nói rằng: "Ông quay lại coi cái đó có nghĩa chi", thì nghe một tiếng khác nói: "Đây nầy hai cái răng đã nhổ hết". Ông còn ngồi trên ghế của nha y mà ông đã sống một khoảng đời nhiệt liệt chỉ trong bốn mươi giây đồng hồ (40 seconds).

          Hai bài trên đây không khác nào chuyện Hoàng Lương Mộng hay là Giấc Kê vàng bên Trung Hoa.

- I -

A. hoàng lương mộng

          Ngày xưa, Lư Sinh, đời Đường bên Trung Hoa, thi rớt, trở về quán trọ than thở vì số phận không may của mình. Tại quán trọ có một vị Đạo sĩ thấy vậy mới đưa cho Lư Sinh một cái gối và bảo: "Hãy kê đầu lên gối thì sẽ được hiển vinh". Lư Sinh nghe lời. Vừa nằm xuống thì thấy mình thi đỗ Tiến sĩ, làm quan to và có vợ giàu. Nhờ có công lớn dẹp giặc nên danh tiếng lẫy lừng trong mười năm. Sau Lư Sinh dâng sớ hạch tội Lý Lâm Phủ lộng quyền nên bị cách chức.

          Lư Sinh sanh được năm đứa con trai đều học giỏi, thi đỗ làm quan. Lư Sinh kết sui với những nhà quí tộc, cháu chắt đầy nhà. Lư Sinh sống tới tám mươi tuổi mới chết.

          Bỗng có tiếng động, Lư Sinh giựt mình thức dậy thì nồi kê bắc trên bếp chưa chín. Lư Sinh lấy làm lạ mới ngó Đạo sĩ dường như muốn hỏi thăm duyên cớ.

          Đạo sĩ mỉm cười đáp: "Việc đời vẫn như thế đó".

          Công danh phú quí là một giấc chiêm bao không hơn không kém.

- II -

          Hoàng Lương Mộng trên đây khác với giấc Huỳnh Lương kể trong truyện Đông Du Bát Tiên, quyển I, trang 36, dịch giả: Tô Chuẩn.

          Xin chép y nguyên văn ra sau đây:

          . . . . Đạo sĩ nói: Ta là Vân Phòng tiên sinh, ở núi Triều Hạc, người muốn đi chơi với ta chăng? Lữ Động Tân còn lưỡng lự. Chung Ly Vân Pḥng biết ý vì chưa đậu Tấn sĩ nên còn muốn trổ danh tiếng với đời. Liền hối quân nấu Huỳnh Lương (là bắp), Vân Phòng đưa gối cho Lữ Động Tân nằm, còn mình ngồi chụm lửa cho mau chín. Chẳng ngờ Chung Ly Vân Phòng có làm phép trong cái gối.

          Khi ấy, Lữ Động Tân nằm chiêm bao thấy Cái Vía đi thi, ghé nhà giàu kia gặp nàng nọ tuổi vừa hai tám, dung nhan lịch sự trong đời, nói hứa rằng: "Nếu chàng thi đỗ Trạng Nguyên, thiếp chịu nâng khăn sửa trắp". Lữ Động Tân vào khoa đỗ Trạng, cưới nàng ấy, sau lại kiếm hầu. Vua bổ ra làm chức Giám Nghị, lần lần tới bốn mươi năm, làm chức Thừa Tướng mười năm nữa, có sui gia cũng bực quan lớn, cháu nội cháu ngoại đông đầy.

          Sau bị nịnh vu oan giá họa, đến nỗi mắc tội. Vua tịch kư gia tài, bị đày qua núi Lãnh Biên, cực khổ vô cùng; kế giựt mình thức dậy. Vân Phòng cười lớn ngâm thơ:

"Nồi bắp hăy còn ngòi,

Chiêm bao đà thấy cháu".

          Lữ Động Tân lấy làm lạ hỏi rằng: "Thầy biết sự chiêm bao của tôi sao? Vân Phòng nói: "Chiêm bao năm chục năm, công việc cả muôn, thiệt không đầy một lát; đặng chẳng khá mừng, mất không nên thảm, hết vinh tới nhục là lẽ thường".

          Bây giờ hay nói giấc mộng Huỳnh Lương (giấc Nàng Đang) cũng là tích ấy.

*

*    *

chương thứ năm

ký ức

A. bản chất của ký ức

          Ký ức là gì? Nó hoạt động cách nào? Làm sao nó làm cho ta nhớ lại những việc thuộc về quá khứ dầu quá khứ đó mới đây hay đã xa lâu?

          Nói tóm lại dầu cho quá khứ đó xảy ra trong kiếp nầy hay là thuộc về nhiều kiếp trước, nhưng Luật Quản Trị nhớ lại quá khứ phải luôn luôn là một, và điều ta tìm kiếm là một lý thuyết bao hàm tất cả những trường hợp của ký ức và nó giúp ta giải thích được mỗi trường hợp đặc biệt.

          Công việc đầu tiên phải làm là đạt đến một lý thuyết để hiểu biết sự cấu thành bản thể của chúng ta, sự cấu thành Bản Ngã và lớp vỏ bao bọc nó với những sự liên lạc mật thiết giữa những Thể này. Đừng bao giờ quên rằng Tâm Thức chúng ta là Một đơn vị và đơn vị nầy hoạt động nhờ trung gian của những thể xác khác nhau làm cho bề ngoài người ta tưởng lầm những trạng thái là Nó.

          Đơn vị này là Chơn Thần ở tại cõi Đại Niết Bàn. Nhưng mà thường thường về mặt thực tế người ta dùng Bản Ngã gồm: Ba Ngôi Thiêng Liêng, Tam Vị Nhất Thể: Atma Bouddhi Manas tức là Chơn Nhơn thay thế Chơn Thần. Cũng đừng lầm lộn Ba Ngôi Thiêng Liêng nầy với  Ba Thể của Ba Ngôi dùng, ấy là:

      a)- Thể của Atma là Tiên Thể (Corps Atmique).

      b)- Thể của Bouddhi là Thể Bồ Đề (Corps Bouddhique).

      c)- Thể của Manas là Thượng Trí hay Nhân Thể (Corps Mental supérieur ou Corps Causal).

          Chính Chơn Nhơn hiện ra nhờ những Thể của nó làm trung gian trong năm cõi: Hạ Giới, Trung Giới, Thượng Giới, Bồ Đề, Niết Bàn. Những sự rung động của thể xác, về phương diện vật chất cân xứng và phù hợp với những sự biến đổi của Tâm Thức.  Nghĩa là: Những sự rung động của các Thể xác sanh ra những sự rung động trong Thể xác. Vấn đề những Thể xác trong đó Tâm Thức hoạt động vốn quan trọng nhứt trong sự học hỏi về ký ức. Chính là Cái Trí mô phỏng lại hình dạng những sự việc xảy ra với chất Trí Tuệ, và nhờ việc nầy mà con người mới nhớ lại những biến cố đã hiện đến trong quá khứ.

          Nên nhớ rằng Đức Thái Dương Thượng Đế vốn toàn năng, toàn tri, vô sở bất tại. Chơn Thần là một thành phần của Ngài, hay  là Con của Ngài cũng toàn năng, toàn tri, vô sở bất tại như Ngài. Nhưng có một điều khác nhau là những Thể của Chơn Thần, vì thế  phải được phát triển toàn diện như ở Đức Thượng Đế.

 

B. sự biến đổi trong thể xác

và trong tâm thức

          Bây giờ ta hăy xem xét xác thân đặng coi cái chi xảy ra khi nó thâu nhận một cảm giác nào đó và cách nhớ lại cảm giác đó. Một sự rung động ở ngoài tới đập vào một cơ quan cảm giác và  truyền vào một trung tâm đối chiếu với nó trong cái óc. Một nhóm tế bào trong óc rung động và khi sự rung động ngừng thì các tế bào ở trong  trạng thái khác hơn lúc trước một chút.

          Sự ứng đáp nầy để lại một dấu vết làm ra một khả năng rung động cho nhóm tế bào đó. Nhóm tế bào nầy đã rung động một lần với một cách đặc biệt thì nó bảo tồn sự rung động nầy trọn đời của nó. Nó có thể rung động một lần nữa với một cách đó khi nó bị ảnh hưởng của sự kích thích bên ngoài giống như lần trước. Mỗi lần lập lại một thứ rung động là mỗi lần thêm sức mạnh cho khả năng rung động và để lại một dấu vết đặc biệt. Nhưng mà sự rung động nầy phải lập lại cả ngàn lần như vậy trước khi nó đủ sức tự động tái diễn.

          Cũng nên biết những sự rung động không phải ngừng lại ở tế bào xác thịt mà thôi. Chúng nó truyền qua những tế bào đối chiếu trong mấy Thể như Cái Vía, Cái Trí rồi cuối cùng gây ra một sự biến đổi trong Tâm Thức.

          Tâm Thức phản động lại nó sanh ra những sự rung động từ trong ra ngoài dưới ảnh hưởng của sự biến đổi của nó.

 

sự lập lại nẦy làm ra sự nhớ lại

vật đã gây ra loại rung động đó

          Sự biến đổi sanh ra trong Tâm Thức cũng để lại trong Tâm Thức năng lực lập lại sự biến đổi đó dễ dàng hơn trước, và mỗi sự biến đổi đem Tâm Thức đến gần lúc nó có năng lực tự động gây ra sự biến đổi đó.

          Nói tóm lại, chúng ta nên nhớ điều nầy:

          Sự kích thích ngoại giới đụng đến xác thân thì gây ra một sự biến đổi trong Tâm Thức. Tâm Thức phản ứng sanh ra những sự rung động từ trong ra ngoài.

          Sự xao động thứ Nhứt có nguyên nhân là một vật ở ngoại giới và sanh ra cái điều mà người ta gọi là Sự Nhận Thức.

          Sự xao động thứ Nhì do sự phản ứng của Tâm Thức và sanh ra cái điều mà người ta gọi là: Sự Nhớ Lại hay là Hồi Tưởng.

ký ức là gì?

          Bây giờ ta đề cập đến câu hỏi chánh: Ký Ức là gì?

          Ta biết rằng sau khi con người thác rồi một ít lâu thì ba Thể: Xác Thân (Phách), Vía, Trí (Hạ Trí) đều tan rã. Mỗi Thể để lại một phần tử trường tồn ghi tánh nết và những sự kinh nghiệm của nó.

          Xác Thân để lại một nguyên tử gọi là Nguyên Tử Trường Tồn của Xác Thân (Atome physique permanent). Cái Vía để lại một nguyên tử gọi là Nguyên Tử Trường Tồn của Cái Vía (Atome permanent astral). Cái Trí (Hạ Trí) để lại một phân tử gọi là Phân Tử Trường Tồn của Hạ Trí (Molécule permanent mentale).

          Cả ba xỏ xâu vào một sợi chỉ làm bằng chất Bồ Đề gọi là Sutrâtma rồi vô nằm trong Thượng Trí. Tới kỳ đi đầu thai, con người trở xuống Trần thì Bộ Ba Trường Tồn nầy hoạt động lại như trước. (Xin xem đoạn Kim Quang Tuyến)

          Các nguyên tử, các tế bào đã tan rã rồi thì còn cái chi lại mà gọi là Ký Ức. Vậy thì Ký Ức ở đâu?

          Đức Bà A. Besant nói: Câu trả lời rất giản dị. Ký Ức không phải là một năng lực, không có chỗ nào để bảo tồn nó. Nó không phải có sẵn trong Tâm Thức, không có sự nhớ lại những biến cố được ghi trong Tâm Thức cá nhân.

          Mỗi biến cố đều hiện diện trong Tâm Thức của Vũ Trụ và trong Tâm Thức của Thái Dương Thượng Đế.

          Tất cả những gì đã xảy ra, đương có đây và sẽ xảy ra trong Vũ Trụ thuộc về Quá Khứ, Hiện Tại và Vị Lai đều ở trong Tâm Thức của Đức Thượng Đế, nó bao hàm tất cả trong một Hiện Tại Vĩnh  Cửu  (Eternel présent). Từ đầu tới cuối, từ buổi bình minh cho đến lúc chiều tàn của Vũ Trụ, tất cả đều ở đó, luôn luôn hiện diện, luôn  luôn sống và linh động; trong đại dương của ý niệm này, tất cả đều tồn tại.

          Khi ta tiếp xúc được với một mảnh nhỏ của những gì mà nó chứa đựng, thì sự ứng đáp của ta làm ra: Sự hiểu biết. Khi ta thấy một lần rồi thì trong tương lai rất dễ cho ta tiếp xúc một lần khác với những mảnh nầy.

          Sự lập lại sự tiếp xúc làm ra các điều mà ta gọi là Ký Ức.

          Sự nhớ lại tất cả những điều đã xảy ra trong kiếp này và trong những kiếp trước đều có thể phục hồi bởi vì tất cả những khả năng rung động sanh ra những hình ảnh đều chất chứa trong Tâm Thức của Đức Thái Dương Thượng Đế và chúng ta có thể chia sớt Tâm Thức nầy dễ dàng khi ta thường thu nhận những rung động đồng một loại. Vì thế chúng ta lập lại những sự rung động mà chúng ta cảm biết dễ dàng hơn những sự rung động mới mẻ. Bởi vì những sự rung động ở ngoại giới đã cảm đến ta và sanh ra những sự biến đổi trong Tâm Thức của ta thì bây giờ ta có thể lấy lại được trong Tâm Thức của Đức Thượng Đế những điều mà ta đã sống trong Tâm Thức cá nhân. Tại cõi Niết Bàn chúng ta chia sớt với Đức Thái Dương Thượng Đế Tâm Thức của Vũ Trụ vì tại cõi này sự Đồng Nhất ngự trị, không còn sự chia rẽ như ở mấy cõi thấp nữa.

          Không có Ký Ức nào ngoài Tâm Thức luôn luôn hiện diện của Đức Thái Dương Thượng Đế. Chúng ta sống và hoạt động trong Tâm Thức nầy.

 

ký ức của Thượng Đế

          Tất cả những điều ghi trong Tâm Thức của Đức Thái Dương Thượng Đế làm ra Ký Ức của Ngài (Mémoire du Logos) cũng gọi là Clichés Akasiques, xin dịch là Tiên Thiên Ký Ảnh. Thường thường người ta nói Clichés Akasiques, ở tại cõi Thượng Giới,     và trong quyển Cái Trí (Le Corps Mental) của Powell, Chương XXVIII gọi Akasa là chất khí của cõi Thượng Giới (cõi Trí Tuệ). Nhưng nói cho đúng: Akasa là chất khí làm ra cõi Niết Bàn chớ không phải cõi Thượng Giới.

          Nên biết rằng trước khi tạo lập Tiểu Vũ Trụ nầy Đức Thái Dương Thượng Đế sắp sẵn một Bản Đồ gọi là Thiên Cơ trong đó có ghi sẵn ngày giờ sanh hóa các Dãy Hành Tinh, nhơn vật trên mấy Dãy đó, sự tiến hóa của họ đến mức độ nào vân vân . . ., đủ các chi tiết, từ khi Thái Dương Hệ mới sanh cho tới lúc nó tan rã. Ấy là một hình tư tưởng rất lớn ở tại cõi Trí Tuệ hay là Thượng Giới Hư Không (Plan Mental Cosmique) cao hơn bảy cõi của Thái Dương Hệ chúng ta hai bực. Mở được Tối Thượng Huệ Nhãn thì thấy được Thiên Cơ.

          Thiên Cơ gọi là Annales Akasiques, Tiên Thiên Ký Ảnh rất đúng.

          Tưởng cũng phải nói thêm rằng tất cả những điều con người làm từ tư tưởng, ý muốn, lời nói và hành động cho tới y phục, hình dáng đều có ghi hình ảnh trên Tiên Thiên Khí (Akasa) và làm ra Tiên Thiên Ký Ảnh. Vì thế những người tu hành có Huệ Nhãn xem Tiên Thiên Ký Ảnh đều biết được những tiền kiếp của mình và của những người khác.

          Đọc được Tiên Thiên Ký Ảnh thì biết được chẳng những lịch sử của Dãy Địa Cầu mà c̣n biết lịch sử của Thái Dương Hệ từ lúc mới sanh ra cho tới ngày nay và luôn cho tới ngày cuối cùng. Các Sử gia viết lịch sử nhân loại còn nhiều chỗ sai lầm vì có  những nguyên nhân, những chi tiết và những chỗ ẩn khuất mà con người không biết được. Sự xét đoán của con người thường ít đúng với sự thật.

          Phải tu hành tới bực La Hán và từ đó sắp lên mới đọc được Tiên Thiên Ký Ảnh tại cõi Bồ Đề một cách rõ ràng hơn. Tại cõi Bồ Đề thời gian và không gian chẳng còn là những sự giới hạn nữa. Vào cõi nầy quan sát viên không cần phải quan sát những hiện tượng từ cái nầy tới cái kia, bởi vì quá khứ, hiện tại, vị lai đều xảy ra một lượt với nhau trong "Cái mà người ta gọi là Hiện Tại Vĩnh Cửu". Tại cõi Trần danh từ Hiện Tại Vĩnh Cửu (Eternel présent) đối với ta vô nghĩa, không ai tin được, vì không ai quan niệm nổi điều đó. Khi đắc đạo thành Chánh Quả làm một vị Siêu Phàm lên tới cõi Niết Bàn và dùng được Tiên Thể (Corps Atmique) thì vị lai với những chi tiết trải ra trước mắt. Tới bực này mới không còn lầm lạc nữa.

          Tiên Thiên Ký Ảnh cũng rọi xuống cõi Trung Giới nhưng mà đứt đoạn, người có Thần Nhãn thấy được song không biết được trọn vẹn những biến cố. Thế nên những lời tiên tri của những người mới học Đạo chỉ đúng có một phần, trừ ra những biến cố sắp xảy ra và ý chí của con người không còn sửa đổi được nữa. Vậy thì chớ quá tin Sấm giảng nói đều trúng hết.

*

*    *

chương thứ sáu

ý chí ham muốn cảm xúc  (volonté désir emotion)

ý muốn sống

          Ý Chí Minh Triết Hoạt Động (Vonlonté Sagesse Activité) là Ba Trạng thái của Chơn Thần mà cũng là Ba Trạng thái của Chơn Nhơn.

Chúng ta biết rằng: chúng ta sanh ra ở cơi Trần bởi vì chúng ta muốn sống ở mấy cõi thấp và ấy là ý chí quyết định sự tạm cư của chúng ta tại thế gian. Thường thường, lúc đầu tiên của sự tiến hóa thì con người thật hiện một cách bất toàn Bản Tánh, quyền năng và công nghiệp của ý chí biểu hiện ra như là Sự Ham Muốn.

          Ý Chí là gì? Ý Chí là quyền năng của Tâm Thức, luôn luôn nó bị che khuất trong Bản Ngã, nó ẩn mình sau trạng thái Minh Triết và Hoạt Động, nhưng nó thúc đẩy hai trạng thái này biểu hiện ra. Bởi nó bị che khuất cho nên nhiều người cho nó với sự hoạt động chỉ là một và không công nhận nó là một trạng thái của Tâm Thức. Ý Chí là quyền năng làm ra nền tảng của sự hiểu biết, nó kích thích sự hoạt động. Tư tưởng là một sự hoạt động sáng tạo còn ý chí là nguyên động lực.

          Những Thể của con người chỉ là những Thể mà thôi, Bản Ngã uốn nắn vật chất thành ra những hình dạng đặng xuyên qua những hình dạng nầy nó hiểu biết và ảnh hưởng đến những gì ở chung quanh nó.

          Trong quyển Chandogyopanishad, VIII, XII, 1, 4, 5 có mấy câu nầy:

          "Ô Maghatvan! Xác thân này phải chết, nhưng nó là chỗ nghỉ ngơi của Atma bất tử không có thể xác. Hai con mắt ở đó như là những cơ quan để quan sát của Đấng ở trong con mắt. Ai nói: Tôi sẽ ngửi. Ấy là Atma nó muốn ngửi mùi vị. Ai nói: Tôi sẽ nói. Ấy là Atma nó muốn nghe những âm thanh. Ai nói: Tôi sẽ suy nghĩ. Ấy là Atma.

          Cái Trí là con mắt của Trời quan sát những vật đáng chuộng. Nhờ con mắt của Trời mà Atma thưởng thức tất cả".

          Ấy là quyền năng bí mật, quyền năng phát động sự tiến hóa.

          Quả thật ý chí của Thượng Đế đã vẽ ra con đường của sự tiến hóa, quả thật có những Đấng Cao Cả đủ các cấp bực dìu dắt những sanh vật trên con đường nầy, song người ta ít chú trọng đến vô số những kinh nghiệm, những sự thất bại, những sự thành công, những con đường khúc khuỷu, những chỗ quanh co do những sự dò dẫm  của những ý chí riêng biệt.

mỗi ý muốn sống

đều tự mình tìm cách biểu hiện

          Thật ra ấy là Bản Ngã thiêng liêng đang mò mẫm, tìm kiếm, chiến đấu. Lúc ban sơ, nó có thể bị những Thể của nó tạo ra đặng biểu hiện hạn chế nó, nhưng thời gian qua, dần dần nó tiến hóa, nó khắc phục và sử dụng được những Thể bao bọc nó, nó thành ra một vị chủ nhơn thay vì trước kia nó ngơ ngác.

          Điều nầy rất dễ hiểu là tại Phàm Nhơn ở dưới Trần nghe theo lời xúi giục của ba Thể: Thân, Vía, Trí nên gây ra muôn vàn tội lỗi.

quyền năng của ý chí

          Quyền năng của ý chí là năng lượng tinh thần tạo lập và bảo tồn các thế giới.

          Trong mình con người, bộ thần kinh là khí cụ của ý chí dùng để biểu hiện tại cõi Trần.

          Muốn mở mang ý chí thì phải tập trung tư tưởng vào một vấn đề thôi, giải quyết nó xong thì mới bắt qua việc khác. Đừng cho Cái Trí vởn vơ thả hồn theo mây khói. Nếu biết việc nào lành rồi thì cương quyết đem nó ra thực hành, mặc dầu phải vượt qua không biết bao nhiêu chướng ngại. Phải luyện tập từ việc nhỏ nhặt cho tới việc lớn lao. Phải tập cho có thói quen thì sau tất cả đều sẽ dễ dàng.

          Thí dụ mỗi ngày quyết định năm giờ rưởi sáng thức dậy, thì đúng năm giờ rưởi sáng phải ngồi dậy, dù còn buồn ngủ cũng đừng ngủ nữa. Nội trong nữa tháng như vậy là có thói quen. Đúng năm giờ rưởi sáng thì tự nhiên thức dậy, khỏi đợi ai gọi.

          Phải tập đứa trẻ cho có thói quen cương quyết. Mỗi ngày bắt nó phải làm một việc nào đó, thí dụ lại ngồi trên ghế đọc một bài trong quyển sách Luân Lý vào giờ nó rảnh.

          Phải bền lòng tập ý chí từ kiếp này qua kiếp kia.

          Trong quyển Dưới Chơn Thầy đoạn "Lòng Tin Cậy" có hai câu nầy:

          a). "Con là một Điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế và Đức Thượng Đế toàn năng ở trong mình con và vì lý do nầy: không có cái chi con không làm được nếu con có ý chí.

          b). "Nếu con muốn bước vào Đường Đạo thì ý chí của con phải cứng cỏi như thép đã trui".

          Những người thuộc về Cung thứ Nhất, ý chí rất cứng cỏi, rất cương quyết. Nếu tôi nhớ không lầm thì Đức Leadbeater có nói như vầy: "Khi tôi muốn hiện hình ra thì tôi phải chọn lựa các chất Thanh Khí rồi kết hợp lại. Còn người bạn của tôi muốn hiện hình thì hiện ra liền, ý chí của ông rút những chất khí cần thiết lại khỏi phải chọn lựa". Thấy việc nầy rồi mới hiểu được quyền năng ý chí như thế nào.

          Trong quyển Giảng Lý Ánh Trên Đường Đạo, qui tắc 5-8, Đức Leadbeater cũng có nói: Một người hoàn toàn tin chắc ở sức mạnh của mình thì có thể trải qua những sự nguy hiểm khác nhau mà không bị hại bởi vì sự tin chắc của y rất xác thực. Sức mạnh hoàn toàn làm tiêu mất sự ghê tởm. Chúng ta lùi bước trước một bịnh truyền nhiễm vì sợ bị lây, nếu chúng ta tin chắc ở sự không bị nhiễm của chúng ta thì chúng ta không có ý tưởng về sự truyền nhiễm nữa.

          Ngày nay người ta biết rất nhiều về sự ích lợi của quyền năng ý chí.

          Những Trường của các Phái:

          1. Nguyên lý Cơ Đốc Giáo (Science Chrétienne).

          2. Khoa Học Tâm Ý (Science mentale).

          3. Gợi cảm trị liệu (Thérapeutique saggestive) nhờ lợi dụng quyền năng của ý chí mà thành công trong nhiều trường hợp.

hãy đề phòng

          Có nhiều quyển sách dạy tập trung tư tưởng vào Tùng Thái Dương (Pléxus solaire) có phải là trong Đạo Đức gọi là Đơn Điền không? Nhưng hãy đề phòng. Theo Huyền Bí Học, Tùng Thái Dương là trung tâm của bộ giao cảm thần kinh. Luyện sái một chút thì nó gây ra nhiều tai hại cho người như buồn bực mãi rồi thành điên, khùng, hoặc xụi bại, đau tim, đau phổi, dạ dày, không thuốc nào chữa lành được. Không phải Tùng Thái Dương mà thôi, tập trung tư tưởng vào Tùng (Pléxus) nào cũng có hại cho xác thân. Trừ ra khi học với một vị Chơn Sư hay là một nhà Huyền Bí Học lão luyện. Ông thấy học trò mình làm sái thì phải sửa liền không để cho tánh mạng bị nguy hiểm.

ý chí sửa đổi được số mệnh

          Xin nhắc lại rằng: Con người có thể dùng ý chí sửa đổi được số mệnh mình kiếp nầy và kiếp sau nữa.

          Con người khỏi tốn tiền bạc chi cả, chỉ ra công mà cũng không phí sức nhiều.

          Điều cần thiết là tinh luyện tánh tình để thay đổi mục đích việc làm từ ích kỷ, tật đố ra bác ái, khoan dung, đại độ. . . . Coi người như mình, luôn luôn sẵn sàng và tìm dịp giúp đỡ tùy phương tiện mà không hề nghĩ đến việc người báo ân.

          Nội bao nhiêu đây mà thật hành một cách thường trực thì bước lần tới cửa Đạo và gầy dựng một tương lai tốt đẹp. Tôi xin giải nghĩa theo khoa học tại sao quả báo tốt trừ được quả báo xấu. Hễ động thì có phản động, động và phản động vẫn cân phân với nhau. Ấn Độ gọi điều đó là Karma.

          Nói một cách khác, mỗi việc làm dầu cho tư tưởng hay ý muốn cũng vậy, đều sanh ra một hiệu lực hoặc tốt hoặc xấu tùy theo bản tánh của nó lành hay dữ. Người ta gọi hiệu lực nầy là Nghiệp Quả và luôn luôn trở về với người sanh ra nó. Khi ta biết Luật Trời rồi thì cố gắng làm những việc lành. Hiệu lực của những việc lành này chống lại hiệu lực của những điều ác do ta đă gây ra và càng ngày càng làm cho hiệu lực ác mất lần sức mạnh của nó. Nên biết một hiệu lực lành, tùy theo thứ, có sức mạnh hơn cả chục hay cả trăm lần một hiệu lực ác. Vì thế, tới một ngày kia, hiệu lực ác tan mất và không còn ảnh hưởng tới ta được nữa. Người ta gọi là trả sạch Quả Báo.

          Bây giờ hãy lấy một thí dụ cụ thể. Một cây nước đá lớn để trong thùng nội trong hai giờ đồng hồ mới tan hết.

          Bây giờ ta lấy nước sôi đổ lên cây nước đá thì nội trong năm phút không còn nước đá nữa.

          Nếu cây nước đá tượng trưng cho quả xấu, còn nước sôi tượng trưng cho quả tốt thì ta thấy khối quả tốt phá vỡ khối quả xấu một cách dễ dàng.

          Nhưng có một điều phải nói là ta có chịu ra công nấu nước sôi hay không. Đây mới thật là việc đáng ngại. Chúng ta phải tự giải quyết lấy.

*

*    *

chương thứ bảy

sự ham muốn

bản tính của sự ham muốn

          Ý chí ở tại cõi Niết Bàn. Nó xuống cõi Bồ Đề, cõi Thượng Giới và khi tới cõi Trung Giới thì nó cũng thành ra sự ham muốn. Qua cõi nào nó cũng lấy chất khí của cõi đó bao mình.

          Thế nên sự ham muốn là ý chí bị mất quyền năng, nó là ý chí bị giam hãm trong vật chất. Nó không tự mình hoạt động nữa, mà bị sự hấp dẫn của những sự vật ở chung quanh thúc đẩy nó hoạt động.

          Đây là sự khác biệt giữa ý chí và sự ham muốn mặc dù bản tánh của chúng nó vẫn in như nhau.

          Ở mấy cõi cao, ý chí làm ra quyền năng tích cực, còn ở mấy cảnh thấp sự ham muốn nắm giữ nhiệm vụ nầy.

          Khi mà sự ham muốn yếu đuối, tất cả bản tánh của con người sẽ yếu đuối trong sự phản ứng của nó đối với ngoại giới.

          Sức mạnh thực sự của bản tánh con người được ước lượng theo sức mạnh của ý chí hay là sự ham muốn của y tùy theo trình độ tiến hóa của y cao hay thấp.

          Câu ngạn ngữ sau nầy chứa đựng một Đại Chơn Lý: "Những Đại Tội nhân làm ra những vị Đại Thánh".

          Những người bản tánh hững hờ, lãnh đạm thì không bao giờ hết sức tốt hay là hết sức xấu.

          Những người học Đạo đều biết rằng Ba Thể Thấp của con người thường dùng mỗi ngày là Xác thân, Cái Vía và Cái Trí, mỗi Thể đều có những sự ham muốn riêng biệt, thường thường là xấu xa hơn là tốt lành. Đáng sợ hơn hết là những sự ham muốn quấy quá của Cái Vía khi nó cấu kết với Cái Trí. Muôn vàn tội lỗi của con người đều do Ba Thể: Thân, Vía, Trí gây ra khi chúng xúi giục con người hành động đặng thỏa thích những sự ham muốn của chúng nó.

          Đừng quên rằng người ta gọi Cái Vía là Thể Ham Muốn.

          Sau khi nhiều kiếp kinh nghiệm, con người mới bắt đầu chiến đấu với bản thân, diệt trừ những sự ham muốn xấu xa bằng cách biến đổi bản tánh của chúng nó, từ cái dữ ra cái hiền, từ cái thấp hèn ra cái cao siêu, từ cái ích kỷ ra cái vị tha, chớ không phải tiêu diệt Cái Vía cũng gọi là Thể Nguyệt Tinh do các Vị Siêu Phàm ở Dãy Nguyệt Tinh (Chaîne Lumaire) gọi là Barishad Pitris làm ra. Không có Cái Vía, con người không còn tình cảm thì không biết hung dữ tới bực nào.

          Dưới Chơn Thầy dạy các sanh viên đề phòng những sự ham muốn trong mấy câu nầy:

          "Khi xác thân con ham muốn điều chi, con hãy ngừng lại rồi suy nghĩ coi có phải thật con muốn điều đó không? Bởi vì con là Đức Thượng Đế, con chỉ muốn điều nào mà Đức Thượng Đế muốn mà thôi, nhưng con phải đi sâu vào tâm con đặng gặp Đức Thượng Đế trong ḿnh con và con nghe lời của Ngài, lời Ngài cũng là lời của con vậy".

sự biến đổi ý muốn

­          Điều cần thiết là nên biết Tư tưởng có thể uốn nắn sự ham muốn và điều khiển nó. Thay vì coi sự ham muốn như là kẻ thù nghịch thì phải làm cho nó thành ra bạn đồng minh giúp mình. Khi sửa đổi chiều hướng của sự ham muốn thì tư tưởng làm cho sự ham muốn thành ra một thứ lực kích thích, đưa ta đi mau tới trước chớ không phải là thứ lực làm chậm trễ sự tiến hóa của ta. Trước kia sự ham muốn những điều thấp hèn ở ngoại giới cột trói ta dưới bùn lầy thì bây giờ sự ham muốn lý tưởng đưa ta lên đến tận mây xanh trên vòm trời cao vút.

*

*    *

chương thứ tám

cảm xúc

          Cảm xúc không phải là tình trạng đầu tiên của Tâm Thức. Chính là Trí Tuệ ảnh hưởng đến sự ham muốn rồi sanh ra nó. Thế nên cảm xúc có những đặc tánh của Trí Tuệ và sự Ham Muốn một lượt.

cảm xúc thương yêu và cảm xúc thù hận

          Cảm xúc thương yêu một người nào lâu ngày biến thành một tánh tốt, còn cảm xúc thù hận nuôi mãi trong lòng thì thành một tật xấu.

          Sự biến đổi nầy do Trí Tuệ tạo nên, Trí Tuệ cho sự cảm xúc tốt một tánh cách thường trực và kiếm thế sanh ra sự ḥa thuận trong tất cả những sự giao thiệp giữa cá nhơn với nhau. Như vậy thì đức  hạnh do tình thương sanh ra và hiệu quả của nó là Hạnh Phúc.

          Còn sự thù hận sanh ra tật xấu và đưa đến sự bất ḥa và nghèo khổ trong gia đình. Nếu nó làm ra những sự xung đột, những hãm hại nhau và có thể gây ra chiến tranh giặc giã.

hậu quả sự mở mang  cảm xúc thương yêu

          Khi người ta thấy rõ bản tánh của tật xấu và bản tánh của đức hạnh thì rất dễ hiểu rằng phương pháp hay hơn hết để nuôi dưỡng những đức tánh và loại trừ những tật xấu là hành động trực tiếp về phía cảm xúc tốt lành của tánh nết.

          Chúng ta phải hết sức cố gắng mở mang cảm xúc thương yêu đặng làm cho đời sống Đạo Đức của chúng ta càng ngày càng thêm tốt đẹp hơn trước bởi vì những đức tánh là bông trái của cây T̀NH THƯƠNG.

chánh lý phải điều khiển cảm xúc

          Cảm xúc là nguyên động lực trong con người. Nó kích thích tư tưởng và sanh ra sự hành động được. Không có nó, con người trơ trơ thành ra thụ động.

          Nhưng mà có không biết bao nhiêu người bị những cảm xúc không lành lôi cuốn, chẳng khác nào con thuyền không bánh lái trôi giạt ở phương trời xa thẳm, bị sóng dập gió dồi. Dưới ảnh hưởng của chúng nó, con người khi thì bị thảy qua bên nầy, khi thì  bị thảy qua bên kia, không giữ vững được thăng bằng.

          Chánh lý phải kềm chế và điều khiển cảm xúc nếu muốn cho nó đem lại kết quả tốt đẹp. Đừng quên điều nầy: Mặc dầu cảm xúc sanh ra được sự hành động, nhưng không nên để nó điều khiển sự hành động, bởi vì công việc nầy phải thuộc về phần trí khôn. Phải suy nghĩ cho sâu xa, phải cân phân từ chút trước khi thật hành. Đừng để cảm xúc, nhứt là cảm xúc tình yêu, lôi cuốn mà sa vào chốn bùn lầy, khó gội rửa được trong sạch như trước.

          Người nào lý trí sáng suốt, hành động với một sự cảm xúc tốt lành, mạnh mẽ, người đó là một người Hiền Triết rất hữu ích cho nòi giống y.

*

*    *

phần nhì

 

          Sự mở mang và sự tiến hóa của Tâm Thức trong năm cõi: cõi Trung Giới, cõi Hạ Thiên, cõi Thượng Thiên, cõi Bồ Đề và cõi Niết Bàn được trích trong những quyển của Đại Đức Leadbeater và Jinarajadasa viết ra như:

 

          1. Sự Tiến Hóa Huyền Bí của Nhân Loại (Evolution Occulte de L'umanité Jinarajadasa).

          2. Chơn Sư và Đường Đạo (Les Maître et le Sentier Leadbeater).

          3. Giảng lý Ánh Sáng trên Đường Đạo (Commentaire sur la Lumière sur le Sentier Leadbeater).

          4. Huyền Bí Học trong Thiên Nhiên, Quyển II (L'Occultisme dans la Nature, Tome II Leadbeater).

 

chương thứ nhất

sự lạ lùng đầu tiên và

lớn lao trong tâm thức

          Sự lạ lùng đầu tiên và lớn lao trong Tâm Thức là: Tất cả trong một phần; toàn thể trong một đơn vị.

          Cho hay Tâm Thức chứa đựng trong một điện tử nhỏ bằng mũi kim, nhưng đơn vị nhỏ này vẫn liên lạc với Tâm Thức vô cùng rộng lớn là Đức Thượng Đế và chứa đựng Tâm Thức của Ngài trọn vẹn mặc dầu vì trí hóa eo hẹp của chúng ta chỉ biết sự cấu tạo của điện tử mà thôi.

          Một thí dụ sau đây cho ta hiểu chút ít về sự tiến hóa của Tâm Thức.

          Một bức màn che lấp một ánh sáng. Ta vén bức màn lên ánh sáng dọi ra, việc vén bức màn không có thêm cái chi cho ánh sáng. Mặc dầu ánh sáng không được lợi lộc nào cả, nhưng nó xua đuổi được sự tối tăm. Ngày nào mà chúng ta chưa đồng hóa một cách có ý thức với ánh sáng thì ngày đó chúng ta chưa biết được nó muốn cái chi.

          Sự hành động của nó là một sự hy sanh và một sự vui một lượt. Hy sanh đặng chịu đựng một giới hạn, còn vui là tự hiến mình. Dự phần vào việc hy sanh nầy và sự vui nầy là đi đến địa vị Siêu Phàm.

          Ở nơi con người, Tâm Thức tiến hóa bằng cách cho ra.

          Còn nguyên tắc chi phối sự phát triển của loài thảo mộc, thú vật là sự tranh đấu, sự ganh đua, sự tìm kiếm những lợi lộc cho bản thân.

          Về con người, nguyên tắc chi phối sự phát triển là sự hợp tác, sự từ khước và sự hy sanh Phàm Ngã. Đức Thái Dương Thượng Đế đời đời kiếp kiếp hy sanh trên Thập Tự Giá của đời sống và vật chất. Con người phải bắt chước Ngài mới giống Ngài được.

          Đây là Đại Nguyên Tắc phải ghi nhớ trong lòng mãi mãi.

          Tâm Thức con người phô trương những khả năng của mình từ giai đoạn nầy qua giai đoạn kia, nhưng không có sự hy sanh của Phàm Nhơn thì việc bước qua giai đoạn kế đó không thể thật hành được.

          Phải diệt trừ tất cả những gì thuộc về thú tánh trong con người. Việc này đ̣i hỏi cả muôn kiếp Luân Hồi. Sau khi trải qua không biết bao nhiêu lần sanh tử, tử sanh, sự hy sanh thành ra bản tánh tự nhiên thì con người mới biết được sự vui của sự hy sanh và sự vui nầy là sự vui duy nhất mà con người có thể quan niệm được. ([5])

 

sự hy sAnh của Đức Thái Dương Thượng Đế

          Khi sanh hóa Tiểu Vũ Trụ nầy thì Đức Thái Dương Thượng Đế phân làm Ba Ngôi:

          Ngôi thứ Nhứt, Ấn Giáo gọi là Brahma (Phạm Vương). Thiên Chúa Giáo gọi là Đức Chúa Cha.

          Ngôi thứ Nhì, Ấn Giáo gọi là Vishnou (Quích-Nu). Thiên Chúa Giáo gọi là Đức Chúa Con.

          Ngôi thứ Ba,  Ấn Giáo gọi là Shiva (Si-Hoa) Thiên Chúa Giáo gọi là Đức Chúa Thánh Thần.

          Ngôi thứ Nhất ngự tại Cõi thứ Nhứt gọi là Cõi A-Di hay là cõi Tối Đại Niết Bàn hoặc cõi Thái Cực.

          Ngôi thứ Nhì ngự tại Cõi thứ Nhì gọi là Cõi Anupadika ([6]) hay là Cõi Đại Niết Bàn hoặc Cõi Lưỡng Nghi.

          Ngôi thứ Ba ngự tại hai cảnh cao hơn hết là Cảnh thứ Nhứt và Cảnh thứ Nhì của Cõi Niết Bàn.

          Khi phân làm Ba Ngôi và xuống Ba Cõi Thấp thì quyền năng của Đức Thái Dương Thượng Đế bị hạn chế. Đó là sự Hy sanh thứ Nhứt.

 

vũ trụ sAnh ra để làm gì?

          Nêu ra câu hỏi: Vũ Trụ sanh ra để làm gì? Thì câu trả lời là: Vũ Trụ sanh ra để giúp cho Chơn Thần tiến hóa.

          Ngày sau, trong tương lai kể ra cả chục tỷ năm thì mỗi Chơn Thần sẽ tiến đến địa vị Thái Dương Thượng Đế và sẽ sanh ra một Tiểu Vũ Trụ khác như Thái Dương Hệ nầy vậy. ([7])

          Đây là sự Hy sanh thứ Nhì.

*

*    *

chương thứ nhì

muốn tiến hÓA tâm thức phải nhập thế

          Xin nhắc lại: Tâm Thức (Conscience) và Sự Sống (Vie) vốn đồng nghĩa với nhau và dùng để chỉ định một sự vật duy nhứt tùy theo người ta quan sát vật nầy từ bên trong hay là bên ngoài. Không có Sự Sống nào mà không có Tâm Thức và cũng không có Tâm Thức nào mà không có Sự Sống.

          Khi chúng ta chú ý đến "Đơn vị" thì chúng ta nói về Sự Sống. Nếu chúng ta chú ý đến "Đa số" thì chúng ta nói đến Tâm Thức. Nói tóm lại, Tâm Thức duy nhứt là một Đơn vị, ấy là Đức Thượng Đế.

          Còn đa số là những phần tử của Tâm Thức duy nhứt, ấy là những Linh Hồn làm ra Nhơn Loại cũng gọi là Tâm Thức cá nhân. Điều cần thiết ta nên biết là Sự Sống tiến hóa, Hình Dạng tiến hóa, Tâm Thức tiến hóa.

          Mà trước khi tiến hóa Tâm Thức phải nhập thế. Nó phải trải qua nhiều giai đoạn.

          Trước nhứt Tâm Thức ở trong loài kim thạch, kế đó qua loài thảo mộc, cầm thú rồi đến con người. Ta không biết rõ rằng Tâm Thức trong ba loài: Kim Thạch, Thảo Mộc, Cầm Thú hoạt động và  phát triển cách nào, ta chỉ nghe nói Sự Sống nào cũng có Tâm Thức cả.

          Về Con Người, ta biết rằng Chơn Thần biến đổi Hồn Thú ra Thượng Trí. Cho nên trong mình con người còn nhiều thú tánh. Con người phải trải qua muôn kiếp Luân Hồi, mới mở rộng lần lần Tâm Thức và gội rửa lòng phàm tức là diệt trừ tất cả những gì còn lại thuộc về tánh thú vật.

          Ta nên nhớ lại thí dụ một nguồn ánh sáng bị bức màn che lấp. Ta nên biết đây là nói bóng dáng về Tâm Thức và những Thể của con người. Chính là mấy Thể nầy án mất Tâm Thức. Ta có bổn phận phải tinh luyện ba Thể: Thân, Vía, Trí đặng chúng nó trở nên trong sạch, nhẹ nhàng, tinh khiết và rung động mau lẹ. Làm chủ được chúng nó, sai khiến lại chúng nó, bắt chúng nó ngoan ngoãn vâng lời, ấy là vén được bức màn lần lần lên cao để cho ánh sáng dọi ra càng ngày càng nhiều đặng xua đuổi cái tối tăm.

          Phải tập rèn tánh nết cho thật tốt, phải học hỏi cho sâu rộng đặng biết Cơ Tiến Hóa rồi nương theo đó mà tiến tới. Việc khắc kỷ, tự chủ, phụng sự vô tư lợi không phải là việc dễ làm, nó khó lắm, hết sức khó, song cố gắng và bền chí thì thành công, ban đầu ít, sau nhiều. Cái điều gì con người đã làm thì bây giờ con người làm lại được.

          Thật sự, nói đến sự tiến hóa của Tâm Thức tức là nói đến sự tiến hóa của con người chớ không có chi lạ.

 

sự mở mang tâm thức

          Muốn tiến mau phải biết cách mở mang Tâm Thức từ Thể này đến Thể kia.

          Tâm Thức vẫn là Một song nó biểu hiện ra nhiều trạng thái khác nhau, khi nó nhập vào những thể xác dị biệt.

          Thế nên lúc nó ở trong xác thân, người ta gọi nó là Tâm Thức Hồng Trần.

          Khi nó qua Cái Vía, người ta gọi nó là Tâm Thức Cái Vía vân vân . . . . Chung qui chỉ có một Tâm Thức mà thôi. Điều này không khác nào ánh sáng mặt trời màu trắng, nhưng khi nó dọi qua tấm kiếng màu vàng thì thấy nó màu vàng, khi nó dọi qua tấm kiếng màu đỏ thì thấy nó màu đỏ. Thật ra chỉ có một thứ ánh sáng trắng trong trẻo.

          Trong chu kỳ tiến hóa nầy người ta biết được sáu trạng thái Tâm Thức như sau đây:

          1). Tâm Thức  xác thân hay Tâm Thức Hồng Trần (Conscience physique) tại cõi Trần.

          2). Tâm Thức Cái Vía (Conscience astral) tại cõi Trung Giới.

          3). Tâm Thức Hạ Trí (Conscience mental inférieur) tại cõi Hạ Thiên.

          4). Tâm Thức Thượng Trí (Conscience mental supérieur) tại cõi Thượng Thiên.

          5). Tâm Thức Bồ Đề hay Bồ Đề Tâm (Conscience Bouddique) tại cõi Bồ Đề.

          6). Tâm Thức Tiên Thể hay là Tâm Thức Niết Bàn (Conscience Nirvanique) tại cơi Niết Bàn.

          Điều cần thiết là ta nên biết chút ít về mỗi Tâm Thức.

 

1. tâm thức hồng trần

     (Conscience physique)

          Trong bảy Thể của con người chỉ có xác thân được tổ chức hoàn bị hơn hết, nhưng nó đương tiến hóa. Sự tiến hóa của nó kéo dài tới Dãy Hành Tinh sau, Dãy Hành Tinh thứ Năm, mới chấm dứt.

          Hiện giờ đối với nhiều người Tâm Thức Hồng Trần chưa được mở mang lắm. Thời gian qua nó sẽ dần dần phát triển. Hơn nữa, chúng ta chưa biết cách xử dụng cho đúng mức Tâm Thức Hồng Trần.

          Một lẽ khác, hầu hết nhơn loại không giữ đúng phép vệ sinh. Điều nầy do một trong hai nguyên nhân sau đây:

          a. Hoặc không biết vì không ai chỉ dạy.

          b. Hoặc biết mà bị vật dục lôi cuốn nên không tuân theo và bất chấp những lời khuyên bảo. Vì thế mà thân thể bạc nhược mang nhiều chứng bịnh hiểm nghèo và giảm thọ. Tâm Thức không thể mở mang cho đúng phép. Nếu cái óc bịnh hoạn hay to sớ, những dây thần kinh không được mảnh mai thì con người không ứng đáp được với những thần lực từ cõi cao siêu tuôn xuống. Vì thế nên không được sáng suốt về phần tinh thần. Chớ nên quên rằng Tinh Thần ảnh hưởng đến Vật Chất mà Vật Chất cũng ảnh hưởng đến Tinh Thần. Nhưng đừng để Vật Chất lấn lướt Tinh Thần, kẻo con người phải bị sa đọa.

          Muốn tiến mau thì:

          Thân phải tráng kiện, tinh khiết.

          Tâm phải sáng suốt.

          Trí phải minh mẫn.

          Thật sự, chỉ có những vị Dô-Ghi (Yogi), những vị tu trì ẩn dật, Sannyasi bên Ấn Độ, những nhà Huyền Bí Học, những Cao Đồ của Chơn Sư mới hội đủ ba điều kiện trên đây một cách hoàn toàn.

          Tuy nhiên chúng ta cứ cố gắng mãi vì không ai xây dựng được Kinh Thành Paris trong một ngày đâu.

          Trong Phần Nhứt, Đức Bà A. Besant đã giải rất rành rẽ về Tâm Thức Hồng Trần, tôi tưởng bao nhiêu đó cũng đủ cho chúng ta lắm rồi. Bây giờ xin đề cập đến mấy thứ Tâm Thức khác.

 

2. tâm thức cái vía

   (Conscience astral)

          Lúc ta thức đây ta dùng Cái Vía để biểu hiện ý muốn và tình cảm.

          Lúc ta ngủ, Cái Vía xuất ra ngoài, ta ở trong Cái Vía qua cõi Trung giới ([8]). Nhưng nhơn loại chưa biết phương pháp điều khiển Cái Vía, ngoại trừ một số rất ít là những nhà Huyền Bí Học.

          Qua cõi Trung Giới, Cái Vía con người bị ảnh hưởng tại cõi nầy rất nhiều, song chúng không cảm con người được trọn vẹn là vì Tâm Thức của Cái Vía chưa thật sự mở mang.

          Tùy theo trình độ cao hay thấp và nhiều bực khác nhau, có người mơ mơ màng màng, có người gặp bà con thân thích hoặc bằng hữu còn sanh tiền hay đã quá vãng, chuyên vãn với họ. Có người thấy mình đi viếng cảnh nầy cảnh kia, có cả trăm chuyện không giống nhau. Cũng có người một đêm chiêm bao thấy ba, bốn chuyện khác nhau hết, chuyện nầy không liên quan đến chuyện kia. Sáng ra, có người nhớ chút đỉnh, có người nhớ mài mại mà cũng có người không nhớ gì hết. Đối với họ giấc ngủ chỉ có ích cho họ là bồi bổ sức lực đã mất mà thôi. Điều này đúng với Chơn Lý bởi vì trong lúc ngủ Tinh Chất xác thịt (Elémental physique) mới tiêu hóa được sanh lực vô mình con người trong lúc thức, do ba ngõ: thực phẩm, hơi thở và luân xa của Cái Phách tại Trái Thăng (Chakra splénique du Double éthérique).

          Tuy nhiên người học Đạo nên biết đó có hai nguyên nhân làm cho con người lúc thức dậy không nhớ cái chi đã thấy hay đã học hỏi tại cõi Trung Giới.

          1). Nguyên nhân thứ nhứt là: Tâm Thức chưa mở mang, Cái Vía giống như sương mù, chưa có hình dạng rõ rệt như xác thịt. Một lẽ khác nữa, nó chứa đầy những chất khí nặng nề, không được thanh bai, màu sắc tối tăm, rung động chậm chạp.

          2). Nguyên nhân thứ nhì: Tại bức màn bảo vệ Cái Phách.

          Các nhà Huyền Bí Học đều biết những Luân xa của Cái Vía và những Luân xa của Cái Phách đều thâm nhập lẫn nhau và liên quan mật thiết với nhau. Chính giữa hai thứ Luân xa có một bức màn bảo vệ Cái Phách làm bằng những Nguyên tử căn bản Hồng Trần ([9]) rất khít khao, ép cứng lại và thấm nhuần một thứ sanh lực đặc biệt. Bức màn nầy do thiên nhiên làm ra đặng đề phòng sự thông thương quá sớm giữa cõi Trung Giới và cõi Trần, vì điều nầy có hại cho con người rất nhiều khi con người chưa chuẩn bị. Chính là bức màn nầy ngăn cản không cho những điều con người thấy ở cõi Trung Giới truyền qua cái óc xác thịt. Vì thế con người quên mất những điềm chiêm bao.

          Cũng là nó làm cho con người sau khi bỏ xác, tắt hơi rồi thì mê man trong một thời gian thường thường là bốn mươi tám giờ.

          Nếu bức màn nầy rách thì tà ma, quỉ mị và nhơn vật ở cơi Trung Giới nhập vô xác con người giờ phút nào cũng được. Họ muốn vô chừng nào thì vô, muốn ra chừng nào thì ra, không ai ngăn trở được.

          Những điều làm hư hại bức màn này là: những cảm xúc dữ dội th́nh ĺnh như sợ hãi, giận dữ, những khói thuốc hút, thuốc phiện, các chất ma túy và rượu.

          Mà nhứt là "cách giở xác" làm cho bức màn nầy rách mau lẹ, con người thành đồng cốt.

          Có khi một tai nạn hay một trận đau thiết lập một cái cầu làm cho Cái Vía thông thương với xác thịt.

          Tôi tưởng cũng phải nói thêm rằng có người mở mang Tâm Thức khá cao, ban đêm làm việc đắc lực tại cõi Trung Giới, nhưng chừng về nhập xác, không nhớ chi hết. Không biết chắc vì lý do nào bởi có nhiều nguyên nhân và nhiều trường hợp khác nhau. Mà lý do đáng kể là một khi thể xác nhẹ nhàng rồi thì những lời nói nặng nề cũng làm cho nó nhức nhối, khó chịu, huống chi là những tiếng động ầm ầm, két két của nhà máy, tiếng xe chạy rầm rầm rộ rộ. Những sự rung động dữ dội nầy làm cho xác thịt hao mòn, mau chết. Phải học cách bảo vệ nó trước khi nhớ lại những việc làm tại cõi Trung Giới.

          Xin đọc quyển ‘Nhớ lại những kinh nghiệm trong lúc Xuất Vía’ phía sau.

 

sự nối liền hai tâm thức:

tâm thức cái vía và tâm thức hồng trần

          Muốn nối liền hai Tâm Thức: Tâm Thức Cái Vía và Tâm Thức Hồng Trần thì phải biết cách Xuất Vía, khai mở những Luân xa của Cái Vía và xử dụng nó như xử dụng xác thân, bởi vì Cái Vía thành ra một thể độc lập. Một khi lập được dây liên lạc rồi thì từ đó Tâm Thức Cái Vía không còn bị gián đoạn nữa. Những việc làm xảy ra trong lúc ngủ chừng thức dậy con người nhớ lại rõ ràng, không sót chi cả.

          Đối với y, không có ngày, không có đêm, vì đời sống của y không bị chia đôi. Sự thác đối với y không còn nữa, vì Tâm Thức của y vẫn liên tục, không hề bị đứt quãng từ năm nầy qua năm nọ. Không những lúc y sống tại cõi Trần mà sau khi bước qua cửa tử lên cõi Trung Giới và trọn thời gian ở tại cõi nầy y vẫn sáng suốt. Tâm Thức nầy chấm dứt khi y bỏ cõi Trung giới lên cõi Thiên Đàng.

          Có nhiều phương pháp Xuất Vía, song phương pháp hay hơn hết và cao siêu hơn hết là khai mở luồng hỏa hầu Kundalini. Nhưng nó rất nguy hiểm. Phải ở dưới quyền điều khiển của Chơn Sư mới tránh được tai hại có thể xảy ra. Đừng học với thầy phàm mà có ngày phải bỏ mạng.

          Nhưng nên biết, có nhiều người Xuất Vía được, qua cõi Trung giới làm việc, sáng ra không muốn trở về nhập xác chút nào, bởi vì Cái Vía rất nhẹ nhàng, không bị câu thúc ràng buộc. Còn xác thân nặng trịu như núi Thái Sơn mang đủ các phiền não, bịnh tật, bợn nhơ và bị hạn chế đủ thứ.

          Hơn nữa, từ cõi Trung Giới về cõi Phàm Trần không khác nào đương ở ngoài trời sáng rỡ chun vô hang sâu thăm thẳm tối tăm mù mịt.

          Nếu không bị những bổn phận ràng buộc tại cõi Trần và phải thật hành đầy đủ thì không có nhà Huyền Bí Học nào lại muốn sống tại thế gian nầy đâu. Không vị nào quyến luyến nó. Nếu ngày nào người học Đạo chưa tự chủ được thì ngày đó tưởng chớ nên ham học cách Xuất Vía một mình vì ngoài sự thất vọng còn nhiều điều nguy hiểm khác nữa.

*

*    *

chương thứ ba

3. tâm thức hạ trí

(Conscience mental inférieur)

          Cái Trí hay là Hạ Trí của con người mới vừa mở mang, qua cuộc Tuần Hườn sau, cuộc Tuần Hườn thứ Năm nó mới phát triển đầy đủ.

Chúng ta dùng Cái Trí để học hỏi, phân biệt, xét đoán, tưởng tượng, ghi nhớ, song chưa biết cách điều khiển nó. Trước nhứt phải Định Trí và làm chủ nó, bắt buộc nó phải tuân theo mạng lịnh của mình. Nhiên hậu mới học phương pháp biến nó thành một thể độc lập. Như vậy mới có thể dùng nó để lên cõi Thiên Đường học hỏi và kinh nghiệm. Tới chừng đó Tâm Thức Hạ Trí mới thật mở mang và con người hoàn toàn thức tỉnh tại cõi Hạ Thiên. Con người đă phá vỡ bức rào ngăn cách Cái Vía và Cái Trí và hoạch đắc được một trí nhớ  liên tục trọn kiếp sống ở cõi Thiên Đường.

          Những vị Cao Đồ của Chơn Sư khi ngủ thì để xác thân và Cái Vía trên giường rồi lên Thượng Giới làm việc. Khi muốn hoạt động ở cơi Trung Giới thì lấy chất Thanh Khí làm ra Cái Vía giả gọi là Mayavi Roupa. Xong công việc rồi thì để cho nó tan rã. Đánh đập thể nầy thì không khác nào đánh đập gió, không có ảnh hưởng tới xác thân tại cõi Trần.

 

4. tâm thức thượng trí (Conscience  mental supérieur)

          Về điểm nầy, trước hết phải nói vài lời về Thượng Trí và Chơn Nhơn.

thượng trí

          Thượng Trí là một trong ba Thể tương đối trường tồn bất diệt, nó theo con người từ đời nầy qua đời kia. Nó làm bằng ba chất khí cao hơn hết của cõi Trí Tuệ hay là cõi Thượng Giới, ấy là chất thứ Nhứt, chất thứ Nhì và chất thứ Ba ở tại cõi Thượng Thiên (Plan mental supérieur) tiếng Phạn gọi là Karana Sharira.

          Karana có nghĩa: Nguyên do

          Thượng Trí có hai nhiệm vụ:

          1). Nhiệm vụ thứ nhứt là: Làm dụng cụ cho Chơn Nhơn. Thượng Trí là thể xác của Manas thức là Ngôi thứ Ba trong Ba Ngôi (Atma Bouddhi Manas).

          2). Nhiệm vụ thứ nhì: Nó chứa đựng tinh hoa của những sự học hỏi và kinh nghiệm của con người từ kiếp nầy qua kiếp kia. Đó là những nguyên nhân ngày sau sanh ra những hậu quả. Vì vậy người ta gọi nó là Nhân Thể (Corps Causal). Nhân Thể cũng có những Luân xa như Cái Phách và Cái Vía (song điều này không có tiết lộ ra cho nên người đời không ai biết nó ra sao cả).

nhân thể chỉ chứa đựng những điều tốt lành

          Không có một tư tưởng xấu nào mà con người có thể qui định cho Chơn Nhơn. Ta nên biết tình thương không ích kỷ và sự sùng tín hoạt động trong cảnh thứ Nhứt của cõi Trung Giới. Chúng nó phản chiếu trong chất khí tương đối của cõi Thượng Giới (cõi Trí Tuệ) và tiếp xúc với cõi Thượng Thiên chớ không phải cõi Hạ Thiên. Vì thế chỉ có những tư tưởng vị tha, không ích kỷ, mới có ảnh hưởng đến Chơn Nhơn. Những tư tưởng xấu xa thấp hèn thì chỉ cảm đến những Nguyên tử trường tồn mà thôi.

          Cái điều mà người ta gặp trong Thượng Trí đối chiếu với những tính xấu là những lỗ trống, chớ không phải những màu sắc đen tối như trong Cái Vía và Cái Trí (Hạ Trí), mặc dầu Nhân Thể vẫn có màu sắc tốt đẹp.

          Tỷ như: Tánh ích kỷ dưới Phàm Trần hiện ra trong Thượng Trí là sự khiếm khuyết tình thương và thiện cảm. Khi con người mở mang tình yêu thương và thiện cảm rồi thì lỗ trống trong Thượng Trí sẽ lấp đầy.

          Thế nên muốn biết chắc chắn sự tiến hóa của con người tới bực nào thì phải mở Huệ Nhãn xem coi Thượng Trí của y. Nếu xét  đoán theo bề ngoài thì sẽ lầm ngay ([10]).

đem tâm thức lên tới chơn nhơn

          Khi tiến hóa cao rồi, con người đem Tâm Thức mình lên tới Chơn Nhơn tại cõi Thượng Thiên, sau khi được Ba lần Điểm Đao. Như thế con người nhớ mãi trong lòng những kiếp quá khứ của y và hoạch đắc được quyền năng điều khiển có ý thức những thời kỳ phát triển của y

chơn nhơn ([11])

          Xin nhắc lại: Khi con thú tiến hóa tột bực cao rồi và đúng kỳ đi đầu thai làm người thì Chơn Thần biến đổi Hồn Thú ra Thượng Trí và sanh ra Chơn Nhơn. Nói cho dễ hiểu, Chơn Nhơn là một phần tử của Chơn Thần còn Phàm Nhơn là một phần tử nhỏ nhít của Chơn Nhơn.

          Chơn Nhơn ở tại cõi Thượng Thiên. Có những Chơn Nhơn sanh trước, có những Chơn Nhơn sanh sau, vì vậy có thể nói rằng: Có những Chơn Nhơn già, có nhiều kinh nghiệm và có những vị Chơn Nhơn trẻ chưa hiểu biết nhiều. Những vị Chơn Nhơn già, thức tỉnh đã lâu nên ý thức được những cái chi xảy ra ở chung quanh họ và lẽ tự nhiên họ biết được những vị Chơn Nhơn khác. Họ hoạt động tại cảnh giới nầy và có những việc lo lắng riêng.

          Nhưng Chơn Nhơn chỉ để một phần nhỏ nhít của mình làm ra Phàm Nhơn trong trong ba lớp vỏ là: Thân, Vía, Trí. Chúng ta cũng nên nhớ: Phàm Nhơn có những quyền lợi thường bất ḥa với sự hoạt động của Chơn Nhơn. Luôn luôn Chơn Nhơn hướng về việc loại trừ điều ác, còn Phàm Nhơn lại thường hướng về việc loại trừ điều thiện. Vì lẽ ấy Chơn Nhơn không đặc biệt chú ý đến Phàm Nhơn, ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt.

sự liên lạc giữa Chơn Nhơn và phàm nhơn

          Có đường thông thương giữa Chơn Nhơn và Phàm Nhơn gọi là Antakarana. Nhưng thường thường đường liên lạc nầy rất mỏng manh và bị nghẹt lối vì những tư tưởng, ý muốn quấy quá và thấp hèn của con người.

Phải nhờ tham thiền đặng mở lại con đường thông thương nầy và làm cho nó càng ngày càng thêm rộng lớn. Như vậy Chơn Nhơn sẽ ảnh hưởng đến Phàm Nhơn rất dễ dàng. Chơn Nhơn dùng quyền năng rộng lớn của mình đặng truyền từ điện cho Phàm Nhơn và làm cho những sự rung động của Ngài ḥa hợp với những sự rung động của Phàm Nhơn và như thế Ngài giúp cho Phàm Nhơn phát triển mau lẹ. Quyền năng nầy chiếu vào Phàm Nhơn cũng như mặt trời chiếu vào cái bông làm cho cái bông mau nở vậy.

          Nói một cách tổng quát, thường thường Chơn Nhơn ít khi kiểm soát và săn sóc Phàm Nhơn được, vì chỉ có một phần nhỏ Tâm Thức của Chơn Nhơn nhập vô Phàm Nhơn và Phàm Nhơn hay ương ngạnh vì có những ý kiến riêng và cách hành động riêng. Điều này rất dễ hiểu là bởi Phàm Nhơn vẫn nghe theo và phục vụ ba Thể: Thân, Vía, Trí của nó.

 

tại sao chơn nhơn đi đầu thai

          Ta biết rằng ngày sau, không biết bao nhiêu tỷ năm nữa, con người sẽ tiến tới bực Thái Dương Thượng Đế và sẽ sanh hóa một Tiểu Vũ Trụ khác giống như Thái Dương Hệ nầy. Cũng có những Dãy Hành Tinh chứa đựng muôn loài vạn vật, cũng có Mặt Trời, Mặt Trăng vậy.

          Nhưng mà Chơn Nhơn chỉ ở tại cõi Thượng Thiên, Ngài chỉ đáp ứng với những sự rung đông xảy ra tại cõi nầy mà thôi. Còn ở ba cõi dưới: Hạ Thiên, Trung Giới và Hạ Giới, Ngài không biết chi cả. Thế nên Ngài mới sanh ra Phàm Nhơn để học hỏi và kinh nghiệm ở ba cõi dưới thay thế Ngài. Trong mỗi kiếp, tinh hoa của sự học hỏi của Phàm Nhơn đều truyền lại cho Ngài. Nếu không biết cách cấu tạo ba cõi nầy thì làm sao sanh hóa chúng nó được. Đây là câu trả lời: Tại sao Chơn Nhơn đi đầu thai?

          Phật Giáo gọi điều này là Trishna hay là Tanha: Tức là sự ham sống (Soif de vivre).

          Nhưng con người c̣n phải qua sáu Bầu Hành Tinh còn lại của Dãy Địa Cầu nầy đặng học hỏi và kinh nghiệm. Con người phải đi từ Bầu  Hành Tinh nầy qua Bầu Hành Tinh kia, bảy bận như vậy mới trở nên trọn sáng trọn lành làm một vị Siêu Phàm gọi là Chơn Tiên. Từ đó về sau con người thoát khỏi đọa Luân Hồi dưới Trần Thế và lần lần  tiến lên nhiều bực cao hơn nữa như: Đế Quân, Bồ Tát, Phật, Ngọc Đế vân vân . . . . Những nấc thang tiến hóa cao tột Trời, chẳng biết đâu là giới hạn, là mức cuối cùng.

*

*    *

chương thứ tư

5. tâm thức bồ đề

          Tâm Thức Bồ Đề ra sao? Tôi xin tóm tắt ra đây những lời của Đức Leadbeater nói về Tâm Thức Bồ Đề trích trong Quyển I, Huyền Bí Học trong Thiên Nhiên (L'Occultisme dans la Nature, Tom II).

          . . . . Người ích kỷ không thể nào hoạt động trên cõi Bồ Đề được vì tinh hoa của cõi này là sự thiện cảm, sự hiểu biết trọn vẹn, nó loại ra ngoài tính ích kỷ, ghen ghét.

          Con người không thể tạo ra Thể Bồ Đề nếu chưa làm chủ được mấy cõi thấp. Có sự liên quan mật thiết giữa cõi Trung Giới và cõi Bồ Đề, nhưng đừng kết luận rằng con người có thể đem Tâm Thức từ cõi Trung Giới lên cõi Bồ Đề mà không mở mang những Thể làm trung gian là Hạ Trí và Thượng Trí.

          Quả thật trên những cảnh cao siêu của cõi Bồ Đề - con người chỉ là một đối với tất cả nhơn loại, nhưng đối với mấy kẻ khác vẫn in như nhau. Không có điều đó đâu. Đức Phật rất thương Ananda, còn Đấng Christ yêu mến Jean hơn các đệ tử khác. Vì lẽ nào? Chúng ta không hiểu được. Có phải là vì Nhân quả chăng? Nhưng sự thật là chúng ta phải thương tất cả mọi người cũng như họ là những người thân yêu nhứt của chúng ta.

          Tâm Thức Bồ Đề bao hàm một số lớn Tâm Thức, người ta có thể vô Tâm Thức của kẻ khác và tưởng in như họ bằng cách xem họ từ bên trong chớ không phải từ bên ngoài. Trong trường hợp nầy người ta không tìm thế tránh xa; không đoái hoài đến kẻ hung dữ ([12]) vì người ta nhận biết nó là một thành phần của mình, nhưng là thành phần yếu đuối hơn. Người ta tìm thế giúp đỡ nó bằng cách ban rải sức mạnh cho phần yếu đuối nầy.

          Chúng ta phải có thái độ nầy, chúng ta phải làm việc theo chiều hướng nầy chớ không phải chỉ nói đến việc đó hay là tưởng đến nó một cách mơ hồ, nhưng đây không phải là một chuyện dễ đạt đâu.

          Trong quyển Giảng lư Ánh Sáng trên Đường Đạo, Qui tắc 5-8 và Qui tắc 21 có giải về Tâm Thức Bồ Đề. Tôi xin chép hai đoạn đó ra sau đây:

I

qui tắc  5 - 8

          C.W. Leadbeater. . . . . . . . . . . . . . . . . . .

          Nếu trong không gian, thể xác của chúng ta bị chia rẽ thì nói cho đúng sự chia rẽ nầy không có đến đỗi như người ta tưởng. Chúng ta chịu ảnh hưởng lẫn nhau, người nầy đối với người kia, cho đến đỗi không có một ai có thể thật sự sống cô độc một mình được. Một Thể xác thọ bịnh, những Thể khác ở gần nó dễ bị truyền nhiễm. Thể Vía thọ bịnh ư, theo ý nghĩa của bịnh đây là hay nóng giận, tham lam, đố kỵ, ích kỷ vân vân . . . nó thành ra một trung tâm truyền nhiễm, bởi vì sự rung động của nó truyền ra xa và những Thể Vía ở kế cận, trong một mức độ nào đó, phải thọ nhiễm những làn rung động nầy. Thí dụ: Khi những người hội họp trong một căn phòng thì Thể Vía của họ thâm nhập với nhau một cách khá rõ ràng, bởi vì Thể Vía của một người thường ló ra ngoài thể xác lối chừng bốn mươi lăm phân, đôi khi nhiều hơn nữa, cho đến đỗi không cần đụng chạm nhau, những người nầy cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ lẫn nhau. Điều nầy cũng còn đúng với Hạ Trí và Thượng Trí hay là Nhân Thể ([13]) của chúng ta, tự chúng nó cũng chia rẽ trong không gian cũng như do tình trạng của chúng nó. Như thế, khi giải thích qui tắc nầy là diệt ý niệm chia rẽ, chúng ta đừng quên những sự kiện tự nhiên nầy.

          Không có sự chia rẽ trên cõi Bồ Đề, nơi đây ở cảnh thấp hơn hết, những Tâm Thức không cần phải ḥa hợp với nhau, nhưng lại mở rộng ra từng bực. Khi tiến tới cảnh cao nhứt của cõi Bồ Đề và sau khi chúng ta tự mở mang trọn vẹn trong tất cả bảy cảnh của cõi nầy thì chúng ta mới nhận thấy mình vẫn là Một với nhơn loại. Ấy vậy chỉ kể từ trình độ nầy mà sự chia rẽ mới hoàn toàn không có thật, còn sự hợp nhứt có ý thức với tất cả vạn vật là thuộc về cõi trên kế đó tức là cõi Niết Bàn.

          Huynh hãy tưởng tượng rằng tất cả chúng ta đều có thể tự mình khai triển đồng một lượt Tâm Thức Bồ Đề (Bồ Đề Tâm). Mỗi người sẽ nhận thấy rằng mình tiến lên cao đến cõi đó và Tâm Thức của y chứa đựng tất cả Tâm Thức của những kẻ khác; nhưng y luôn luôn biết rằng Tâm Thức của kẻ khác cũng là Tâm Thức của y nữa. Mỗi người trong chúng ta không mất cái ý niệm về cá tánh của mình, trái lại, cá tánh nầy sẽ bành trướng như chưa bao giờ có điều đó. Hình như mỗi người cũng biểu lộ ra ở những kẻ khác. Kỳ thật, cái Tâm Thức mà chúng ta hiểu biết được là Tâm Thức duy nhứt mà tất cả chúng ta là thành phần trong đó. Nó chính là cái Tâm Thức của Đức Thượng Đế vậy.

          Chính ở trên cõi Niết Bàn, chúng ta mới lãnh hội Chơn Lý nầy một cách sâu xa hơn hết. Tất cả những điều gì chúng ta tưởng là Tâm Thức của chúng ta, Trí Tuệ của chúng ta, tình thương của chúng ta, sùng tín của chúng ta thì thật đó là Tâm Thức của Ngài, Trí Tuệ của Ngài, tình thương của Ngài, sùng tín của Ngài, do chúng ta biểu hiện chút ít ở bên ngoài như một luồng ánh sáng đi ngang qua một thấu kính. Đối với con người, sự hiểu biết nầy không được toàn diện ở trên cõi Bồ Đề, nhưng nó trở nên toàn diện ở trên cõi cao kế đó là cõi Niết Bàn.

          Trong Kinh Stances de Djyan ([14]) có một đoạn nói về con người như vầy: "Đốm lửa nối liền với ngọn lửa nhờ sợi chỉ làm bằng Fohat mảnh mai, tinh vi nhứt". Điều nầy, tôi tưởng có thể áp dụng cho nhiều trình độ khác nhau. Còn riêng về chúng ta thì chúng ta có thể giải thích như vầy: "Chơn Nhơn dính liền với Chơn Thần nhờ một sợi chỉ mảnh mai nhứt và sợi chỉ nầy đi ngang qua suốt cõi Bồ Đề. Chúng ta có thể tưởng tượng sợi chỉ nầy hết sức tế nhuyễn; đó là tất cả những gì tiêu biểu cho người thường trên các cảnh của cõi Bồ Đề nầy. Khi con người chú ý đến những lãnh vực cao vút đó, khi mà y hằng tâm niệm đến đó và lấy đó làm mục đích của đời mình thì sợi chỉ ấy bắt đầu nở to ra càng ngày càng giống như sợi dây cáp và về sau, như cái quặng, bởi vì  nó lớn phần trên (một người có Huệ Nhãn trình bày như thế), kế đó nó xuống Thượng Trí (Nhân Thể), lúc bấy giờ thì Nhân Thể nhờ những thần lực tuôn xuống như thác nước mà nở lớn ra và cái quặng trở nên to lớn hơn nhiều, nở vừa phần dưới, vừa phần trên. Trong cuộc Điểm Đạo lần thứ Nhứt (đã có nhiều người trải qua cuộc kinh nghiệm nầy sớm hơn) con người bỏ Thượng Trí (Nhân Thể) và nhập vô cõi Bồ Đề. Trong khi đó, như tôi đã giải thích, Nhân Thể hoàn toàn tan rã. Thể nầy là yếu tố duy nhứt trường tồn mà con người biết được, trong vô lượng số kiếp luân hồi dài đăng đẳng sau khi thoát khỏi kiếp thú. Đồng thời, cái quặng lại hóa thành hình cầu. Diễn tả cho đúng thật rất khó cho tôi, vì lẽ ở cõi nầy có nhiều bề hơn ở Thế gian mà những sự vật hiện ra trước mắt người có Huệ Nhãn như thế đó.

          Sau khi đã được Điểm Đạo lần thứ Nhứt, người Đệ Tử trước khi có thể được Điểm Đạo lần thứ Nhì thì phải hoàn toàn thoát khỏi cái ý niệm chia rẽ, ngoài những nhược điểm khác. Ý niệm này là chướng ngại đầu tiên trong mười chướng ngại (Samyojana) mà y cần phải loại trừ đặng tiến bước trên con Đường Đạo và sự loại trừ  cuối cùng và nhứt định nầy y có thể thực hiện được nhờ đã có kinh nghiệm trong cuộc Điểm Đạo lần thứ Nhứt: Y nhập vào Tâm Thức Bồ Đề trong chốc lát. Cố nhiên, không phải do đó mà y có thể tìm lại trạng thái Tâm Thức nầy chừng nào cũng được. Ít ra y cũng có cảm giác Bồ Đề Tâm: Lúc ấy y cảm thấy được sự hợp nhứt, y biết rằng sự hợp nhứt có thật, mặc dầu y không đủ khả năng tự mình lên cõi đó một lần nữa, nếu không có sự giúp đỡ của Đức Sư Phụ. Như thế, cái ý niệm chia rẽ, đối với y, đã trở thành một ảo tưởng. Ở thế gian, thật ra chúng ta dường như không thể nào nhận thức được điều nầy trong thể xác. Chúng ta không ngớt bàn luận về nó, chúng ta cố gắng tin rằng chúng ta cảm thấy sự hợp nhứt đó, nhưng tôi tưởng kỳ thật điều đó chưa có thể được ngày nào mà con người còn mang lấy cái hình hài xác thịt nầy và chưa có thực hiện sự kinh nghiệm cao cả đó. Chúng ta tin chắc bằng trí khôn thôi, nhưng cảm thấy thật sự hợp nhứt là cả một vấn đề khác nữa.

          Khi bắt đầu hoạt động trên cõi Bồ Đề, con người bước vào đó từ cảnh thấp nhứt (cảnh thứ Bảy), nhưng thoạt tiên, y không nhận thức được điều gì cả, vì là cảnh thấp. Y cảm thấy một luồng phúc lạc mãnh liệt không thể tả nổi và đồng thời, Tâm Thức y bành trướng, nó nối tiếp theo tất cả những điều y đã cảm được từ lúc trước, có lẽ Tâm Thức nầy làm cho y tưởng rằng nó lan rộng khắp thế gian. Vả chăng, đây là một điều sai lầm hoàn toàn. Khi mà y quen thuộc với cảnh giới cao siêu nầy rồi thì y phân tách được, y nhận thấy sự bành trướng Tâm Thức của y, tuy được rộng lớn, nhưng nó cũng vẫn chưa trọn vẹn, chưa đại đồng. Y mở rộng phạm vi hoạt động của y từng chút, từng bực, giống như một đạo quân trú đóng trong một phần đất mới chiếm được: Trước hết họ đặt chân lên đó, sau lại và dần dần, khu vực hàng phục lan rộng trọn khắp xứ. Xong rồi, con người chú tâm luyện tập đặng lên cảnh trên kế cận một cách có ý thức; nhưng y có thể lên từ cảnh nầy đến cảnh khác, cho đến cảnh thứ Nhứt cao hơn hết mà không cần cấu tạo Thể Bồ Đề. Con người nhờ tham thiền hay cố gắng tiến tới Tâm Thức Bồ Đề thì luôn luôn có thể đạt được nó. Đối với người đã cấu tạo xong cho mình Thể Bồ Đề (Kim Thân) thì Tâm Thức nầy làm căn bản cho Tâm Thức Hồng Trần thấp thỏi của xác thân, của Cái Vía và của Hạ Trí. Đó là một sự tiến bộ khác nhau và đặc biệt mà cũng khó khăn nữa, bởi vì nó bắt buộc phải loại bỏ Nhân Thể ([15]), phá tan bức tường chia rẽ nầy.

          Người mà Tâm Thức hoạt động trên cõi Bồ Đề, trong lúc tham thiền thấy rằng, nếu y chia sớt được tất cả Tâm Thức kỳ diệu của cõi nầy thì cũng vẫn còn một vòng tròn nhỏ trống không chia đôi Tâm Thức nầy với khoảng ở bên kia Vũ Trụ, lẽ cố nhiên, tấm vách ngăn mỏng manh này là Nhân Thể, chính nó phải tan rã hầu để cho Thể Bồ Đề phát triển. Rồi thì, người ta mới cảm thấy được Đời Sống tự do thực sự là thế nào và ở Thế gian chẳng có cách nào diễn tả được. Bà Blavatsky trình bày như vầy: "Một vòng tròn mà trung tâm ở khắp nơi, còn chu vi cái vành thì lại không có". Định nghĩa này rất đẹp đẽ và rất có ý nghĩa. Quả thật, đó là điều vô lý trái ngược nhau nhưng không thể bàn gì về những tình trạng siêu việt nầy của tôi nói lại mà không tương phản với nhau.

          Khi ta đạt được cái ý niệm hợp nhứt chắc chắn rồi, con người có cảm tưởng rằng ở trình độ nầy, Thể Kim Thân của nó choán hết toàn diện cõi Bồ Đề, và tuồng như nó có thể tự mình chuyển di tiêu điểm Tâm Thức của nó trên khắp cõi nầy bất câu ở chỗ nào và cũng không vì lẽ đó mà rời bỏ trung tâm của vòng tròn, mặc dầu tất cả những lời nói đây có thể bị người ta cho là vô lý. Sự kinh nghiệm đó không thể nào diễn tả được. Mối cảm xúc nầy đến cực độ và kèm theo luôn luôn cái ý thức phúc lạc vô biên, cái phúc lạc mà ở những cõi thấp không thể cho ta chút quan niệm nào cả, cái phúc lạc mãnh liệt, linh động và nồng nhiệt mà trí con người tưởng tượng không nổi. Ở Thế gian, trong những cơ hội rất hiếm hoi mà chúng ta nhận thấy, không có cái gì xứng đáng với danh từ phúc lạc ấy, cái phúc lạc vốn không cảm thấy sự đau khổ nào cả. Tại Trần thế chúng ta hưởng được hạnh phúc hay phúc lạc là khi nào, trong chốc lát, chúng ta không mệt mỏi và không đau khổ, khi nào chúng ta có thể nghỉ xả hơi, chúng ta thưởng thức được những ảnh hưởng tốt đẹp. Đó là một ý niệm có hơi tiêu cực. Trên cõi Bồ Đề, phúc  lạc là một cảm giác mãnh liệt phi thường và linh động; tôi không biết làm thế nào để bày tỏ nó ra.

          Hãy tưởng tượng sự hoạt động mãnh liệt nhứt mà huynh chưa hề cảm thấy, hãy thay thế sự hoạt động linh mẫn nầy, nhiệt liệt nầy bằng một ý niệm toàn phúc; kế đó hãy tinh thần hóa ý niệm toàn phúc nầy rồi đem nó lên tới một cõi thật cao và nhơn nó với một con số gọi là con số n lần (lũy thừa n), có lẽ như thế, huynh sẽ có được  một quan niệm về cái phúc lạc cõi Bồ Đề.

          Ấy là một sự thật linh động của một sức mạnh không có cái chi chống lại nổi. Nó không có gì là thụ động cả. Người ta không có nghỉ ngơi. Ở Thế gian, chúng ta bắt buộc phải có nhiều nỗ lực siêng cần mà sự nghỉ ngơi chiếm luôn luôn một địa vị rất lớn trong lý tưởng của chúng ta, dù lý tưởng đó thế nào cũng vậy; nhưng ở  trên cảnh cao đó, con người trở thành hóa thân của một năng lực phi thường, tự biểu thị bằng cách ban rải ra ngoài. Trong Tâm Thức của y, quan niệm về sự cần thiết nghỉ ngơi tuyệt nhiên không có. Điều mà ở Thế gian người ta gọi là sự nghỉ ngơi thì ở trên cõi Bồ Đề dường như là một sự không có thật. Chúng ta liên kết với sự biểu thị của khí lực thiêng liêng và khí lực nầy là một sự sống linh động. Người ta có thể nói đến sự an nghỉ ở cõi Niết Bàn, nhưng đứng về phương diện thấp thỏi mà thôi. Sức mạnh của khí lực mới thật là đặc tánh của đời sống cao siêu nầy, khí lực quá cao diệu cho đến đỗi không thể lấy một thứ vận động thông thường nào mà giải thích được, chính nó là một triều lưu vô biên không có chi chống lại nổi, ở dưới ḍm lên thì nó in như là sự yên lặng nhưng nó có nghĩa là Tâm Thức của Quyền Lực tuyệt đối. Không có danh từ nào để trình bày tất cả những điều nầy. Đi đến đó chúng ta mới thắng phục được cây cỏ dại to lớn. Kẻ thù nguy hiểm của chúng ta tức là cái ý niệm chia rẽ. Tóm lại, đó là phận sự khó khăn hơn hết đang chờ đợi chúng ta, bởi vì nó bao hàm tất cả cái gì còn lại.

          Khi Thể Bồ Đề phát triển trọn vẹn trên bảy cảnh rồi và chỉ lúc đó, con người mới làm chủ được toàn cõi Bồ Đề và có năng lực đồng hóa một cách mỹ mãn với toàn thể nhơn loại. Cái năng lực nầy giúp cho y biết được tư tưởng và tình ý của tất cả mọi người. Trước khi đạt được Tâm Thức Bồ Đề, chúng ta có thể gắng sức làm giảm bớt cái ý niệm chia rẽ và nói về mặt trí thức thì sự thành công to tát lắm, tuy nhiên, chúng ta còn đứng ở bên ngoài, đó có nghĩa là chúng ta chưa biết được đồng loại mình. Đối với chúng ta, họ cũng còn là một sự bí mật tuyệt đối, bởi vì đối với con người, thì con người là một sự bí mật to lớn nhứt. Chúng ta có thể giao thiệp mật thiết trong một thời gian khá lâu với nhiều người, nhưng mà chúng ta không am hiểu họ tường tận. Có thể, trước khi đi đến cõi Bồ Đề không ai biết rành rẽ một người nào cả, nhưng sau khi lên cõi Bồ Đề rồi, y có thể ḥa mình vào Tâm Thức của những kẻ khác và biết rõ những việc làm của họ và vì lý do nào họ hành động như thế nầy hay như thế kia. Tại đó, tất cả vạn vật đều ở trong Tâm y, chớ không ở bên ngoài và y quan sát vạn vật cũng như y quan sát những bộ phận của chính mình y vậy. Ở Thế gian thì không thể làm như vậy được, nhưng cảm giác được bấy nhiêu cũng là đủ lắm rồi. Tất cả niềm vui vẻ, tất cả nỗi đau khổ của nhơn loại cũng chính là niềm vui vẻ và nỗi đau khổ của y. Khi y muốn xuống cõi Thấp, y mượn một trong số những vòi, những tua nghĩa là Tâm Thức của những người khác bởi vì y với những kẻ khác chỉ là một mà thôi. Y có thể cảm giác được và thật ra, y cảm giác được hết thảy những điều gì làm cho người ấy xúc động. Y biết được tất cả những niềm đau khổ của Thế gian, nhưng y hiểu biết một cách chắc chắn và tuyệt đối rằng sự đau khổ là một thành phần cần thiết của cõi nầy và khi lên tới cõi cao thì nó không còn nữa.

          Không chia sớt sự đau khổ một cách ít thấm thía hơn, y biết rằng Phạm Thiên Brahman là Toàn Phúc và hợp nhứt với đời sống thiêng liêng là một tình trạng phúc lạc vô biên ở nội tâm. Phải tới trình độ phát triển nầy trước khi có thể giúp đỡ đầy đủ đồng loại mình.

          Khi con người đạt được Tâm Thức mới nầy, thì một thời gian trước đó, y đã lìa khỏi mấy cõi thấp, nơi đó y còn có nguy cơ mất sự an tĩnh và sự quân bình của y, chính y mới là yếu tố của niềm hoan lạc thiêng liêng. Khi trở về nhập vào ba Thể: Trí, Vía và Xác Thân thì y có thể bị những sự lo lắng nhỏ nhặt làm cho y xúc động.   Nhưng cũng không nên có điều đó nữa, tuy nhiên có một khoảng lớn chia đôi đời sống cao siêu với đời sống ở Thế gian và khi chúng ta còn ở trong xác phàm thì những chuyện không ra gì cũng còn có thể làm cho chúng ta nổi cơn thạnh nộ. Có thể mất bình tĩnh trong nhất thời, vì một lý do thuộc về cõi Trần; ở một cảnh giới thật cao cũng vẫn còn điều đó, nhưng chỉ hoàn toàn phớt qua thôi. Dưới Thế gian, những sự vật làm cho người ta đau khổ thật sự vốn là những sự vật mà người ta tưởng rằng là không phương cứu chữa. Không thể nào bị thất vọng sau khi đã đạt được Tâm Thức siêu việt nầy, thực tại luôn luôn là hạnh phúc, nhứt định chắc chắn như vậy. Chúng ta biết rằng, ở những cõi thấp, tất cả những sự đau khổ đều là tạm thời và chúng ta không còn chịu đau khổ nữa, nếu chúng ta tiến rất gần đến sự toàn thiện.

          Chúng ta có cái năng lực đồng hóa, chẳng những Tâm Thức của kẻ khác mà còn cho đến tất cả cái chi ở trên cõi Bồ Đề. Chúng ta học hỏi tất cả theo đường nội tâm chớ không theo ngoại cảnh ([16]). Chúng ta muốn khảo cứu một vấn đề nào, một cơ thể nào  hay hoạt động của một Luật thiên nhiên nào hoặc các vấn đề khác cho đến tất cả Tâm Thức của Nhân Thể nữa, chúng ta bắt buộc phải xem xét từ bên ngoài và coi nó như ở ngoài chúng ta. Ở trong Nhân Thể, chúng ta có thể quan sát việc nầy với một Tâm Thức vô cùng mở mang, với cái năng lực thu hoạch được những điều hiểu biết hết sức sâu rộng hơn là những cõi thấp. Nhưng khi tiến đến cõi Bồ Đề, sự sai biệt thật là trọng yếu. Đối tượng của sự quan sát của chúng ta lại trở thành phần tử của chính mình chúng ta. Khó mà phô diễn bằng lời nói, bởi vì ở Thế gian, chúng ta không có cái gì hoàn toàn giống như thế; nhưng khi khảo sát sự vật bằng cách lấy phương diện nội tâm thay thế cho những phương diện ngoại cảnh thì có được một sự ích lợi to tát cho chúng ta.

          Những đặc điểm đó mới mẻ cho đến đỗi như là chúng ta có thể nói rất đúng: "Đây là sự thấy đầu tiên của chúng ta về cách thức mà Đức Thượng Đế quan sát Vũ Trụ của Ngài". Bởi vì kinh nghiệm nầy chính thật là kinh nghiệm của Ngài, điều mà Ngài quan sát phải là một phần tử của chính Ngài, bởi vì không cái gì có ra đây mà không phải là Ngài. Tâm Thức của Ngài vốn là Tâm Thức Bồ Đề nầy nhơn cho một  số gọi là số n (lũy thừa n) và thêm vào đó một sự thông tuệ, một sự vinh quang và một sự huy hoàng mà không cái gì, bất cứ ở cơi nào, có thể gợi cho chúng ta một ý niệm nào cả. Người ta mới hiểu rõ rằng tại sao ta gọi cõi này là cõi Chơn và tất cả những cái thấp là cõi Giả, bởi vì sự sai biệt thật to tát, sự thay đổi thái độ của chúng ta thật hoàn toàn cho đến đỗi tất cả cách thức khác để quan sát sự vật dường như là hư ảo, không thực tế mà lại còn kỳ cục nữa, khi mà chúng ta tập quan sát sự vật theo con đường nội tâm.

          Đạt được sự thấy cao siêu nầy cũng không phải là khó như như nhiều sanh viên đã lầm tưởng. Có một số người đã thành công trong kiếp hiện tại, ở nơi đây và ngay bây giờ đây, chắc chắn những người bằng lòng tuân theo kỷ luật và thật hành lòng vị tha vong kỷ một cách tuyệt đối thì tập được; bởi vì ngày nào một yếu tố cá nhơn chia rẽ còn tồn tại trong quan điểm của người Đệ Tử thì ngày đó y không thể nào tiến bộ được trong Tâm Thức Bồ Đề vì sự mở mang Tâm Thức nầy tùy thuộc sự loại trừ Bản Ngã.

II

qui  tắc  21

          "Sau khi thật hành xong 21 qui tắc thì trong lúc sanh viên được Điểm Đạo, Tâm Thức Bồ Đề hay là sự hiểu biết Sự Đồng Nhứt hiện ra cho anh thấy một sự kiện Thiêng Liêng vĩ đại ([17]). Sau sự kinh nghiệm nầy, thí sanh khác hẳn thường nhơn chỉ biết cầu xin với Trí năng mà thôi. Người ta thường nói: Đơn nhứt là đặc điểm của cõi Bồ Đề. Điều nầy, có lẽ cần phải có vài lời giải thích phụ thêm. Ở trong Nhân Thể (Thượng Trí), một người có thâu thập sự hiểu biết khá đầy đủ về một vật nào đó; anh thấy cái tinh hoa, cái cốt yếu của nó, bởi vì Chơn Nhơn tác động qua trung gian của Nhân Thể (Thượng Trí). Chơn Nhơn tưởng một cách trừu tượng, chớ không cần hạ xuống cho tới những thí dụ, bởi vì tư tưởng của Ngài soi thấu cặn kẻ vấn đề. Mấy điều nầy thật kỳ diệu nhưng mà còn hành động từ bên ngoài.

          Đặc điểm lớn lao của cõi Bồ Đề là hoạt động từ trung tâm phát ra ngoài (ly tâm lực). Nếu ta muốn bày tỏ thiện cảm với người nào đó và hiểu biết trọn vẹn hầu giúp đỡ họ cho có hiệu quả thì ta hoạt động trong Thượng Trí (Nhân Thể). Ta phóng một tia sáng như tia sáng của đèn khí đá vào Nhân Thể của y (đây là nói một cách bóng dáng) rồi ta học hỏi những đặc tánh, những cái riêng biệt. Chúng nó rất rõ ràng và rất dễ xem xét, nhưng luôn luôn chúng ta thấy từ bên ngoài. Nếu chúng ta có năng lực Bồ Đề và muốn đạt được sự hiểu biết nầy thì ta đem Tâm Thức ta lên cõi Bồ Đề và tại đó ta nhận thấy Tâm Thức của người mà ta muốn học hỏi là một thành phần của chúng ta. Tại đây, ta gặp Tâm Thức ta, một điểm, có thể nói là một kẽ hở hơn là một điểm, nó tiêu biểu cho Tâm Thức của y, đây là mức độ thấp mà ta đă chọn lựa. Ta thấy tất cả mọi vật đúng như y đã thấy. Ta thấy chúng nó bằng cách ta vào ở trong tâm y, thay vì ở ngoài mà nhìn vô.

          Người ta hiểu dễ dàng rằng phương pháp nầy giúp chúng ta hiểu biết và có thiện cảm một cách trọn vẹn.

          Khi tầm mắt ta mở rộng nhờ những sự hiểu biết mới mẻ nầy thì tất cả những vấn đề liên hệ đến chúng nó trở thành một thành phần của chúng ta. Chúng ta học hỏi chúng nó từ bên trong, chớ không phải từ bên ngoài, chúng ta có thể nhứt định điều khiển Tinh lực chúng ta theo chiều hướng nào. Đây là một sự lợi ích rất lớn lao  và rất mới mẻ. Chúng ta biết phải bàn đến những vấn đề dưới thế gian cách nào".

          Như vậy, chúng ta mới xử dụng được Bồ Đề Tâm, chớ không phải chỉ nghe nói mà thôi.

          Nói tóm lại, phải lên tới cõi Bồ  Đề mới thấy Tâm Thức mình chứa đựng trọn vẹn cõi Bồ Đề. Không phải giọt nước tan trong biển cả mà trái lại trọn cả biển cả chun ở trong giọt nước. Thật là kỳ lạ. Ở mấy cõi trên, có những việc gọi là bình thường, mà ở tại cõi Trần người ta thấy chúng nó trái ngược nhau rõ rệt. Khi chúng ta chưa lên tới mấy cõi đó thì chúng ta không quan niệm được điều ấy. Ngày sau hay là nhiều kiếp nữa chúng ta sẽ kinh nghiệm được điều này.

          Bây giờ hãy để nó qua một bên: nghe vậy hay vậy.

 

6. tâm thức niết bàn hay là tâm thức tiên thể

(Corps Atmique)

          Thật sự chúng ta chưa xử dụng được Tâm Thức của Cái Vía mà nói đến Tâm Thức Niết Bàn thật là không khiêm tốn chút nào. Tuy nhiên, chúng ta có thể thuật lại những điều mà các vị La Hán đã có kinh nghiệm tại cõi Niết Bàn nói cho các em nhỏ nghe.

          Các nhà học giả Đông Phương bên Âu Châu dịch chữ Nirvana là tiêu hủy, theo nghĩa một ngọn đèn cầy bị thổi tắt. Điều này trái hẳn với Chơn Lý. Nói cho đúng ấy là tiêu hủy tất cả những cái chi tiêu biểu cho con người, bởi vì không còn con người nữa mà chỉ còn Đức Thượng Đế trong con người, một vị Thượng Đế ở giữa những vị Thượng Đế lớn hơn Ngài.

          Hãy tưởng tượng một đại dương ánh sáng rực rỡ linh động, và chuyển động như thủy triều dâng lên không có chi ngăn cản được. Ánh sáng nầy tiến tới trên một cõi không có sự tương đối.

          . . . . Ánh sáng nầy có một mục đích nếu điều đó có thể hiểu được. Thật ra không có lời để diễn tả. Vào cõi Niết Bàn trước nhứt ta cảm thấy một sự an lạc tuyệt vời, một hạnh phúc vô biên. Trong ánh sáng nầy lại có những điểm sáng rỡ hơn nữa.

          Lần lần chúng ta biết được những Mặt Trời phụ thuộc này là những Đấng Cao Cả như những Đại Thiên Thần, những Đấng Nam Tạo Bắc Đẩu, những vị Phật, những vị Bồ Tát, các Chơn Sư và những vị khác mà chúng ta không biết tên. Ánh sáng và sự sống xuyên qua các vị ấy mà ban rải cho chúng ta.

          Đức Bà Blavatsky nói về trạng thái của Tâm Thức nầy như sau đây: "Chỗ nào cũng có một trung tâm mà không có cái vòng tròn làm ra chu vi ở ngoài".

          Người ta cho câu nầy vốn của Pascal thốt ra hoặc của Hồng Y Giáo Chủ Cardinal de Cusa hoặc trong quyển Zohar, nhưng thật sự nó ở trong sách của Hermès ([18]).

          Vào Niết Bàn không phải bị hoàn toàn tiêu diệt. Con người không mất cá tánh của mình mà c̣n hưởng được một sự phúc lạc vô biên, một sự sống cao thượng và mới mẻ và tin chắc rằng: Có sự trường tồn bất diệt. Ở vào mức độ này, Chơn Thần vẫn còn bao phủ mình bằng một bức màn khó mà diễn tả được.

          Tâm Thức Niết Bàn của Chơn Sư là một điểm, nhưng nó chứa đựng trọn cõi Niết Bàn. Ngài có thể đem nó xuống mấy cõi dưới rồi trải rộng nó ra. Ngài ở trong hình cầu nầy, còn những người Ngài muốn giúp đỡ ở chung quanh hình cầu. Như vậy Ngài ban thần lực cho họ dễ dàng. Thiết tưởng cũng nên biết rằng: Lần đầu tiên vị La Hán phải nhờ Chơn Sư bao bọc trong hào quang của Ngài rồi đem lên tận cõi Niết Bàn và nhờ Ngài vị La Hán mới thấy được vài sự vinh quang của cõi nầy trước khi có đủ quyền năng tự vào đó một mình.

          Quí bạn nên đọc quyển Nirvana của Đức Arundale trong đó Ngài ghi lại những kinh nghiệm của Ngài, nhứt là Chương XI: "Những sự nguy hiểm của Niết Bàn". Trong Chương nầy Ngài thuật lại vì sơ ý nổi nóng có một chút mà các Thể của Ngài bị xáo trộn và Ngài bị loại ra khỏi cõi Niết Bàn. Tôi nhấn mạnh về điểm nầy để cho quí vị  thấy tánh tình quan trọng là dường nào và ghi nhớ mãi trong lòng mười chướng  ngại Samyojana.

*

*    *

h ế t

 

([1]) Xin xem Phần Ba Về sự thực hành.

([2]) Ngôi thứ Ba (3è Logos) biến đổi Hỗn Nguơn Nhứt Khí (Mulaprakriti) ra những nguyên tử đặng thành lập Bảy Cõi Trời. Ngôi thứ Nhì phối hợp các nguyên tử làm ra những hình dạng và cho sự sống của Ngài vô những hình dạng nầy.

([3]) Xin xem hình nguyên tử căn bản Hồng Trần trong tập "Thái Dương Hệ của chúng ta".

([4]) Tượng trưng của Tử Thần là Bộ cốt vác cái phãng.

([5]) Sự Tiến Hóa Huyền Bí của Nhân Loại (Evolution Occulte de l’ Humanité).

([6]) Chữ U của Phạn ngữ đọc OU theo tiếng Pháp.

([7]) Xin xem hai tập:

          1. Vũ Trụ và Thượng Đế.

          2. Thái Dương Hệ của chúng ta.

([8]) Cái Vía xuất ra ngoài rồi, chất Thanh Khí ở ngoài lại bao phủ xác thân làm một Cái Vía giả. Tới chừng con người về nhập xác, Cái Vía giả tan rã.

([9]) Nguyên tử căn bản Hồng Trần là nguyên tử làm ra cảnh thứ Nhứt của cõi Trần.

([10]) Quí bạn nên đọc hai quyển: L’ homme visible et invisible của Đức Leadbeater và quyển Le Corps Causal của A. E. Powell.

([11]) Xin đọc quyển nhỏ: Chơn Nhơn và Phàm Nhơn của Đức Leadbeater.

([12]) Đây nói về trên cõi Bồ Đề. Còn ở tại cõi Trần, không nên cho trẻ con ở gần những người hung dữ, chúng nó sẽ nhiễm tính xấu nầy vì những tư tưởng và những tình cảm truyền nhiễm lẹ làng.

([13]) Nhân Thể (Corps Causal ou Corps mental supérieur). (Lời dịch giả)

([14]) Ấy là cuốn "Thiên Thơ". (Lời dịch giả)

([15]) Xin nhớ Nhân Thể là Thượng Trí. (Lời dịch giả)

([16]) Nghĩa là đi từ trong ra ngoài, chớ không phải đi từ ngoài vào trong. (Lời dịch giả)

([17]) Xin nói thêm: Sau khi được Điểm Đạo lần thứ Nhứt hay là lúc thuận tiện thí sanh nhờ Tôn Sư hay một vị Đại Sư Huynh đem lên cõi Bồ Đề tập luyện một vài cách. Không có sự giúp đỡ nầy, không khi nào vị Tu Đà Huờn lên tới cõi Bồ Đề được. Anh mới hoạt động ở cõi Trung Giới và cũng có thể ở cõi Hạ Thiên.

          Không có sự luyện tập nầy sanh viên không thể diệt được ba chướng ngại đầu tiên của mười chướng ngại, Phật Giáo gọi là Samyojana.

([18]) Hermès là tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca lúc Ngài còn ở ngôi vị Bồ Tát. Đức Bồ Tát giáng phàm dạy Đạo tại Ai Cập lấy tên là Hermès Trismégiste.

 

HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  QUEST  MAGAZINES