Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

VÉN MÀN BÍ MẬT NỮ THẦN ISIS

(ISIS UNVEILED)

Chìa khóa cốt lõi của những bí nhiệm xưa và nay

KHOA HỌC VÀ THẦN HỌC

Tác giả H. P. Blavatsky

Thư ký Thông tín Hội Thông Thiên Học

Bản Dịch : Chơn Như  2012

 đầu trang  sách được viết như thế nào mục lục lời nói đầu chương 1 chương 2 chương 3

VÉN MÀN BÍ MẬT NỮ THẦN ISIS

“Đây là một tác phẩm tràn đầy Niềm tin”    MONTAIGNE

Picture 485

QUYỂN I – KHOA HỌC

Tác giả xin kính dâng bộ sách này cho Hội Thông Thiên Hc, được sáng lập ở New York, năm 1875 sau Công nguyên, ĐỂ ̣I NGHIÊN CỨU NHỮNG ĐỀ TÀI MÀ BỘ SÁCH BÀN TỚI

Chú Thích của Nhà Xuất bản

Ấn bản này là ấn bản in lại trung thực bộ sách Vén Màn Bí Mật Nữ Thần Isis thoạt đầu được xuất bản ở New York vào năm 1877. Phần Chỉ Mục đã được mợ̉ng nhất nhiều, lại có thêm một Phụ lục bao gồm Chỉ Mục v tài liệu tham khảo với những công trình và tác giả được trích dẫn cùng với hai bài báo do H.P.B bàn v việc viết bộ sách Vén Màn Bí Mật Nữ Thần Isis: “Các thuyết về Luân hồi và các vong linh” (1886) và “Các tác phẩm của tôi” (1891).

VÉN MÀN N THN ISIS (*)[1]

ĐƯỢC VIT NHƯ TH NÀO

Nếu mt b sách có th được coi như đánh du mt giai  đon lch s, th́ đó hn là b sách này. Xét v mt phương đu tiên ca Darwin trên mt phương din khác. C hai đu là nhng gịng thy triu lên cao trong trào lưu tư tưởng cn đi: mi b sách này đu có tác dng to tr nhng điu d đoan sng sượng ca khoa thn hc và thay thế đc tin nơi phép l bng s tin tưởng nơi đnh lut thiên nhiên. Tuy vy, trường hp khi đu viết b sách này cũng rt đơn gin và b́nh thường ch không có ǵ đc bit.

       Mt ngày n vào mùa hè năm 1875, bà HPB đưa cho tôi xem vài t bn tho ca bà viết, và nói:

      “ Tôi viết cái này đêm hôm qua, do “ LNH DY “, nhưng đ dùng làm ǵ th́ tôi không biết. Có th dùng làm mt bài báo, có th đ làm sách, cũng có th đ không làm ǵ c. Tuy  nhiên, tôi viết v́ tuân lnh dy mà thôi.”

      Ri đó, bà ct bn tho đó vào mt hc t, và không nói ǵ đến nó na trong mt thi gian. Nhưng ít tháng sau đó, bà đi Syracuse (New York) thăm hai người bn mi là ông bà Corson, giáo sư trường Đi Hc Cornell, và tiếp tc công vic viết lách. Bà viết thư cho tôi biết đó s là quyn sách nói v lch s và triết hc ca các Đo Phái phương Đông, và nhng mi tương quan gia các Đo Phái y vi nhng môn phái ca thi đi by gi. Bà cho biết rng bà viết v nhng vn đ mà bà chưa bao gi hc, và chú thích nhng quyn sách mà bà chưa tng đc qua trong đi bà. Bà cho biết thêm rng, đ kim chng nhng điu bà viết, Giáo Sư Corson đă so sánh nhng đon chú thích ca bà vi nhng b sách c đin trong thư vin ca trường Đi Hc, th́ thy là đúng.

      Khi bà tr v New York, bà không chăm chú lm vào công vic này, mà ch viết mt cách ri rc, không liên tc. Nhưng đ mt hay hai tháng sau vic thành lp Hi Thông Thiên Hc, bà và tôi cùng thuê mt ngôi nhà hai tng đường 34th West, bà tng dưới, tôi tng lu trên, t đó tr đi công vic viết b Isis mi được thc hin liên tc không gián đon cho đến khi hoàn thành vào năm 1877.

       Trong sut cuc đi bà, bà chưa tng viết văn viết sách bao gi, tuy thế tôi không thy mt nhà văn hay nhà báo nào có th làm vic mt cách do dai bn b và hăng say như bà. Mi ngày, bà ngi vào bàn viết t sáng mai cho đến khuya, tôi vi bà không bao gi đi ng trước hai gi sáng. Lúc ban ngày, tôi phi làm vic ngh nghip riêng ca tôi, nhưng luôn luôn sau ba cơm chiu là chúng tôi ngi chung li mt bàn và làm vic chng khác nào như người ta làm gi ph tri đ t́m sng, cho dến khi thân xác mi mt bt buc chúng tôi phi ngh.

       Tht là mt kinh nghim quư báu cho tôi. Trong khong gn hai năm đó, tôi đă hc hi được rt nhiu điu mà đáng l người ta phi dành trn c mt đi người đ đc sách và suy gm mi có th đt được. Tôi không phi ch làm công vic ca mt người ghi chép hay sa bài, mà bà làm cho tôi tr thành mt cng tác viên. Bà làm cho tôi phi s dng tt c  nhng ǵ tôi đă đc và suy tư, và kích thích b óc ca tôi làm vic đ t́m gii đáp cho nhng vn đ mi mà bà đt ra cho tôi trên đa ht Huyn Môn và siêu h́nh. Nhng vn đ này hoàn toàn vượt ngoài s hc hi và tm kiến thc ca tôi, mà tôi ch có th hiu được ln ln khi trc giác ca tôi được khai m và phát trin nh bi phương pháp cưỡng ép đó.

       Bà không viết theo mt chương tŕnh hay kế hoch đnh sn, mà nhng ư kiến t đâu tuôn tràn xuyên qua trí óc bà như gịng sui chy không ngng, trường lưu bt tn. Có khi  bà đang viết v đng Phm Thiên (Brahma), mt lát sau đó bà đă xoay qua vn đ hin tượng din khí ca Babinet. Trong mt lúc, bà trnh trng chú thích li ca Đo Sư Porphyry, kế đó bà lin trích dn mt đon văn rút trong mt t báo hng ngày, hay trong mt tp văn thư mi in mà tôi va đem v nhà. Có khi bà đang ca tng nhng đc tính toàn thin ca Chân Sư, nhưng mt lúc sau bà đă chuyn vn toàn lc đ công kích nng n Giáo Sư Tyndall hay vài nhà hc gi nào đó mà bà ghét nht, bng nhng cú búa ny la!

       Nếu bà không có mt kế hoch nht đnh, phi chăng điu y chng t rng công vic son sách này không phi do bà d đnh t trước, mà bà ch là mt đường vn hà đ cho trào lưu tư tưởng mi m đc đáo này tác dng nh hưởng đến t́nh trng đng ca s sinh hot tâm linh đương thi? Như mt phn vic hun luyn cho tôi, thnh thong bà yêu cu tôi viết mt đon v mt đ tài đc bit nào đó, và gi ư cho tôi v nhng đim quan trng cn khai trin, hoc bà đ cho tôi t viết ly vi s c gng ti đa đ s dng năng khiếu trc giác ca tôi. Khi tôi đă viết xong, nếu đon văn y không được bà va ḷng, bà thường t du bt măn bng cách nói nng li, và gi tôi bng nhng danh t không đp có tính cách khích đng ḷng t ái đến mc có th giết người! Nhưng khi tôi đnh xé b đon văn vô phước y, th́ bà lin git ngay ly t trên tay tôi đ dùng mt chương khác sau khi đă sa cha li vài ch, và tôi li bt tay vào vic.

      K t ngày tên tui bà xut hin ln đu tiên trên mt báo Daily Graphic, năm 1874 và sut thi gian lưu trú ti M Quc, bà luôn luôn có khách đến viếng. Nếu trong s quan khách, ngu nhiên có người nào hiu biết tinh tường v mt vn đ nào đó liên quan đến ngành hot đng ca bà, bà lin tiếp xúc riêng vi người y và nếu có th được, bà nh y viết li nhng quan đim hay kư c ca y trên giy trng mc đen đ dùng trong quyn sách ca bà. Trong s nhng trường hp thuc v loi này, có bài tường thut ca ông O’Sullivan v mt cuc biu din phương thut trong mt bui hp đàn ti Paris; s din t lư thú nhng cuc l nhp môn huyn bí ca ging dân Druses x Liban, cùng nhng bài v hp dn ca Bác Sĩ A. Wilder, và nhiu người khác na đă đóng góp vào, làm cho b sách này càng tăng thêm phn giá tr vi nhng tài liu vô cùng di dào phong phú.

      Tôi biết mt v mc sư Do Thái đă tng tri qua nhiu gi và nhiu đêm đ tho lun v Huyn Môn Kabala vi bà, và nghe chính y thú nhn rng tuy y đă tng kho cu phn bí truyn ca tôn giáo y trong ba mươi năm, nhưng bà đă dy y nhng điu mà y chưa tng nghĩ đến, và đă làm sáng t nhng đon kinh mà chính nhng bc thy ca y cũng không hiu ni! Vy ch nhng kiến thc thâm sâu huyn diu đó, bà đă hc được đâu, hi nào, và do đâu mà có?

      Tt nhiên không phi do các bà qun gia đă dy bà hc hi c̣n thơ u nước Nga; cũng không phi do mt v giáo sĩ hay thy hc nào quen thuc trong gia đ́nh; cũng không phi bà đă hc trên nhng chuyến tàu hay xe la trong khi bà đi châu du thiên h k t năm mười lăm tui; cũng không phi mt trường trung hc hay đi hc nào, v́ bà không h thi tt nghip mt trường hc nào c; cũng không phi nhng thư vin ln trên thế gii. Nhn xét qua nhng cuc đàm thoi và nhugn74 thói quen ca bà trước khi bà bt tay vào công vic trước tác khng l này, th́ bà không h hc hi qua nhng vn đ y bao gi dù rng xut x t đâu. Nhưng khi bà cn đến nhng tài liu đó, th́ bà có sn, và trong nhng lúc cm hng di dào nht, th́ bà làm cho nhng nhà thông thái phi khâm phc v kiến thc sâu rng, cũng như bà làm cho c ta quan khách phi ngc nhiên v tài hùng bin lưu loát cùng s châm biếm hài hước và trí óc thông minh tế nh ca bà.

       Trong khi chúng tôi cùng làm vic chung, tôi sa cha mi chương bn tho viết tay ca bà nhiu ln, và mi chương  sp ch in; tôi viết nhiu đon giùm cho bà, thường là viết li thành câu nhng ư nghĩ ca bà cho đúng văn phm Anh Ng; tôi giúp bà t́m nhng li trích dn trong các sách, và làm nhng vic ph thuc khác. C̣n th́ quyn sách vn là công tŕnh ca bà, nói v vic làm trên phương din hu vi, thuc cơi gii vt cht hu h́nh, và bà phi nhn lănh tt c v s khen chê v nhng khuyết đim hay ưu  đim ca nó.

       B “ Vén Màn Isis “ đă ghi du mt thế h lch s, và khi viết b sách y, bà cũng giúp cho tôi hc hi được rt nhiu giáo lư Huyn Môn, và chun b cho tôi có đ kh năng đ hot đng truyn bá giáo lư Thông Thiên Hc trong trên hai mươi năm. Vy bà HPB đă ly tài liu đâu đ viết b sách đó, mà phn nhiu người ta không th t́m thy trong nhng sách v các thư vin? Xin nói ngay rng đó là do s h tr ca phn vô vi, mt phn do s giao cm huyn diu vi các đng Chân Sư, và mt phn là do bà tra cu tài liu trong cơi vô h́nh, dược phn nh trên cht Tinh Quang (Akasha) hay Tiên Thiên Khí nh, tc là kho Kư c ca Thiên Nhiên trong Càn Khôn Vũ Tr.

      Làm sao tôi biết được điu này? Đó là nh tôi đă cng tác vi bà trong hai năm đ viết b “Vén Màn ISIS”, và nhiu năm sau na đ son nhng b sách khác như “Giáo Lư Bí  Truyn” (Doctrine Secrète),v…v…

      Theo dơi mi đng tác ca bà trong khi làm vic là mt kinh nghim hiếm có và khó quên. Chúng tôi thường ngi đi din nhau bên mt cái bàn ln, và tôi có th thy rơ mi c ch ca bà. Bà viết thao thao trên mt trang giy, bng nhiên  bà ngng li, ngước mt lên nh́n vào không gian vi đôi mt trng không ca nhà linh th s dng cp mt thn, đon, bà thâu ngn tm nhăn quang như đ nh́n vào mt vt vô h́nh trong khong không trước mt, và bt đu chép nhng ǵ bà đă thy. Khi đă chép xong đon văn chú thích, đôi mt bà tr li khí sc b́nh thường, và bà tiếp tc viết cho đến khi bà ngng li mt ln na ging y như trước.

      Tôi c̣n nh rơ hai ln tôi được nh́n thy và cm trên tay nhng quyn sách l mà bà làm cho hin h́nh trước mt tôi đ tôi kim chng li bn tho, khi tôi t chi không chu phê nhn đ đưa lên máy in v́ có ch tôi c̣n nghi ng là không đúng. Tôi nói:

      “ Tôi không th phê nhn câu chú thích này, v́ tôi chc là bà đă chép sai”. Bà nói:

     “Không sao, vy là đúng; hăy c đ nguyên như thế”.

     Tôi t chi, sau cùng bà nói:

    “Vy ông hăy ngi yên trong mt phút, đ tôi tra li”.

    Khi đó cái nh́n trng không li xut hin trên cp mt bà; đ mt lát, bà ch v phía cái k đt nơi góc pḥng, và nói bng mt ging trng rng:

     “Ḱa, nh́n xem”.

     Kế đó bà tr li khí sc b́nh thường:

    “Đy, ch y đy. Ông hăy tra li xem!”

     Tôi bước li ch cái k và thy hai quyn sách l mà tôi biết chc là trước đó không h có trong nhà. Tôi phi kim câu chú thích ca bà HPB vi đon văn trong sách, ch cho bà thy ch chép sai, sa li bn tho, và theo li bà yêu cu, đem hai quyn sách đ li ch cũ. Tôi tr li bàn ngi làm  vic, và sau đó mt lúc, tôi quay li nh́n ngay ch cái k, th́ thy hai quyn sách đă biến mt! Sau khi tôi k li chuyn này, nhng k hoài nghi ngu dt có th nghi ng s sáng sut lành mnh ca tôi; tôi hy vng nó s hu ích cho h. S vic này li tái din mt ln th hai trong trường hp tương t, nhưng ln này quyn sách không biến mt mà vn c̣n li vi chúng tôi cho đến ngày nay. 

----------    

Bn nháp viết tay ca bà HPB có nhiu khi rt khác bit nhau mt cách rơ rt. Tung ch ca bà có mt tính cách l lung đc bit, mà người nào đă tng quen đc tung ch y luôn luôn có th nhn ra ngay là ch viết ca bà. Tuy nhiên, nếu quan sát k lưỡng, người ta s phát hin ra ít nht ba hay bn li viết khác nhau tuy rng ca mt tung ch và mi li viết như thế kéo dài trên nhiu trang giy, trước khi đi qua li viết khác.

     Mt li viết đó ca bà HPB nét ch rt nh nhưng đu đn; mt li khác nét đm và t do phóng túng; mt li khác na nét va phi và d đc; và mt li na ch viết rt tháu và khó đc. V cách hành văn cũng vy, nhng li ch khác bit như trên cũng kèm theo vi s sai bit v văn phm Anh Ng. Có khi tôi phi sa cha nhiu ch trong mt gịng ch, nhưng li có khi tôi có th thông qua sut nhiu trang mà không cn sa cha mt ch nào. Hoàn toàn nht là nhng trang bn tho được viết thay cho bà trong khi bà ng. Mt thí d đin h́nh là đon đu ca Chương nói v nn văn minh c Ai Cp ( Q.I, Ch. 14 ). Đêm đó, như thường l chúng tôi làm vic đến hai gi sáng, c hai đu mt nhoài, bèn ngưng công vic đ va hút thuc va mn đàm trước khi chia tay. Bà th́ hu như ng gt ngay trên ghế bành, c̣n tôi chúc bà yên gic và lui v pḥng tôi trên lu. Sáng hôm sau, khi tôi đă ăn đim tâm xong và bước xung pḥng khách, bà đưa cho tôi xem mt chng bn tho đ ba mươi đến bn mươi trang giy viết tay bng tung ch ca bà, mà bà nói rng ca v Chân Sư X…. viết cho bà đêm qua. Tp bn tho đó hoàn toàn v tt c mi phương din, và được đưa lên khuôn mà không cn phi duyt xét li.

      Có điu l, là mi ln có s khác bit nhng tung ch viết như thế đu xy ra sau khi bà HPB ri khơi pḥng đ mt lúc, hay bước vào trng thái xut thn khi đó đôi mt trng rng ca bà nh́n vào cơi xa xăm nào và li tr v trng thái b́nh thường ngay sau đó. Ngoài ra, c̣n có mt s thay đi rơ rt v cá tính, tác phong, ging nói, c ch và trên hết mi s, v tính khí tht thường: khi bà ri khi pḥng, bà là mt nhân vt như thế nào đó; mt lát sau khi tr li ch ngi, bà li là mt nhân vt khác. Khác đây không phi nói là bà thay đi cái th xác hu h́nh, mà khác v c ch, tác phong, ngôn ng, cách điu; cũng khác v s linh mn ca trí óc, v quan đim đi vi s đi, khác v cách s dng Anh ng, và có điu này rt đc bit, là khác hn v khí cht: khi sáng sa lành mnh bà có v t bi, kh ái như thiên thn; và trong nhng cơn khng hong thnh n, th́ li…trái ngược hn.

       Có khi tôi viết li thành câu không đúng như ư bà mun tŕnh bày, bà kiên nhn b qua mt cách ưu ái, vô tư; nhng lúc khác, v́ mt li lm nh nht không đáng k, bà dường như ni cơn thnh n và mun th tiêu tôi ngay ti ch! Nhng cơn bo khí đó đôi khi có th gii thích bi t́nh trng sc khe ca bà, và đó ch là s thường t́nh, nhưng lư do đó cũng không đ vng đ gii thích vài cơn gin d khác. B́nh phm v tính cách bt thường này ca bà HPB, ông Sinnet (Phó Hi Trưởng Hi Thông Thiên Hc) viết:

      “BÀ HN LÀ KHÔNG CÓ NHNG ĐC TÍNH MÀ NGƯỜI TA TRÔNG ĐI NƠI MT V ĐO SƯ. LÀM SAO MÀ BÀ LI VA CÓ TINH THN CA MT TRIT GIA, T B CUC ĐI TH GIAN Đ DC L̉NG TM ĐO, NHƯNG DNG THI LI CÓ TH   RƠI VÀO NHNG CƠN NÓNG GIN V̀ NHNG S BC M̀NH NH NHT KHÔNG ĐÂU, ĐÓ LÀ MT ĐIU BÍ HIM RT KHÓ HIU ĐI VI CHÚNG TA,V…V….”

       Tuy nhiên, hăy gi thiết rng khi mà xác thân ca bà được mt bc hin gi thánh đc s dng, th́ nó bt buc phi hành đng vi s b́nh tĩnh, đim nhiên ca nhà hin gi, c̣n nếu không, th́ không, chng đó điu bí him kai đă được gii đáp. Chính bà đă din t kinh nghim huyn linh này khi viết b “Vén Màn Isis”, trong mt bc thư gi v cho gia đ́nh như sau:

      “KHI TÔI VIT B ISIS, TÔI VIT RT D DÀNG ĐN NI ĐÓ KHÔNG PHI LÀ MT S KHÓ NHC NA, MÀ LÀ MT ĐIU VUI THÍCH THT S. CÓ G̀ ĐÂU MÀ NGƯỜI TA KHEN TNG TÔI? KHI ĐƯỢC LNH DY TÔI VIT,TÔI NGI XUNG VÀ VÂNG THEO LI, VÀ KHI ĐÓ TÔI CÓ TH VIT D DÀNG V BT C VN Đ G̀: SIÊU H̀NH HC, TÂM LƯ HC, TRIT HC, TÔN GIÁO, VN VT HC, T NHIÊN HC, VÀ V…V….TÔI KHÔNG H T ĐT NGHI VN: “TÔI CÓ TH VIT V VN Đ NÀY CHĂNG?”, HAY LÀ: “TÔI CÓ Đ SC VIT CHĂNG?”, MÀ TÔI CH NGI XUNG VÀ VIT, VY THÔI. BI V̀ CÓ MT ĐNG TOÀN THÔNG, BIT HT C MI S, ĐC CHO TÔI VIT. ĐÓ LÀ SƯ PH TÔI, VÀ ĐÔI KHI CŨNG CÓ NHNG V CHÂN SƯ KHÁC NA MÀ TÔI ĐƯỢC BIT TRONG NHNG CHUYN ĐI NGAO DU THIÊN H T NHIU NĂM V TRƯỚC…..MI KHI TÔI VIT V MT Đ TÀI MÀ TÔI CH BIT ÍT, HOC KHÔNG BIT G̀ C, TÔI BÈN KÊU GI ĐN CÁC NGÀI, VÀ MT V CHÂN SƯ GIÚP NGUN CM HNG CHO TÔI, NGHĨA LÀ NGÀI Đ CHO TÔI CHÉP NHNG G̀ TÔI NH̀N THY TRONG CÁC B SÁCH C T HAY CH IN HIN RA TRƯỚC MT TÔI TRONG KHÔNG GIAN, TRONG KHI ĐÓ TÔI HOÀN TOÀN THC TNH, VÀ KHÔNG H MÊ MUI DU CH TRONG CHC LÁT”.

      Có ln bà viết thư cho ch rut bà Nga là bà Veracũng v vn đ y như sau:

      “CH CÓ TH KHÔNG TIN TÔI, NHƯNG TÔI CHO CH BIT RNG KHI TÔI NÓI ĐIU NÀY, TÔI CH NÓI S THT. TÔI CH BN RN, KHÔNG PHI VI B “ VÉN MÀN ISIS “, MÀ CHÍNH LÀ VI N THN ISIS VY. TÔI SNG TRONG MT CNH GII MÊ LY TRƯỜNG CU, MT CUC SNG TRONG CNH GII LINH NH THƯỜNG XUYÊN LUÔN LUÔN THC TNH VI ĐÔI MT M LN VÀ TUYT NHIÊN KHÔNG CÓ G̀ LÀM PHNH LA NHNG GIÁC QUAN CA TÔI! TÔI NGI VÀ THEO DƠI THƯỜNG XUYÊN V N THN AI CP. VÀ TRONG KHI N THN PHƠI BÀY TRƯỚC MT TÔI CÁI Ư NGHĨA N DU CA NHNG ĐIU BÍ NHIM ĐĂ B MT ĐI T LÂU ĐI, VÀ BC MÀN CHE DU CÀNG TR NÊN MNG DN VÀ THƯA DN VI GI PHÚT TRÔI QUA, RI T T RƠI XUNG TRƯỚC MT TÔI, TÔI NÍN TH TRONG CƠN KINH NGC VÀ KHÔNG C̉N TIN NƠI NHNG GIÁC QUAN CA TÔI!...

       ….TRONG NHIU NĂM LIÊN TIP, Đ CHO TÔI KHÔNG QUÊN NHNG G̀ TÔI ĐĂ HC(*),[2] TÔI ĐƯỢC LÀM CHO THY THƯỜNG XUYÊN NGAY TRƯỚC MT TÔI TT C NHNG G̀ TÔI CN THY.

      BNG CÁCH ĐÓ, BT C NGÀY ĐÊM, NHNG H̀NH NH CA QUÁ KH LUÔN LUÔN ĐƯỢC TR̀NH DIN LINH ĐNG TRƯỚC NHĂN QUANG TÂM LINH CA TÔI. T T CHM RĂI, VÀ NI TIP NHAU TRONG IM LNG GING NHƯ NHNG H̀NH NH CA MT CUN PHIM CHP BÓNG DIU HUYN, NHNG BIN C LCH S T TH K NÀY ĐN TH K KHÁC XUT HIN NGAY TRƯỚC MT TÔI….TÔI ĐƯỢC KHUYN KHÍCH NI LIN NHNG TH H ĐÓ VI VÀI BIN C QUAN TRNG KHÁC, VÀ TÔI BIT RNG KHÔNG TH CÓ S SAI LM. CÁC CHNG TC VÀ QUC GIA, NHNG X S VÀ THÀNH PH CA MT TH K QUÁ KH NÀO ĐÓ XUT HIN, RI LU M DN VÀ BIT TÍCH TRONG MT TH K KHÁC MÀ THI ĐIM

CHÍNH XÁC ĐƯỢC CHÂN SƯ CHO TÔI BIT…..

       DĨ VĂNG MP M CA THI C XƯA BIN THÀNH NHNG THI KỲ LCH S, NHNG HUYN THOI ĐƯỢC GII  THÍCH BNG NHNG BIN C VÀ NHÂN VT THT S ĐĂ  TNG SNG TRONG CÁC THI KỲ ĐÓ; MI BIN C QUAN TRNG VÀ THƯỜNG LÀ KHÔNG QUAN TRNG, MI CUC CÁCH MNG, MT TRANG MI LT QUA TRONG QUYN SÁCH CA ĐI NGƯỜI VÀ CA CÁC QUC GIA TRÊN TH GII ĐU LƯU LI DU VT NHƯ CHP NH VÀ DƯỜNG NHƯ ĐƯỢC KHC IN TRONG TRÍ TÔI VI NHNG MÀU SC RƠ RT KHÔNG TH PHAI M

      …..TÔI NÓI MT CÁCH NGHIÊM CHNH CHO CH BIT RNG TÔI ĐƯỢC TR GIÚP. VÀ NGƯỜI TR GIÚP TÔI ĐÓ LÀ SƯ PH CA TÔI”.

      Trong mt bc thư gi v nhà cho bà cô rut, bà cho biết rng:

       “KHI SƯ PH TÔI VNG MT V̀ BN RN VI NHNG CÔNG VIC KHÁC, NGÀI LÀM THC ĐNG CHÂN NGĂ CA TÔI Đ VIT THAY CHO NGÀI…. NHNG LÚC ĐÓ, KHÔNG PHI LÀ TÔI VIT NA MÀ CHÂN NGĂ CA TÔI SUY TƯ VÀ VIT THAY CHO TÔI. CÔ TH NGHĨ XEM, TÔI ĐÂU CÓ HC LC UYÊN THÂM BAO GI MÀ VIT ĐƯỢC NHNG VN Đ Y. VY TH̀ NHNG KIN THC ĐÓ CA TÔI DO ĐÂU MÀ RA?......” Trong nhng thư khác gi v cho gia đ́nh, bà cũng nh́n nhn rng có nhng lúc bà được các Chân Sư mượn xác đ viết giúp bà. Các ngài cũng dùng phương pháp đó đ dy Đo cho tôi qua ca ming ca bà, và đưa ra nhng giáo lư thâm sâu mà bà không h biết được my may trong trng thái b́nh thường. Chúng tôi đă cùng nhau làm vic trong nhiu tháng và đă sn xut được trên 870 trang bn tho, th́ mt ngày n bà HPB hi tôi rng, đ thi hành ư mun ca Chân Sư, tôi có sn ḷng chăng đ bt đu làm li tt c! Tôi c̣n nh rơ cơn xúc đng mnh mà vic y đă gây cho tôi, khi nghĩ rng tt c nhng tun l nhc nhn lao kh thc đêm làm vic, vi bao nhiêu cơn song gió t trên phương din tinh thn, rt cuc ch là con s không! Tuy nhiên, v́ ḷng kính yêu và biết ơn ca tôi đi vi các đng Chân Sư vn tuyt đi và vô biên, v́ các ngài đă cho tôi cái đc ân cùng chia x công vic ca các ngài, nên tôi vui ḷng chp nhn và chúng tôi li bt đu làm li hết tt c. Quyết đnh y rt thun li cho tôi, v́ nó chng t ḷng trung kiên và nht trí ca tôi vi bà HPB, nên tôi được th lănh mt phn thưởng tâm linh di dào. Nhng nguyên tc Huyn Môn được các ngài gii thích cho tôi biết, vô  s nhng thí d đin h́nh được tŕnh bày cho tôi thy bng nhng hin tượng thn thông, tôi được tr giúp đ t ḿnh thí nghim ly nhng điu đă hc hi, được giao tiếp vi nhiu v Chân Sư, và nói chung, tôi được chun b đy đ cho mt công vic đi s ln lao trong tương lai mà hi y tôi không th ng trước được, nhưng v sau đă tr thành mt vn đ lch s.

       Người ta thường nói tht là mt điu rt l lung, và rt khó hiu, khi thy rng trong s tt c nhng người đă tr giúp vào phong trào Thông Thiên Hc, thường là vi nhng hy sinh ln lao nht, tôi li là người duy nht được cái ân sng có nhng mi liên h và tiếp xúc cá nhân vi các đng Chân Sư, đến ni s hin din ca các ngài vn là mt vn đ mà tôi biết rơ mt cách tht s chng khác nào như s hin hu ca nhng người trong gia đ́nh hay bn bè thân quyến ca tôi. Chính tôi cũng không gii thích được điu đó. Tôi biết nhng ǵ tôi biết, ch không biết rng ti sao nhiu bn đng môn ca  tôi không được như vy.

       Nhiu người đă nói cho tôi biết rng h đt đc tin nơi các đng Chân Sư nh bi s chng minh chc chn và không th nghi ng qua kinh nghim bn thân ca tôi, nó cũng b  túc thêm vào nhng li tuyên b ca bà HPB. Có l tôi được cái đc ân đó bi v́ tôi phi phóng con thuyn Thông Thiên Hc cùng vi bà HPB cho các đng Chân Sư ca bà, và lái con thuyn đó xuyên qua bao nhiêu nhng cơn giông t băo bùng, khi mà ch có mt s hiu biết chc chn v cái căn bn lành mnh ca phong trào này mi có th làm cho tôi bám sát ly nhim s và gi vng vai tṛ ca tôi cho đến cùng.

MT VÀI GI THUYT

       Chúng ta hăy th phân tích trng thái tinh thn ca bà HPB khi bà viết b sách “ VÉN MÀN ISIS “, đ t́m cách gii thích nhng s khác bit rơ rt v cá tính, tung ch, và tâm trng ca bà như đă tường thut trên.

      Tôi không th chng minh đến mc đ nào, bà HPB đă viết b sách trên qua cá tính phc tp ca bà, nhưng tôi nghĩ rng có điu hin nhiên và không th chi căi là bà đă nghin ngm và tiêu hóa tt c nhng tài liu trong đó cũng như nó là ca chính bà viết ra, ch không phi ch là nhng kiến thc mượn tm t bên ngoài.

       Tht không ǵ d bng tránh né toàn b s vic phân tích đ t́m hiu, và kết bè vi nhng người cho rng bà HPB được ngun cm hng thiêng liêng, không h có s l lm, mâu thun, sai sót hay sơ h nào; nhưng tôi không th làm như vy, v́ tôi biết bà quá rơ, và ch mun tŕnh bày s tht.       Sau khi kho sát v trường hp này, người ta không khi nhn thy rng ít nht có nhng gi thuyết sau đây được nêu ra:

      1. B sách VÉN MÀN ISIS phi chăng được mt v Chân Sư đc cho bà viết như mt người thư kư biên chép li mt cách t m, cn thn và công phu?

      2. Do Chân Ngă ca bà viết ra trong khi cơ th bà b hoàn toàn chế ng?

     3. Bà viết trong trng thái mt người đng t được các đng Chân Sư mượn xác?

     4. Dưới nh hưởng mt phn ca nhng trng thái k trên?     

     5. Như mt đng t thông thường, chu nh hưởng kim chế ca nhng vong linh khut mt?

     6. Do nhiu cá tính tim n và tác đng luân phiên nhau ca bà viết ra?           

      7. Bà ch là mt ph n b́nh thường như mi người, không chu mt nh hưởng kim chế ám nh hay mt ngun cm hng tâm linh nào đến t bên ngoài, trong trng thái tnh táo thông thường, và không có ǵ khác bit vi bt c mt nhà văn nào làm mt công vic son sách thuc loi này.

I

GI THUYT TH BY     

Chúng ta hăy bt đu vi gi thuyết sau cùng. Mi người s thy ngay rng xét v tŕnh đ hc thc và văn hóa ca bà HPB , th́ bà không bao gi có th là mt hc gi uyên bác, hay mt “ con mt sách “. Nhng tp hi kư v cuc đi bà, do gia đ́nh bà truyn li cho nhà viết tiu s bà là ông A.P.Sinnett, và cho tôi, cho thy rng hi thu thiếu thi, bà là mt người hc tṛ khó dy, không h thích đc nhng loi sách v đng đn, khô khan, không thích giao du vi nhng người hc rng, cũng không h bước chân đến các thư vin: bà vn là mi hoang mang kinh khng cho các bà qun gia, mi tht vng cho h hàng thân quyến, thích ni lon chng li tt c nhng s g̣ bó cht hp ca phong tc hay quy ước xă hi thông thường. Trong thi kỳ thơ u, bà thích làm bn vi nhng TINH LINH NGŨ HÀNH và nhng vong linh khut mt cơi âm, bà tri qua nhiu ngày và nhiu tun như vy đ giao tiếp vi h. Bà cũng thường hay chơi nhng tṛ ng nghch, rn mt đi vi người ln, và nh có nhng năng khiếu thn thông ngay t thu nh, nên có khi bà cũng nói phăng ra nhng điu bí mt riêng tư ca h làm cho h phi git ḿnh.

       Bà không h gia nhp mt hi nghiên cu khoa hc hay kho cu bt c mt ngành hc thut nào, và chưa tng viết sách. Bà ch đi t́m các v pháp sư, phù thy nhng x mi r và bán khai, không phi đ đc sách v ( không h có ) ca h, mà đ hc hi v ngành tâm lư thc dng. Nói tóm li, bà không phi là mt người ưa thích văn chương trước khi viết b VÉN MÀN ISIS.

    Nhng s khác bit và tương phn rơ rt gia nhng đon văn có khi vng v lng cng và có khi hu như tuyt tác ca bà, chng minh rng không phi ch có mt trí lc duy nht tác đng đ viết b sách này. Nhng tung c khác nhau, s sai bit v cách suy lun, cách hành văn và nhng sc thái khác bit nhau ca mi đon văn đu xác nhn điu đó.    

II

 GI THUYT TH SÁU

Bây gi chúng ta hăy xét đến gi thuyết th sáu, cho rng quyn sách y được viết ra bi nhiu cá tính khác nhau ca bà HPB, hay nhiu tng lp tâm thc cá nhân ca bà, có th luân phiên nhau xut hin t trng thái tim n đ bước vào trng thái hot đng.

      V vn đ này, nhng s kho sát t́m ṭi ca các gii liên h đương thi vn chưa tiến b đến mc giúp cho chúng ta có th nói mt cách dt khoát. Trong quyn “ NHNG GIAI THOI TRONG CUC ĐI BÀ BLAVATSKY “, ông Sinnett có trích dn mt đon văn ca bà din t mt “ đi sng song đôi “ mà bà đă tri qua trong mt cơn bnh st khi bà c̣n là mt thiếu n Mingrelia:

     MI KHI CÓ NGƯỜI GI TÊN TÔI, TÔI M MT RA VÀ TR LI BN TH HAY CÁ TÍNH CA CHÍNH TÔI, TRONG TNG CHI TIT. TUY NHIÊN, SAU ĐÓ KHI TÔI ĐƯỢC Đ YÊN MT M̀NH, TÔI LI RƠI VÀO TRNG THÁI MNG MƠ THƯỜNG NHT CA TÔI, VÀ TÔI TR THÀNH MT NGƯỜI KHÁC (BÀ HPB KHÔNG NÓI NGƯỜI Y LÀ AI )…..

      NHNG KHI TÔI ĐANG NÓI CHUYN TRONG CUC SNG MNG MƠ NÓI TRÊN, NU TÔI B GIÁN ĐON NA CHNG V̀ CÓ NGƯỜI GI TÊN TÔI, VÀO LÚC MÀ TÔI HAY NHNG NGƯỜI KHUT MT TRONG LÚC ĐÓ MI NÓI ĐƯỢC NA CÂU VÀ TÔI M MT RA Đ ĐÁP LI KÊU GI, TH̀ TÔI THƯỜNG TR LI MT CÁCH RT SÁNG SUT VÀ HIU BIT TT C MI S, V̀ TÔI KHÔNG H MÊ MUI. NHƯNG KHI TÔI VA NHM MT LI, TH̀ CÂU NÓI B GIÁN ĐON NA CHNG KHI NĂY, ĐƯỢC TIP TC BI “ CÁI NGĂ TH NH̀ “ CA TÔI, ĐÚNG VÀO CH HAY CHÍ ĐN NA CH MÀ CÂU NÓI B NGT NGANG.

      KHI TÔI THC TNH VÀ TR V BN TH, TÔI NH RƠ RNG TÔI LÀ AI TRONG CÁI BN NGĂ TH NH̀, CÙNG TT C NHNG S VIC XY RA VÀ TÔI ĐANG LÀM G̀ LÚC Y. KHI TÔI LÀ MT NGƯỜI KHÁC TRONG TRNG THÁI MNG MƠ, TH̀ TÔI LÀ CÁI NHÂN VT MÀ TÔI TR THÀNH, VÀ TÔI KHÔNG H BIT H .B. BLAVATSKY LÀ AI! KHI Y TÔI MT X HOÀN TOÀN XA L, CÓ MT CÁ TÍNH HOÀN TOÀN KHÁC HN, VÀ KHÔNG CÓ LIÊN H G̀ ĐN ĐI SNG CA TÔI TRONG HIN TI”.

     Xét v nhng s vic k trên, người ta có th nói rng nhân vt HPB duy nht, chính là cái thc th tâm linh ng trong cái xác phàm ca bà, c̣n cái “người khác” kia vn không phi bà HPB, mà ch là mt thc th khác có mt mi liên quan bí him không gii thích được, vi bà và xác phàm ca bà. Tht vy, người ta được biết có nhng trường hp mà cái NGĂ TH NH̀ biu l nhng s thích và tài năng hoàn toàn xa l đi vi cái NGĂ b́nh thường ca đương s. Giáo Sư Barrett có thut chuyn người con trai ca mt v linh mc khu vc bc Luân Đôn, sau mt cơn bnh nng, bèn tr nên hai nhân vt khác nhau. Cái “ngă th nh́” không biết đến cha m ca y, không nh nhng vic quá kh, t gi ḿnh bng mt cái tên khác, và điu đáng k hơn na, là y phát trin tài năng v âm nhc, mà trước đó y không h có chút nào.

      Có nhiu trường hp mà cái “ngă th nh́” thay chân cái ngă b́nh thường, t gi bng mt cái tên khác và có mt trí nh đc bit v nhng kinh nghim riêng ca nó. Trong trường hp cô Lurancy Vennum mà mi người đu biết, th xác ca cô hoàn toàn b chế ng bi linh hn thoát xác ca mt thiếu n khác tên Mary Roff, cô này đă chết t mười hai năm trước. Dưới s thay hn đi xác này, cá tính ca cô Vennum hoàn toàn khác bit hn khi xưa. Cô nh rơ tt c nhng ǵ đă xy ra trong đi ca cô Mary Roff trước khi cô này qua đi, nhưng c̣n chính nhng cha m, người thân quyến và bn bè ca cô li tr nên nhng người hoàn toàn xa l. Hin tượng này kéo dài gn bn tháng. Vic nhp xác này đi vi cô Mary Roff li rt t nhiên đến ni cô không thy ǵ khác bit vi cái th xác ca chính cô khi cô sinh ra đi gn ba mươi năm v trước.

      Ngoài ra, người ta c̣n thut chuyn cái “ngă th nh́” ca mt cô gái tên Mary Reynold, xut hin t năm cô mười tám tui và kéo dài đến bn mươi ba năm cho đến khi cô th được đến sáu mươi mt tui, xen vi nhng giai đon trung gian khi cô tr v trng thái b́nh thường. Trong khong hai mươi lăm năm cui cùng ca cuc đi, cô hoàn toàn trong trng thái bt thường ca cái “ngă th nh́”, trong khi đó cái ngă b́nh thường, tc con người tht ca cô, đă b xóa b. Có  điu l lung là tt c nhng ǵ cô biết trong cái “ngă th nh́” đu đă s đc được trong trng thái đó. Cô bt đu cái đi sng th nh́ này vào năm cô mười tám tui (tui ca th xác), không h biết ti Mary Reynold là ai và quên hết tt c quá kh; trng thái th nh́ ca cô chính là trng thái ca mt tr sơ sinh. Tt c nhng ǵ c̣n sót li ca dĩ văng, là cô ch biết tht ra mt vài tiếng, mà cô không hiu ư nghĩa ǵ c cho đến khi cô được dy cho biết ư nghĩa ca nhng ch đó. Tôi có đc sách và biết được ít nhiu v vn đ đa h́nh đa dng trong con người, nhưng không thy có trường hp nào mà cái ngă hay nhân vt th nh́ có th chú thích nhng đon văn trong các sách, hay nói nhng tiếng ngoi ng mà chính đương s không h biết trong trng thái b́nh thường. Tôi biết mt nhà bác hc Anh Quc, đă quên hn tiếng m đ v́ sng nước ngoài t năm mười mt tui mà không nói, hay nghe ai nói th tiếng y. Đến năm hai mươi chin tui, y mi bt đu hc li tiếng m đ bng cách dy sinh ng và t đin. Tuy nhiên, trong khi y c gng vt ln vi nhng nguyên tc sơ đng ca ngôn ng y, th́ y li nói trôi chy trong gic ng. Nhưng trong trường hp này, s thông hiu ngôn ng ca y ch đm ch́m trong cơi tim thc, hay kư c n tàng.

       Có trường hp quen thuc ca mt người n tỳ ngâm thơ ngoi ng trong trng thái thy du (đi trong gic ng) và cũngtht lên nhng câu văn Do Thái mà cô đă nghe mt người ch cũ ca vang lên t nhiu năm trước.

       Nhưng không ai có th đưa ra bng chng nào ch rng bà HPB đă tng kho cu v nhng vn đ bà viết trong b sách VÉN MÀN ISIS. Nếu bà không c ư “đo văn” mt cách ư thc và cũng không h hc hi nhng vn đ y bao gi th́ làm sao nhng kiến thc đó có th đến vi bà trên gi thuyết rng b sách y được viết bi mt HPB th nh́ hay HPB th ba?

đây, tôi ch mun tm cu xét vn đ đa h́nh đa dng ca con người trên gi thuyết rng bà HPB có th viết b sách VÉN MÀN ISIS vi không có s tr giúp nào khác hơn là nhng cá tính riêng ca bà. Bi đó, chúng ta không cn phi đi sâu hơn vào mt vn đ mà mun hiu biết rơ người ta phi tham kho nhng giáo lư Huyn Môn ca n Đ.

       Đo lư c truyn ca n Đ dy rng Chân Ngă con người có kh năng thy và biết tt c khi y đă trút b cái gánh nng ca bc màn che ám cui cùng thuc v tâm thc vt cht hng trn. Và cái kiến thc đó s đến vi y mt cách  tun t khi mà nhng lp màn xác tht trng trược càng ngày   càng được vén lên.

      Trường hp giáo ch Hi Giáo Mahomet vn là mt người tht hc, li có th viết b Thánh Kinh Koran bng ch Rp thun túy, là mt phép l ln nht chưa tng thy. Đó là mt  bng chng ch rng Chân Ngă tâm linh ca ông đă biu l xuyên qua nhng chướng ngi ca th xác vt cht và trc tiếp thu nhn nhng kiến thc siêu vit t cái ngun gc huyn diu thuc v cơi trên.

       Nếu bà HPB là mt tu sĩ kh hnh ch tr được cái phàm ngă và b óc suy lun ca bà, nếu bà có th viết Anh Ng thun túy mà không h s đc nó t trước, nếu bà son b VÉN MÀN ISIS theo mt kế hoch rơ rang nht đnh thay v́ sp đt các tài liu mt cách ln xn thiếu trt t như bà đă làm, th́ tôi đă có th nghĩ như trên và coi b sách quư giá y như mt công tŕnh sáng to bi cái Chân Ngă siêu vit ca bà. Nhưng trên thc tế, tôi không th làm như vy, và tôi phi thông qua vn đ y đ xét qua nhng gi thuyết khác.

III

GI THUYT TH NĂM 

 Gi thuyết kế đó là phi chăng bà HPB viết b VÉN MÀN ISIS vi tư cách mt người đng t thông thường, nghĩa là dưới s kim chế ca nhng vong linh người chết? Tôi qu quyết rng không. Nếu qu như vy, th́ cái vong linh chế ng th xác ca bà hn là tác đng mt cách khác hn vi mi th quyn năng đă được ghi nhn trong các sách v, mà tôi đă tng chng kiến trong nhiu năm kinh nghim và kho cu v phong trào Thn Linh Hc. Tôi đă được biết nhiu đng t thuc đ mi loi: đng t giáng ngôn, giáng bút, xut thn, cha bnh, linh th, làm các hin tượng v…v….Tôi đă theo dơi cách làm vic ca h, tham d các cuc hp đàn và quan sát nhng triu chng nhp đng ca h. Nhưng trường hp ca bà HPB hoàn toàn khác hn. Hu hết tt c nhng ǵ h đă  làm bà đu có th làm được tùy ư mun, bt c ngày đêm, không cn phi hp đàn, chn thành phn tham d, hay áp đt nhng điu kin thông thường.

      Ngoài ra, tôi c̣n có bng chng rng ít nht vài Nhân Vt hp tác vi chúng tôi là nhng Người c̣n sng do bi tôi đă nh́n thy các Ngài trong th xác phàm n Đ, sau khi đă nh́n thy các Ngài trong Th Vía nhng nơi khác bên Âu  M, và tôi cũng đă nói chuyn vi các Ngài. Các Ngài cho tôi biết rng các Ngài không phi là nhng vong linh, mà là nhng người sng cùng tôi, và mi v trong các Ngài đu có nhng đc tính và kh năng riêng, nói tóm li, là có cá tính riêng. Nhng quyn năng mà các Ngài đă s đc được, có ngày tôi cũng s có; sm hay mun là tùy nơi tôi. Tôi không nên trông đi mt đc ân nào, mà cũng như các Ngài, tôi phi tiến tng bước bng s c gng cá nhân.

      Mt trong nhng v cao c nht là bc Thy ca hai v Chân Sư mà qun chúng đă có dp nghe nói đến, đă dy tôi trong mt bc thư đ ngày 22 tháng 6 năm 1875, như sau:

      “THI GI ĐĂ ĐN Đ CHO CON BIT TA LÀ AI. TA KHÔNG PHI LÀ MT LINH HN ĐĂ THOÁT XÁC, HI Đ T, MÀ LÀ MT NGƯỜI SNG, CÓ NHNG QUYN NĂNG MÀ CÓ NGÀY CON CŨNG S ĐT TI. TA KHÔNG TH TIP XÚC VI CON BNG CÁCH NÀO KHÁC HƠN LÀ BNG TINH THN, V̀ HIN THI CHÚNG TA CÁCH XA NHAU ĐN HNG NGÀN DM. HĂY KIÊN NHN VÀ LC QUAN, HI NGƯỜI PHNG S TRUNG KIÊN CA QUN TIÊN HI THIÊNG LIÊNG! CON HĂY TIP TC C GNG LÀM VIC, V̀ ĐC T TIN LÀ YU T MNH M NHT ĐƯA ĐN S THÀNH CÔNG. HĂY GIÚP Đ NHNG K THIU THN RI CHÍNH CON S ĐƯỢC GIÚP Đ, THEO S TÁC ĐNG TRƯỜNG KỲ VÀ BT BIN CA LUT NHÂN QU.”

      Như đc gi nhn thy, Lut Nhân Qu đă được dy cho tôi hu như ngay t lúc bt đu s liên h gia tôi vi bà HPB và vi các đng Chân Sư.

      Tuy nhiên, mc dù các s vic k trên chúng tôi đă được s hp tác ca ít nht mt người khut mt, vn là linh hn ca mt trong nhng triết gia li lc nht ca thi cn đi, đă tng làm v vang cho x s ông và là mt bông hoa ưu tú ca nhân loi. Ông ta là mt tín hu ca triết phái Platon (Bá Lp Đ) và tôi nghe nói rng ông ta say mê hc hi đến ni ông không th tách ri khi qu Đa Cu, mà ngi trong mt thư vin do ông to ra bng tư tưởng trên cơi Trung Gii, đm ch́m trong nhng cơn suy gm triết lư, quên hn gịng trôi chy ca thi gian, và ch nghĩ đến vic xoay chuyn trí óc con người theo chiu hướng đo đc tâm linh. Nguyn vng y không thu hút ông ta tái sinh tr li cơi trn, mà thúc đy ông đi t́m nhng người có chí nguyn ging như các Chân Sư và đ t, mun làm vic đ truyn bá Chân Lư và bài tr mê tín d đoan. Tôi được ông cho biết rng ông ta là mt người tinh khiết và vô k đến ni ông được s kính n ca tt c các v Chân Sư. V́ không được can thip vào nghip qu ca ông, nên các Ngài ch có th đ cho ông t lc công phu đ t gii thoát khi nhng o nh ca cơi Trung Gii, hu tiến bước lên cơi tinh thn và tâm linh thun túy theo đà tiến hóa t nhiên. Phn trí tu ca ông được vn dng mănh lit vào vic suy lun triết lư đến ni phn tâm linh đă tm thi b tê lit.

       Trong khi đó, th́ ông ta xut hin, sn sàng cng tác vi bà HPB đ viết b sách lch s này, và đă đóng góp rt nhiu công lao vào nhng tiết mc có liên quan đến vn đ triết hc. Ông ta không có hin h́nh đ ngi vào bàn viết vi chúng tôi, cũng không mượn xác bà HPB như mt đng t, mà ch nói chuyn vi bà trên phương din huyn linh, sut nhiu gi liên tiếp. Trong nhng cuc giao tiếp đó, ông đc cho bà viết, nhc nh bà v nhng loi sách nào cn phi chú thích, tr li nhng câu hi ca tôi v các vn đ chi tiết, hun d cho tôi v nhng vn đ nguyên tc, và đóng vai tṛ ca mt người th ba trong nhóm chúng tôi.

       Có ln  ông ta cho tôi bc chân dung ca ông, mt ha thô sơ v bng bút ch́ màu trên mt t giy mng, và đôi khi ông cũng có gi cho tôi mt thông đip ngn (bng cách phóng xut qua không gian) đ nhn nh tôi v vài vic riêng tư. Nói chung th́ mi liên h gia ông vi hai chúng tôi là mt s giao tiếp rt du dàng, thân mt vi mt người anh c và mt người thy vô cùng uyên bác. Ông không h nói mt li nào ch rng ông t coi như mt vong linh khut mt, khác hơn mt người sng và tôi nghe nói rng ông ta vn không biết là ḿnh đă chết.

       Mc du bác b gi thuyết cho rng bà HPB viết b VÉN MÀN ISIS vi tư cách mt đng t “ b kim chế “, nhưng chúng ta đă thy rng vài đon trong sách y tht s đă được mt vong linh khut mt đc cho bà viết: đó là mt nhân vt l kỳ và đc đáo, nhưng vn là mt linh hn đă thoát xác. Phương pháp làm vic vi ông ta như đă nói trên tht đúng như bà đă din t trong mt bc thư gi v cho gia đ́nh, đ gii thích bng cách nào bà viết b sách y mà không h có s hc hi, đào luyn trí óc t trước.

       “Khi tôi ĐƯỢC LNH phi viết, tôi ngi xung và tuân lnh. Khi đó, tôi có th viết d dàng v bt c vn đ ǵ: Siêu h́nh, Tâm lư, Triết, Tôn giáo Vn vt, v.. v…. Ti sao? Bi v́ có MT V BIT TT C đc cho tôi viết. Đó là Sư Ph tôi, và thnh thong cũng có nhng v khác na mà tôi được biết trong nhng chuyến du hành t nhiu năm v trước”.

       Đó chính là vic ǵ đă xy ra gia bà và v triết nhân già ca môn phái Platon (Bá Lp Đ), nhưng ông takhong6 phi là “sư ph” bà, mà cũng không phi bà đă gp ông ta trong nhng chuyến du hành trước đây v́ ông ta đă chết trước khi bà sinh ra đi (trong kiếp này). Như vy, vn đ được nêu ra là phi chăng v tín hu phái Bá Lp Đ nói trên qu tht là mt linh hn thoát xác, hay là mt v Chân Sư đă sng trong cái th xác đó và dường như đă chết vào ngày 1 tháng 9 nm 1687 nhưng tht ra th́ không?

      Đó hn là mt vn đ khó gii đáp. Xét v́ hoàn toàn  không thy có nhng triu chng thông thường ca vn đ mượn xác đng t và xét v́ bà HPB ch đóng vai tṛ ca người biên chép nhng ǵ v triết gia đc cho bà viết, chng khác nào như s quan h gia mt n bí thư vi v Ch Nhân, tr ra vic ông Ch Nhân y tôi không nh́n thy mà bà nh́n thy, th́ đó có v dường như chúng tôi tiếp xúc vi mt người sng hơn là vi mt linh hn đă thoát xác. Ông ta không hn là mt v Chân Sư, nhưng gn như thế hơn là bt c môt vai tṛ nào khác. C̣n nói v công vic viết sách VÉN MÀN ISIS, th́ phn vic ca ông cũng ging như nhng phn khác khi mà người đc, hay người viết tùy trường hp, là mt v Chân Sư (GI THUYT S MT). Tôi nói người đc, hay NGƯỜI VIT, và điu này cn được gii thích thêm.

       Trên đây có nói rng tung ch ca bà HPB có nhiu khi khác bit nhau, và cũng li có nhiu li viết khác nhau ca mt tung ch duy nht. Mi ln thay đi tung ch như thế đu đi kèm vi mt s khác bit rơ rt v c ch, tác phong, sc din và kh năng văn chương ca bà HPB. Khi bà t lc c gng làm vic vi kh năng ca chính ḿnh, th́ điu đó rt d nhn thy v́ nó biu l qua cách hành văn lung túng, vng v ca mt người mi tp s viết lách, chưa được hun luyn thun thc v công tác này. Nhng khi đó th́ bn tho ca bà đưa qua cho tôi duyt xét li, có dy đy nhng li lm sai sót, và sau khi nó được biến thành nhng trang có đy nhng ch gch nát, thêm bt, nhng gịng xen k, xóa b, sa cha v chính t và văn phm, tôi phi đc cho bà viết li t đu (GI THUYT S BY).

      Không bao lâu, tôi được biết rng nhng đng Cao C khác cũng s dng th xác ca bà HPB đ giáng ngôn, giáng bút. Mi ln mượn xác bà như vy, các Ngài không h nói rơ rng: “Tôi là v n….hay v kia”, hay “Đây là Chân Sư A….hay B….”. Điu đó không cn thiết sau khi chúng tôi đă làm vic chung vi nhau trong mt thi gian khá lâu dài đ tôi có th tr thành quen thuc vi mi c ch, đng tác, ngôn ng, khí cht và xúc cm ca bà. Mi ln các v luân phiên nhp xác ca bà, là có s thay đi rơ rt như ban ngày v tính khí, c ch, thái đ, v…v….ca bà như va k trên. Mi ln bà ri khi pḥng đi ra ngoài mt lát ri tr vào, tôi ch cn quan sát sơ qua nhng nét mt và tác phong, c ch ca bà mt chút đ có th t nhc thm rng: “Đây là Chân Sư X…,hay Y…,hay Z…”, và s phng đoán ca tôi đă được xác nhn bi nhng s vic xy ra sau đó.

      Mt trong nhng đng y, mà tôi đă có ln gp g trong xác phàm, có b râu cm và râu mép dài xon li vi b ria hai bên má theo li Rajput. Ngài có thói quen vut râu mép mi khi suy tư: ngài làm như vy mt cách t nhiên vô ư thc. Có nhng khi bà HPB đ cho cá tính ca bà tan biến dn và tr thành mt Nhân Vt khác. Khi đó, tôi ngi trước mt bà và nhn thy bà đưa tay lên cm ri t t làm nhng đng tác dường như kéo b râu mép (không có tht) và xon ti xon lui trong nhng ngón tay ca bà, vi đôi mt đăm chiêu và cái nh́n xa vng. Mt lát sau đó, đôi mt y mi thâu ngn tm nhăn quang đ lưu ư đến s vt chung quanh: Nhân Vt có râu mép ngước mt lên, nhn thy tôi đang chăm chú theo dơi đng tác ca ngài, bèn lt đt b tay xung, và tiếp tc viết.

      Mt Nhân Vt khác li rt ghét Anh Ng đến ni Ngài ch nói chuyn vi tôi bng tiếng Pháp. Ngài có năng khiếu v ngh thut và rt thích thú say mê nhng phát minh cơ khí.

      Mt Nhân Vt khác na thnh thong cũng xut hin (qua th xác bà HPB) v nguch ngoc nhng h́nh nh bng bút ch́, và giáng bút thành nhng bài thơ hàm xúc mùi Đo V thanh cao.

       Mi Nhân Vt đó đu có nhng đc tính riêng bit rơ rt, và người ta có th nhn ra ngay là v nào mượn xác bà HPB vào mt lúc nht đnh, cũng như ta có th phân bit nhng bn bè quen thuc ca ta trong đi sng hng ngày. Mt v hay cười nói vui v, ưa thích nói nhng chuyn vui và hay châm biếm hài hước. Mt v khác nói năng dè dt, nghiêm chnh và rt lch lăm uyên bác. Mt v khác có tác phong trm tĩnh, kiên nhn và sn sàng giúp đ mt cách đy ho ư. Mt v khác na luôn luôn th thách và đôi khi rt khó tính. Mt Nhân Vt khut mt luôn luôn sn ḷng đưa ra nhng s gii thích triết lư và khoa hc v nhng vn đ mà tôi phi viết bng cách làm nhng hin tượng l lung đ chng minh, c̣n đi vi mt Nhân Vt khác na th́ thm chí tôi cũng không dám nêu nhng vn đ y ra hi Ngài.

      Mt đêm n, tôi b “chnh” mt cách đau đn. Trước đó my hôm, tôi có đem v hai cây bút ch́ loi mm và tt đ dùng, tôi đưa mt cây cho bà HPB và gi li mt cây. Bà HPB có cái tt rt xu là hay mượn nhng đ dng c văn pḥng, bút mc, bút ch́, ty (gôm), dao, kéo, v… v…mà quên tr li cho “ kh ch “! Mt khi bà đă dùng xong, bà b vào hc t ca bà ri chúng c nm yên trong đó, bt chp nhng li phn đi ca “nn nhân”! Đêm đó, Nhân Vt có tâm hn ngh sĩ “giáng lâm “. Ngài va ngi v mt đu người trên mt t giy va nói chuyn vi tôi v mt đu đ nào đó, ri ngài bo tôi đưa cho ngài mượn mt cây bút ch́ khác. Khi y mt tư tưởng lin thoáng qua trong trí tôi:

      “Nếu ḿnh cho mượn cây bút ch́, nó s nm gn trong hc t ca bà, ri ḿnh s không c̣n cây bút ch́ nào khác đ dùng “ Tôi không nói ra, mà ch nghĩ trong trí thôi, nhưng Nhân Vt giáng lâm nh́n tôi bng mt cái nh́n châm biếm, đưa tay vói ly cái gi đng bút trên bàn, đ cây bút ch́ ca ngài trong đó, dùng ngón tay mân mê nó mt lúc, ri th́….ơ ḱa, l thay, đt nhiên xut hin trong gi mt chc cây viết ch́ cùng mt hiu và cùng mt phm cht vi cây kia! Ngài không nói mt li, cũng không them nh́n vào mt tôi, nhưng vic y làm cho máu trong người tôi nhy vt lên hai màng tang và tôi cm thy h thn như tôi chưa tng b như thế bao gi trong đi!

      Dù sao chăng na, tôi không nghĩ rng tôi đáng b “chơi” mt v nng như thế, xét v́ cái tt hay chiếm đot văn pḥng phm bt tr ca bà HPB!

       Mi khi mà mt trong nhng Nhân Vt y “giáng lâm”, th́ tung ch viết ca bà HPB li biu l nhng nét đc thù ging y như tung ch ca ln trước khi mà đến phiên chính Nhân Vt y xung bút đ góp phn vào công tŕnh viết nên b sách vĩ đi này. Nhng ln đó, ngài viết nhng tiết mc đc bit thuc v nhng đ tài s trường ca ngài, và thay v́ bà HPB đóng vai tṛ mt n bí thư biên chép, th́ khi đó bà đă tr nên chính Nhân Vt y (GI THUYT S BA). Hi đó, nếu có ai cm đưa cho tôi bt c mt trang bn tho viết tay nào ca b VÉN MÀN ISIS, tôi có th nói ngay mt cách qu quyết rng đó là do v nào viết ra. Như vy th́ linh hn bà HPB đi đâu trong nhng lúc đó, khi mà các ngài thay phiên nhau mượn xác ca bà? Đó là mt vn đ bí him, mà không phi ai cũng được nói cho biết. Đ gn hai năm sau khi b sách được phát hành, bà HPB có gii thích cho nhng người thân quyến trong gia đ́nh bà biết được điu bí mt y: nhng khi đó linh hn bà không c̣n trong xác phàm, mà dường như ch quanh qun gn bên, hoàn toàn ư thc được mi vic xy ra, và theo dơi mi đng tác ca các Nhân Vt khut mt đang s dng th xác ca bà.

      Theo ch tôi hiu, th́ bà cho các v mượn xác cũng ví như người ta cho mượn mt cái máy đánh ch, và xut hn đi  làm công tác cơi trên v phn vô vi, trong khi đó mt nhóm các v Chân Sư luân phiên nhau s dng th xác ca bà đ  làm vic. Khi biết rng tôi có th phân bit các ngài (xuyên qua xác phàm ca bà HPB) và nhn ra tính cht riêng ca mi v, đến mc tôi đă đt cho mi v mt bit danh đ d kêu gi trong nhng cuc nói chuyn riêng gia chúng tôi, các ngài thường trnh trng nghiêng đu hoc thân mt vy tay t giă tôi mi khi sp ri khi pḥng và nhường ch cho v kế tiếp. Đôi khi các ngài cũng nói chuyn vi tôi v mi v Chân Sư cũng ví như bn bè nói chuyn vi nhau v nhng người vng mt, bi đó tôi cũng được biết ít nhiu v đi tư ca các ngài.

      Tôi cũng xin nói rơ là chí đến nhng đng Chân Sư cao c nht cũng không bao gi mun được suy tôn như nhng bc toàn trí, toàn năng hay không th lm li. Các ngài không h biu l my may ư mun được tôi tôn sùng, th kính hay coi như thiêng liêng nhng ǵ các ngài viết qua th xác bà HPB, hoc đc cho bà viết. Tôi được khuyến khích ch nên coi các ngài như mi người thường, nhng người tuy minh triết hơn  và tiến hóa hơn tôi bi phn, nhưng đó ch là bi v́ các ngài đă đi trước tôi trên con đường tiến hóa t nhiên.

      Trước đây, tôi có nói v nhng đon trong b sách “VÉN MÀN ISIS” do chính bà HPB đích thân viết ra, nhng đon y đương nhiên là không xut sc bng nhng trang do các Chân Sư viết thay cho bà. Điu y rt d hiu, v́ trước đó bà HPB không h có s hiu biết v loi này, làm sao bà có th viết mt cách chính xác v nhng vn đ siêu h́nh, huyn bí, đ̣i hi mt hc lc uyên thâm và nhng kiến thc Huyn Môn siêu đng.

     Trong trng thái b́nh thường, có khi bà đc mt quyn sách nào đó, đánh du nhng phn làm cho bà chú ư, viết v nhng đ tài tham kho, viết sai , sa cha, tho lun v nhng vn đ đó vi tôi, nh tôi viết li, tr giúp phn trc giác ca tôi, nh các bn Đo cung cp tài liu, và c tiếp tc viết vi s c gng ti đa, khi mà không có mt v Chân Sư nào xut  hin đ đáp ng nhng s kêu gi tr giúp tâm linh ca bà. L tt nhiên, các Chân Sư không phi lúc nào cũng đến vi chúng tôi.

      Bà viết rt nhiu và đưa ra nhiu tài liu quư giá, v́ bà có mt kh năng văn chương thiên phú; nhng trang sách bà viết không bao gi nhàm chán hay vô v, và bà cũng gii tuyt luân v ba th sinh ng khi nào có s tr giúp quyn năng đy đ v phn thiêng liêng. Bà viết thư cho mt thân nhân biết rng khi Sư Ph mc bn rn công vic khác, ngài đ li cho bà mt vt đ thay thế, và khi đó, chính “ Chân Ngă sáng sut “ ca bà suy tư và viết cho bà (GI THUYT S HAI ). Tôi không th có ư kiến ǵ v vn đ này, v́ tôi chưa tng quan sát bà trong trng thái đó. Tôi ch biết rơ bà dưới ba khía cnh, tc là:

      1._ Trong trng thái phàm ngă như mt ph n b́nh thường,     

      2._ Khi th xác ca bà được các Chân Sư s dng; và     

      3._ Như mt người biên chép nhng ǵ các Chân Sư đc cho bà viết.     Có nhiu khi bà không h b mượn xác, kim chế hay được đc cho viết bi mt v Chân Sư nào, mà ch là bà HPB trong trng thái b́nh thường, vn c gng đến mc ti đa đ thc hin công tác giao phó cho bà và thi hành s mng. Tuy nhiên, mc dù có s tr giúp ca nhng Trí Lc hn hp tác đng t bên ngoài, b sách “VÉN MÀN ISIS” và nhng công tŕnh khác ca bà HPB đu có phng pht nhng nét đc thù đc đáo biu l cá tính đc bit ca bà.

MT KHÍ C ĐC BIT

I

       Xét qua nhng ǵ đă tŕnh bày trước đây, người ta phi hiu như thế nào v vic son b sách VÉN MÀN ISIS, và v vai tṛ ca bà HPB? Đó hin nhiên là mt công tŕnh tp th, do s đóng góp ca nhiu tác gi khác nhau, ch không phi ch có mt ḿnh bà HPB. S nhn xét riêng ca tôi v vn đ này cũng hoàn toàn phù hp vi s gii thích trong nhng bc thư ca bà gi v cho gia đ́nh. Bà cho biết rng tt c nhng đon sách nói v nhng vn đ mà trước đây bà chưa h quen thuc, đu được mt v Chân Sư đc cho bà viết, hoc do Chân Ngă ca bà tác đng xuyên qua b óc và bàn tay bà đ viết ra. Vn đ này tht vô cùng phc tp, và người ta s không bao gi biết rơ s tht v mc đ đóng góp nhiu ít thế nào ca mi thành phn tham d.

       Cá tính ca bà HPB là cái khuôn mà tt c mi cht liu đóng góp đu được đ vào; cái cá tính y do bi nhng khí cht, đc đim và thói tt riêng ca nó, tác dng nh hưởng đến phn h́nh thc và sc thái biu l ca nhng cht liu này c trên phương din th cht ln tinh thn.

       Nhng v Chân Sư luân phiên nhau mượn xác bà HPB ch làm thay đi tung ch ca bà, ch không viết bng tung ch riêng ca các ngài. Cũng y như thế, khi s dng b óc ca bà HPB, các ngài bt buc phi đ cho nó tô màu nhng tư tưởng ca các ngài, và sp đt nhng li l ngôn t ca các ngài theo mt cách thc c đnh đc bit ca nó. Cũng như ánh sáng ban ngày đi xuyên qua nhng ca kiếng màu các Nhà Th tr nên nhum màu ca nhng tm kiếng y, th́ nhng tư tưởng do các Chân Sư chuyn đt xuyên qua b óc l lùng ca bà HPB cũng phi b thay đi un nn theo cách hành văn và cách tŕnh bày tư tưởng quen thuc riêng ca bà.

      S đng thanh khí t nhiên v phương din tinh thn trí năo gia v khut mt vô h́nh và người b mượn xác càng cht ch mt thiết, th́ s kim chế càng d dàng hơn, văn chương lưu loát hơn, và bút pháp cũng điêu luyn hơn. Mt thí d din h́nh là tôi nhn thy rng nhng khi bà HPB lâm vào trng thái nóng ny đến cc đim, th́ các Chân Sư ít khi mượn xác bà đ làm vic tr ra Sư Ph ca bà, v́ ư chí st thép ca ngài c̣n mnh m hơn bà nhiu, c̣n nhng v khác hin ḥa hơn th́ luôn luôn tránh né ch không li gn.

      L t nhiên, tôi hi rng ti sao các Chân Sư không dùng bin pháp thường xuyên chế ng cái khí cht táo tn ca bà, đ làm cho bà luôn luôn tr thành mt nhà hin gi đim đm, trm tĩnh như nhng khi bà được đt dưới s kim chế ca vài đng Cao C. Tôi được tr li rng mt bin pháp như vy chc chn s làm cho bà chết bt ng v́ đt gân máu trong óc. Th xác ca bà được sinh đngbi mt tinh thn dũng mănh táo cp, mt tính khí bo tn không h b km chế t khi c̣n nh, và nếu cái khí lc thng dư thái quá đó không được đ cho có li thoát ra ngoài, th́ điu y hn phi đưa đến mt hu qu khc hi.

      Đó là cái khí cht đc đáo ca bà HPB, và bà đă có nhiu ln nói vi tôi rng bà không mun b chế ng bi bt c mt quyn lc nào trên thế gian hay ngoài Trái Đt! Bà ch tôn kính các đng Chân Sư, tuy nhiên thm chí đi vi các ngài, đôi khi bà cũng t ra cương cường bt khut đến ni, như đă nói trên, nhng v có tính cht du dàng ôn ḥa hơn không th, hay không chu, đến gn bà. Bà cũng cho tôi biết rng vic đt ḿnh vào mt trng thái tinh thn thích nghi đ có th giao tiếp d dàng và thường xuyên vi các Chân Sư, đă đ̣i hi nơi bà mt s c gng t ch ráo riết đến mc tuyt vng trong nhiu năm liên tiếp. Tht không có ai đă tng bước vào đường Đo vi nhng chướng ngi khó khăn hơn và mt tinh thn khc k gian lao hơn na.

      L tt nhiên, mt b óc d b khích đng như vy không phi là mt dng c thích nghi đ thi hành cái s mng vô cùng tinh tế được giao phó cho bà, nhưng các Chân Sư cho tôi biết rng đó là cái khí c tt nht hin hu, và các ngài phi tn dng mi kh năng ca nó vi s c gng ti đa. Đi vi các ngài, th́ bà là hin thân ca s trung thành và ḷng sùng tín, sn sàng dám làm và dám chu tt c v́ đi nghĩa. Bm sinh vi nhng quyn năng thn thông thiên phú vượt tri hn tt c mi người cùng thế h vi bà, và vi mt tm ḷng hng khi nhit thành bc la hu như đi đến ch cung tín, bà có đ đc tính trung kiên, bn vng, nht tâm bt lon. Điu này, phi hp vi mt s do dai bn b v th cht đến mt mc đ phi thường, làm cho bà tr thành mt khí c vô cùng đc lc, tuy rng không phi d dy d bo, và có mt khí cht bt trc d thường.

     Có mt lư do ti hu khác v́ sao các Chân Sư không dám km chế bà HPB đ bt buc tính nết bà phi tr nên thun thc du dàngtheo lư tưởng ca mt v Hin gi đim nhiên và trm tĩnh. Đó là bi v́ làm như vy tc là can thip mt cách bt hp pháp vào Nghip Qu cá nhân ca bà. Cũng như mi người, bà có mt s lượng nghip duyên ràng buc do hu qu ca lch tŕnh tiến hóa ca linh hn. Chính cái Nghip Qu đó làm cho bà tái sinh tr li kiếp này vi mt xác thân người n luôn luôn khích đng t, và như vy bà có cơ hi đt ti s tiến b tâm linh bng cách phi chiến đu trường kỳ đ làm ch ly nó. Nếu các Chân Sư trc tiếp can thip vào t́nh trng đó bng cách km hăm cái khí cht hung bo và xóa b nhng s thiếu sót khác trong tâm linh ca bà, th́ vic y s rt tai hi cho bà mà không làm cho bà được tiến hóa thêm chút nào: đó chng khác nào như đt mt người th cm dưới s chế ng thường xuyên bng ư chí ca mt nhà thôi miên, hay đt mt người bnh dưới nh hưởng tê lit trường kỳ ca cht ma túy. Có nhng lúc mà th xác ca bà không được các Chân Sư mượn tm đ làm vic, hoc trí óc bà không bn rn đ viết nhng ǵ các Chân Sư đc cho bà viết. Ít nht là tôi nghĩ như vy, nhưng đôi khi tôi cũng nghi ng rng không mt ai trong chúng tôi, là nhng người cng s vi bà, đă tng biết rơ bà HPB trong trng thái b́nh thường! Biết đâu chúng ta ch có tiếp xúc vi mt cái xác phàm được sinh đng gi to, mà linh hn đă thoát ly đi mt trong trn chiến Mentana khi bà b t thương trm trng do năm vết đâm him nghèo bng vũ khí sc bén, sau đó bà được vt xác ra khi mt cái h sâu và coi như đă chết?

      Gi thuyết y không phi là hoàn toàn vô lư, bi v́ có mt s kin lch s tương t đă tng xy ra. Đó là trường hp ca cô Mary Reynold, mà linh hn đă thoát xác trong khong thi gian bn mươi hai năm, trong khi đó th xác ca cô b chiếm đóng bi mt nhân vt khác không h hay biết ǵ v nhng kinh nghim và kư c ca cô trong mười tám năm qua trước khi có s thay hn đi xác này.

      C̣n nói v trường hp bà HPB, tôi không c quyết mà ch lư lun thôi, v́ tôi không dám nói mt cách chc nch rng mt kỳ n như bà là ai. Bà tht là mt nhân vt kỳ bí đy nhng yếu t mâu thun trái ngược, tuyt đi không th sp hng hay phân loi như bt c mt người nào trong chúng ta là nhng nhân vt thường t́nh, đến ni v́ bn tính thn trng, tôi phi dè dt không th đưa ra mt lư lun nào có tính cách đ quyết, khng đnh. Bt c điu ǵ bà đă nói vi tôi hay vi mt người nào khác, đi vi tôi tht không đáng k bao nhiêu, bi v́ đă tng sng chung và cùng đi công tác lưu đng vi bà nhng bao lâu nay, và vn có mt trong bao nhiêu nhng cuc hi kiến ca bà vi nhng người khác, tôi đă tng nghe bà k nhng chuyn vô cùng mâu thun v cuc đi bà. Đó là bi v́ mt lư do nghiêm trng. Mt thái đ d dăi, ci m vi người đi thoi có th làm cho bà vô t́nh tiết l nơi cư trú và bn cht, cá tính ca các đng Chân Sư cho nhng k thế nhân phàm tc, mà nhng ư đ riêng tư, ích k cùng nhng s quy ry, phin nhiu ca h đă tng làm cho các nhà đo sĩ Yogi phi lánh ḿnh t́m nơi n trú trên non cao rng thm.

      Đ gii quyết s khó khăn y, bà đă chn ly mt li thoát d dàng là t phát ngôn mâu thun vi ḿnh đ làm cho tâm trí người đi thoi b hoang mang m mt. Xin k mt thí d: Bà đă có th nói d dàng cho ông Sinnett (Phó Hi Trưởng Hi Thông Thiên Hc ) biết rng khi bà t́m cách đt nhp vào x Tây Tng hi năm 1854 xuyên qua x Bhutan hay Népal, bà đă b Đi Úy ( hin nay là Thiếu Tướng) Murray, ch huy biên khu thuc đa phn y, bt tr li và đem v gi trong nhà làm bn vi v ông ta trong mt tháng. Nhưng bà không bao gi k li chuyn y, và không mt ai trong s nhng bè bn thân hu ca bà đă tng nghe nói v vic này. Măi v sau, ông Edge và tôi mi được nghe câu chuyn y do chính Thiếu Tướng Murray k li vào ngày 3 tháng 3 va qua trên chuyến xe la t Nalhati đi Calcutta, và tôi đă cho đăng trong tp chí ca Hi.

       C̣n nói v tui tác ca bà, th́ bà k đ mi th chuyn,nó làm cho bà lên đến hai mươi, bn mươi, chí đến sáu mươi và by mươi tui cao hơn tui tht ca bà. Chúng tôi c̣n gi nhng thư t văn kin v chuyn này do nhng khách viếng thăm và nhng phóng viên các báo tường thut li sau nhng cuc hi kiến riêng vi bà, trong nhiu bui din kiến mà chính tôi có tham d. Đ t bào cha, bà nói vi tôi rng nhng Nhân Vt giáng lâm và ng trong th xác ca bà trong nhng dp đó đu có tui tác y như thế, và thế là bà nói không có sai, trong khi người đi thoi ch nh́n thy có cái th xác ca bà và tưởng rng câu chuyn bà nói ch áp dng cho cái xác phàm đó mà thôi!

II

Trên đây tôi có dùng ch “ám nh” (obsession), nhưng tôi biết rơ s thiếu sót ư nghĩa ca nó trong trường hp này. C hai danh t “ám nh” (obsession) và “chiếm hu” (possession) đu được dùng đ nói lên s quy phá mt người c̣n sng bi ma qu hay nhng vong linh bt ho. Mt người b ám nh (obsession) là người b quy phá, hay vây ph, c̣n mt người b chiếm hu (possession) là người b tà ma qu m nhp xác, kim chế, ng tr. Tôi t hi nhng v c đo thi xưa không đt ra mt danh t tt đp hơn đ ch vic chiếm hu, kim chế, ng tr, hay nhp xác mt người bi nhng thn linh hay vong linh tt lành? Nhưng điu y không giúp cho chúng ta được bao nhiêu tr khi chúng ta không biết đến nhng trường hp mà đôi khi th xác bà HPB b nhng thc th khác chiếm đóng. Câu chuyn sau đây s cho thy đến mc đ nào.

      Mt bui chiu mùa h, bà HPB và tôi cùng có mt trong văn pḥng làm vic ca chúng tôi ti New York. Tri chưa ti, nên chúng tôi chưa thp đèn lên. Bà ngi gn bên ca s, c̣n tôi đng. Bng nhiên tôi nghe bà nói:

      “Hăy nh́n xem đ hc”

     Tôi day đu nh́n li và thy mt đám mây mù bc lên t đu và vai ca bà. Trong chc lát, nó tượng h́nh mt v Chân Sư, v này v sau đă cho tôi cái khăn bt đu lch s ca ngài, nhưng lúc y th́ ch là mt h́nh bóng như sương m. Mi chăm chú nh́n hin tượng y, tôi đng yên không c đng. Cái bóng ch tượng h́nh có na phn trên thân ḿnh, ri lu m dn và biến mt; nó có được thu hi tr v bên trong th xác bà HPB hay không, th́ tôi cũng không biết. Bà ngi yên như pho tượng trong đôi ba phút, sau đó bà th dài mt cái, tr li trng thái b́nh thường, và hi tôi có thy ǵ không. Khi tôi yêu cu bà gii thích hin tượng y, th́ bà t chi và nói rng tôi phi khai m trc giác đ t́m hiu nhng hin tượng ca cái thế gii mà tôi đang sng. Bà ch có th giúp đ bng cách cho tôi xem thy nhng hin tượng n kia, ri đ cho tôi t t́m hiu ly tùy kh năng ca ḿnh.

      Nhiu nhân chng đă có thy mt hin tượng khác na, nó có th hoc không chng minh rng nhng thc th khác đôi khi cũng đă nhp xác bà HPB. Trong năm ln khác nhau, mt ln đ làm vui ḷng mt v n khách, và mt ln cho em gái tôi là Mitchell, bà HPB đă gom trên đu mt ln tóc mn màu nâu lt và dn song ca bà, ri ly kéo ct và đưa cho mt người trong chúng tôi. Nhưng ln tóc y khi ct ra th́ nó li thô cng, thng tut và đen như huyn ch không c̣n dn song hay quăn chút nào, tc là tóc ca người phương Đông hay người châu Á ch không ging chút nào như nhng ln tóc mn như tơ, màu nâu lt và dn song ca bà. Tôi c̣n ct gi hai ln tóc ct ra t trên đu bà, c hai đu đen như huyn và thô cng hơn tóc bà rt nhiu, nhưng có mt ln li thô cng hơn ln kia mt cách rơ rt. Ln trước là tóc ca người Ai Cp, c̣n ln sau là tóc ca người n Đ. Hin tượng này c̣n có cách gii thích nào khác hơn là gi thiết rng nhng người đàn ông có hai ln tóc đó đă tht s nhp xác bà HPB trong hai ln khác nhau khi mà nhng ln tóc y được ct ra?

      Vn đ nhp xác mt người c̣n sng, bi nhng người cũng c̣n sng, tuy là mt vic hoàn toàn xa l đi vi người Tây Phương đến ni h không có mt danh t nào trong ngôn ng ca h đ ch vic đó, vn đă được biết rơ và đnh nghĩa n Đ. Người n gi hin tượng đó là Àvesa, tc là vic chiếm hu, nhp xác, ng tr xác thân ca mt người sng. Hin tượng đó có hai loi: khi người đo sĩ xut vía ra khi th xác ḿnh và nhp vào xác mt người khác, đó gi là svarupàvesa; c̣n khi nào người đo sĩ dùng ư chí ca ḿnh đ tác đng nh hưởng hoc chế ng th xác ca người khác đ làm nhng vic hoàn toàn vượt ra ngoài kh năng ca người kia, thí d như nói mt tiếng ngoi ng chưa tng hc, hiu được nhng ngành hc thut không h quen biết, đt nhiên tàng h́nh trước mt mi người, biến thành mt vt h́nh thù đáng s, chng hn như mt con rn hay mt thú d, v…v…, th́ đó gi là saktyàvesa.

     Cái quyn năng đó ch áp dng cho s tác đng tâm linh gia hai người c̣n sng, hay s “nhiếp” tư tưởng và gây ngun cm hng cho mt người sng bi mt thc th tâm linh có tŕnh đ cao hơn, ch nó không nên b h thp ư nghĩa đ ch vic nhp xác mt đng t bi mt vong hn người chết đ to nên các hin tượng. Trường hp sau này gi là “gràhana”, và vong hn người chết được gi là “graham”. Danh t này cũng được dùng đ ch vic nhp xác mt người sng bi mt TINH LINH NGŨ HÀNH. Hin tượng này cũng có hai trường hp khác nhau. S nhp xác y có th:

     a) TÁC ĐNG T NHIÊN, do s thu hút, hp dn mt tinh linh đến vi người đng t.

     b) TÁC ĐNG CƯỠNG CH, do s cưỡng ép bng ư chí ca mt v thut sĩ hay phù thy biết rơ nhng chân ngôn thn chú đ sai khiến các loi âm binh.

      Chúng tôi thy trong Thánh Kinh Pàncharàtra Pàdma-samhita Charyàpada ca n Đ, chương 24, có nhng hun th đy đ v s thc hành thut nhp xác ( Avesa ) như sau:

      “Nay ta dy cho người biết, hi hành gi, phương pháp nhp xác mt người khác….Cái th xác y phi được tinh khiết, tươi tt, đ trung niên, có tt c nhng tính cht tt và không b nhng chng ác bnh do ti li gây ra (như bnh cùi, bnh phong t́nh,v…v…).Xác thân y phi là ca người Bà La Môn hay người Kshatriya (thuc giai cp quư tc).Nó phi được đt mt nơi vng v,(đ tránh nguy cơ b gián đon trong khi thc hành các nghi thc),mt nga lên tri và hai chân dui thng. Ngi mt bên, ngươi phi gi tư thế YOGASANA (mt tư thế ca pháp môn Yoga), nhưng trước khi đó, hi hành gi, ngươi phi đă có tp luyn cái quyn năng tp trung tư tưởng vào mt mc tiêu nht đnh. Thn thc (jiva) vn ng ch VĨ LƯ QUAN tc là Luân Xa nơi Rún (nàbhichakra), nó sáng rc như mt tri, có h́nh dáng như con hc (hamsa) (*)[3] và di chuyn dc theo nhng đường vn hà Idâ và Pingala. Sauk hi nó đă được tượng h́nh con hc (*) bng cách tp trung tư tưởng theo pháp môn Yoga, nó s thoát ra do hai l mũi, và như mt con chim, nó s phóng ra ngoài không gian. Ngươi phi tp cho quen phép này, là phóng lung Sinh Khí (Prâna) cho bay lên ti ngn cây, đưa nó đi xa mt dm, hay năm dm, hay hơn na, ri thu hi nó tr v th xác ngươi xuyên qua hai l mũi, và tr nó li v trí cũ Luân Xa nơi Rún. Phép này phi được tp luyn hng ngày cho đến khi đt ti mc tuyt ho”.

     Kế đó, sau khi đă s đc được cái bí thut đó ri, người đo sĩ có th thc nghim phép nhp xác. Khi đă ngi theo tư thế nói trên, y mi rút lung sinh khí (Prâna-jiva) ra khi th xác y, và đem nó vào cái th xác đă chn làm mc tiêu do nơi hai l mũi, dn nó đi xung măi cho đến khi nó lt vào bí quyt vĩ lư quan hăy c̣n b trng, ri tr nó vào Luân Xa nơi Rún, đ cho người chết được phc hi sinh khí và làm cho người ta thy rng y đă sng li.

     Mi người đu biết câu chuyn nhà Hin Gi Sankarâ đă phc sinh cho cái xác chết ca vua Amaraka thành Amritapura, do Mâdhava, nhà chép tiu s ca ông thut li. Đ tr li nhng câu hi ca Mandana Misra phu nhân v khoa hc Ái T́nh, mà ông hoàn toàn mù tt v́ ông vn sng đc thân t khi c̣n nh, nhà Hin Gi hn s gii thích đáp trong ṿng mt tháng. Kế đó, trong mt chuyến đi ngao du vi các đ t đến gn thành Amritapura, ông nh́n thy cái xác chết ca nhà vua đt nm dưới gc cây, gia mt đám thn dân vây chung quanh đang than khóc. Nghĩ rng đây là mt cơ hi tt đ thâu thp nhng kiến thc v t́nh dc mà ông c̣n thiếu sót, Đo Sư Shankara bèn giao cái th xác ca ông cho các đ t coi sóc, ri xut vía ri nhp vào xác chết ca vua, làm cho nó hi sinh tr li gia s reo mng ca đám cn thn chung quanh. Kế đó, Đo Sư được đưa tr v kinh đô, và trong mt thi gian đă tri qua cuc sng b́nh thường ca mt ông vua gia nhng phi tn cung n trong tam cung lc vin và sau cùng ông đă gii đáp nhng câu hi v ái t́nh.

     B sách SANKARAVIJAYA ca nhà chép tiu s Mâdhava viết như sau:

     “SAU KHI RÚT LUNG SINH KHÍ (PRÂNA VAYU) T ĐU CÁC NGÓN CHÂN TR LÊN CHO THOÁT RA NGOÀI XUYÊN QUA NÊ HUN CUNG, TC LUÂN XA TRÊN ĐNH ĐU (BRAHMARÂNDHRA), ĐO SƯ SHANKARA MI T T, TNG GIAI ĐON CHM RĂI, NHP VÀO XÁC CHT CA NHÀ VUA DO NÊ HUN CUNG VÀ CHIM ĐÓNG TRN VN T ĐU ĐN CHÂN”.

      Nhân dp son li tp h sơ cũ,tôi đă t́m thy mt trang nht kư cũ trong đó có ghi li mt cuc đi thoi gia tôi vi mt v Chân Sư có quc tch Hung Gia Li, đă mượn xác bà HPB bui ti hôm đó. Trang nht kư y viết như sau:

     “NGÀI LY TAY CHE MT VÀ H THP BC ĐÈN ĐT TRÊN BÀN. TÔI HI NGÀI TI SAO? NGÀI NÓI RNG ÁNH SÁNG LÀ MT MĂNH LC VT CHT, NU Đ LT VÀO MT CA MT TH XÁC B MƯỢN TM, S VA CHM ĐN TH VÍA CA NGƯỜI MƯỢN XÁC, GÂY CHO NÓ MT S KHÍCH ĐNG MNH VÀ MT SC ĐY ĐT NGT ĐN MC LÀM CHO VÍA NGƯỜI MƯỢN XÁC CÓ TH B ĐY BT RA NGOÀI. THM CHÍ NÓ C̉N CÓ TH LÀM CHO CÁI TH XÁC KIA B TÊ LIT.

     KHI NHP XÁC MT NGƯỜI KHÁC, PHI RT VÔ CÙNG THN TRNG. NGƯỜI TA KHÔNG TH T ĐNG HÓA VI CÁI TH XÁC Y MT CÁCH HOÀN TOÀN CHO ĐN KHI NÀO NHNG S VN ĐNG T NHIÊN VÔ THC CA NHNG B MÁY TUN HOÀN, HÔ HP V…V…, ĐĂ ĐƯỢC ĐIU CHNH CHO THT ĂN KHP VI NHNG ĐNG TÁC TRONG CƠ TH CA NGƯỜI MƯỢN XÁC, MÀ CÁI TH XÁC CA NGƯỜI NÀY, DÙ CÁCH ĐÓ BAO XA ĐN ĐÂU, VN CÓ LIÊN H VÔ CÙNG MT THIT ĐN CÁI TH VÍA ĐĂ XUT RA.

    KHI ĐÓ, TÔI MI THP SÁNG NGN ĐÈN TREO LNG LNG TRÊN TRN NHÀ, NHƯNG CHÂN SƯ LIN CM LY MT T NHT BÁO CHE TRÊN ĐNH ĐU. TÔI NGC NHIÊN VÀ YÊU CU NGÀI GII THÍCH LƯ DO, TH̀ NGÀI CHO BIT RNG Đ ÁNH SÁNG T TRÊN CAO RI XUNG ĐNH ĐU LI C̉N NGUY HIM HƠN LÀ Đ ÁNH SÁNG RI VÀO MT”.

    Hi đó, tôi chưa biết ǵ v sáu bí huyt hay Luân Xa trong thân th con người. Tôi cũng không biết rng Luân Xa quan trng nht trong nhng bí huyt đó, tc Nê Hun Cung (brahmarândhra), nm dưới nhng xương s trên đnh đu, và n Đ, người ta có tc l chc thng cái xương s ch y khi đem ha tang xác chết đ cho cái Vía người chết xut ra được d dàng. Hơn na, lúc đó tôi cũng chưa đc câu chuyn Đo Sư Shankara xut vía và nhp vào xác chết ca ông vua xuyên qua Nê hun Cung là cái ca ngơ ca linh hn.

     Tôi ch nh́n thy nhng đng tác ca v Chân Sư, và cũng chưa hiu rơ nhng li gii thích ca ngài ti hôm đó, nhưng bây gi, vi thi gian qua, điu bí him đó đă được soi sáng và c hai s vic xy ra New York và Amritapura đu có liên h h tương vi nhau. Qua s vic sau này, và nhng giáo lư ca Huyn Hc n Đ, người ta có th hiu d dàng hơn điu bí mt ca s vic trước. Trước kia th́ mi s có v ti tăm m mt, và thm chí người ta cũng không có đến mt danh t đ gii thích s vic y, nhưng nay người ta có th thy rng bt c người nào tinh thông pháp môn Yoga đu có th nhp xác mt người khác c̣n sng, khi mà th Vía ca người này đă xut ra và cái th xác trng trơn được đt dưới vic s dng ca nhng bn bè thân hu đến viếng. Tm mc quan trng ca vn đ này đi vi vic mượn xác bà HPB tht đă hin nhiên, như tôi s c gng tŕnh bày trong phn kế tiếp.

III   

    Đây xin tr li vn đ mượn xác ca bà HPB, trong đó có mt bng chng luôn luôn xut hin làm cho người ta phi chú ư. Hăy xét trường hp v Chân Sư A hay B đă “giáng lâm” qua th xác bà HPB đ mt gi hay lâu hơn, đă viết vài đon trong quyn “VÉN MÀN ISIS” hoc đơn phương hoc vi s cng tác ca tôi, và vào mt lúc nht đnh, đă nói mt điu ǵ đó vi tôi hoc vi mt trong nhng v khách có mt. Th́nh ĺnh, bà (hay ngài?) ngng nói chuyn, đng dy và, vi mt li xin li khách v́ mt lư do nào đó, bèn ri khi pḥng trong giây lát. Sau đó bà tr li, dáo dác nh́n quanh vi đôi mt b ng như mt người l va bước vào mt gian pḥng có đông người, vn mt điếu thuc hút, và tht ra nhng li không có liên quan ǵ đến câu chuyn đă nói lúc năy. Bà t v lúng túng, không th ni tiếp câu chuyn đang b d, hoc nói vài câu trái ngược hn vi nhng ǵ bà va mi khng đnh, và khi có người nhc li cho bà biết vic y, bà ly làm bc ḿnh và tht lên nhng li nói nng n. Hoc khi được nhc li rng hi năy bà đă nói như vy như vy, th́ bà có v trm ngâm nghĩ ngi giây lát và nói: “ nh, xin li ông…”, ri tiếp tc nói v đ tài đang b d.

    Đôi khi bà có nhng s thay đi ư kiến như vy mau như chp, và v́ quên đi cái cá tính đa h́nh đa dng ca bà, chính tôi cũng đă lm khi bc ḿnh v s lư lun không nht trí đó, khi bà mnh dn lên tiếng ph nhn nhng điu mà bà đă tuyên b mt cách chc chn và rơ rang ch mt lúc trước đó. Ln ln, tôi được gii thích cho biết rng sau khi nhp xác mt người khác (c̣n sng), cn phi có mt thi gian ngn đ ni lin tâm thc ca ḿnh vi kư c ca nhân vt va xut ra trước đó, ch nếu không, mà c tiếp tc câu chuyn trước khi có s điu chnh, th́ nhng s lch lc như trên vn có th xy ra. Điu này phù hp vi nhng ǵ Chân Sư đă nói vi tôi ti New York v vn đ nhp xác, và vi s din t cách thc mà Đo Sư Shankara nhp vào cái xác chết ca vua Amaraka như đă nói trong b sách SHAKARAVIJAYA(*):[4]

    “…Đo Sư Shakara MI T T, TNG GIAI ĐON CHM RĂI, nhp vào xác chết ca nhà vua và chiếm đóng trn vn t đu đến chân”.

    S gii thích v vic điu chnh t t tng giai đon nhng đng tác sinh lư trong hai cơ th cho điu ḥa tiết điu và ăn khp vi nhau c̣n ni rng đến s điu chnh ca hai tâm thc, và khi nào chưa có s ḥa hp hoàn toàn, th́ đương nhiên phi có s ln xn v tư tưởng, lư lun và kư c như tôi đă din t trên, và như phn nhiu nhng v quan khách đến viếng bà HPB đă phi ly làm vô cùng ngc nhiên sng st.

     Thnh thong, khi ch có hai chúng tôi trong pḥng, th́ hoc Nhân Vt sp “thăng”, nói:

    “Ta phi gi điu này li trong óc đ cho v đến sau Ta có th theo dơi…”,

    Hoc Nhân Vt va giáng lâm, sau khi chào hi tôi bng mt li thân mt, bèn hi tôi vn đ đang tho lun là vn đ ǵ trước khi có s “thuyên chuyn”.

    Trong nhng bc thư ca các Chân Sư viết cho tôi v bà HPB, các ngài thường đ cp đến cái xác phàm ca bà như mt cái khí c mà mt trong các ngài đang s hu và dùng tm. Trong quyn Nht Kư ca tôi năm 1878, tôi nhn thy mt đon kư s đ ngày 12 tháng 10 do bút tích ca Chân Sư M. viết qua tung ch ca bà HPB như sau:

   “HPB mn đàm vi W. đến hai gi sáng. W. tâm s rng y nh́n thy nơi bà có đến BA CÁ TÍNH RƠ RT. Y BIT chc như vy, nhưng không mun nói vi Olcott v vic y, v́ y s rng H.S. Olcott s chế diu y !!!”

    Nhng ch gch đít và nhng chm than đu chép li đúng y nguyên văn. Ch “W.” là nói ông Wimbridge, lúc đó là khách ca chúng tôi.

    S dĩ có đon văn do tay người khác viết trong tp Nht Kư riêng ca tôi, là v́ khi tôi ri khi New York v́ hot đng ngh nghip, mà trong năm đó tôi phi đi vng nhà đến nhiu ln, th́ bà HPB viết nht kư thay cho tôi. Cái tên “HPB” cũng phi được hiu là nhng Nhân Vt mượn xác ca bà trong mi ln nht đnh. Trong đon nht kư ngày hôm sau (13 tháng 10), cũng do mt bàn tay y viết,sau khi đim danh by người khách đến viếng thăm hôm đó, có s ghi nhn như sau v mt v khách có mt:

    “Tiến Sĩ Pike nh́n thng vào mt HPB nhiu ln, bèn git ḿnh và nói rng trên đi không có ai đă gây cho y mt n tượng l lung như thế. Có khi y nhn thy nơi HPB mt thiếu n đ mười sáu tui, có khi đó là mt bà già mt trăm tui, mt ln khác đó li là mt người đàn ông có râu!”

    Ngày 22 tháng 10, cũng mt bàn tay y viết:

   “N. (mt v Chân Sư) thăng, nhường ch cho S. (mt v Chân Sư) nhp vào (th xác bà HPB). V sau này đến vi mt lnh ca ___(*)[5] dy phi hoàn thành tt c vào ngày mùng 1 tháng 12” ( đ chúng tôi lên đường sang n Đ)

    Đon nht kư ngày 4 tháng 11, cũng mt tung ch y viết:

   “N. xut ra, và M. giáng lâm vi lnh ti hu ca ____(*) dy phi lên đường (sang n Đ) t ngày 15 đến 20 tháng 12 là tr nht”.

    Tôi cũng có nhn được nhiu thơ ca các Chân Sư nói v bà HPB vi tư cách cá nhân ca bà, đôi khi nói rt thành tht v nhng đc đim ca bà, c tt ln xu. Có mt ln, tôi được các Chân Sư, vi nhng hun lnh viết tay, giao s mng kín cho tôi đi đến mt thành ph khác đ to nên mt vài din biến cn thiết cho s tiến hóa tâm linh ca bà. Tôi vn c̣n gi bc văn kin đó.

    Khi tôi đến tnh Rajputana năm 1879, tôi có nhn được mt bc thư rt dài ca các Chân Sư. Đó là mt thông đip đy ḷng ưu ái, nhân t, và nếu nó có liên quan đến cái đ mc ca chúng ta bây gi, th́ có l tôi đă công b trong sách này, đ chng minh tính cht cao siêu ca s trao đi thơ t gia các Chân Sư vi tôi trong nhiu năm liên tiếp. Chính trong bc thơ đc bit đó Chân Sư đă gii đáp thc mc khi tôi bày t s ước mun rút lui ra khi cuc đi thế tc và đi theo các ngài. Tôi được tr li rng:

   “Phương tin duy nht hin có sn và trong tm tay con đ bước đến gn Chúng Ta là xuyên qua Hi Thông Thiên Hc”

    Tc là cơ quan mà tôi được lnh phi xây dng, cng c và phát trin. Tôi phi tp sng hoàn toàn vô k, v tha. Chân Sư nói thêm:

   “Không mt ai trong Chúng Ta sng cho riêng ḿnh, mà tt c đu sng cho nhân loi”.

    Đó là cái tinh thn rt ráo, ti hu, cha đng trong tt c nhng li ging dy ca Chân Sư gi cho tôi, và đó cũng là cái lư tưởng xut hin bàng bc khp nơi trong b sách “VÉN MÀN ISIS”.

    Giáo lư cha đng trong b sách này có th tóm tt đi lược như sau:

    “Con Người có mt tính cht phc tp, gm c hai phương din cc đoan, mt đàng là nhng thú tính thp hèn, mt đàng là tính cht thiêng liêng cao quư. S sng duy nht chân tht và toàn m, thoát ly khi mi o giác, ngoài ṿng tc ly, kh đau, bi v́ nơi đó không có s Vô Minh, y là s sinh hot tinh thn, tc ca Chân Ngă.”

    B sách y giúp cho con người có mt đi sng trong sch, cao thượng; nó giúp cho s m trí và khai m ḷng t bi bác ái đi vi muôn loài vn vt; nó ch cho người đi thy con đường Đo diu huyn. Con đường Đo y luôn luôn m rng cho nhng người thin chí, khôn ngoan và dung cm. B sách y cũng truy nguyên tt c mi kiến thc và hiu biết ca chúng ta hin nay đến nhng ngun gc xa xưa ca thi thái c; nó cũng khng đnh s hin din luôn luôn hng có t xưa đến nay ca các đng Chân Sư và ca khoa hc Huyn Môn; nó c̣n đem đến cho chúng ta mt ngun khích l và mt lư tưởng cao siêu đ cho chúng ta c gng đt ti, ngơ hu có th thc hin s tiến hóa tâm linh ca ḿnh.

    Khi b “VÉN MÀN ISIS” va xut bn, nó đă gây khích đng trong qun chúng đến mc bn in đu tiên năm ngàn cun đă bán hết sch trong ṿng mười ngày. Tiến Sĩ Shelton Mackenzie, mt trong nhng nhà phê b́nh tài ba nht thi đó, viết rng:

   “Đó là mt trong nhng công tŕnh dáng k nht v tư tưởng xut chúng, công phu sưu tm t m, và cách tŕnh bày đo lư, triết hc bao gm mt hc lc uyên thâm, qung bá chưa tng thy t nhiu năm nay”.(Phila. Press, 9.1.1887).

    Nhà phê b́nh văn ngh ca nht báo New York Herald ra ngày 30 tháng 9 năm 1877 nói rng:

   “Nhng tâm hn t do đc lp s hoan nghinh công tŕnh mi xut bn này như mt s đóng góp sáng giá nht vào nn văn chương Đo Lư”.

    Ông viết tiếp:

   “Vi nhng đc đim l lùng, nhng lun điu phong phú, táo tn, và nhng đ mc di dào bt tn mà tác gi đă trin khai mt cách vô cùng linh hot và hp dn, b sách này là mt công tŕnh sáng to đc đáo phi thường ca thế h”.

    Mt s kin c th là b sách “VÉN MÀN ISIS” nay đă tr nên mt tác phm c đin khuôn mu, nó đă được tái bn nhiu ln, và hin nay, sau mt thi gian mười by năm đă trôi qua, vn đang được nhu cu khp nơi trên thế gii. Mt tác gi M đă phát biu ư kiến mà tôi cho là đúng nht, khi ông nói rng:

   “Đó là mt b sách bao gm c mt cuc cách mng tư tưởng trong đó”.

 

PHỤ LỤC SỐ 3

Tác giả Alexander Wilder

Trích từ báo Từ Ngữ, số tháng 5, năm 1908

“Đôi khi người ta nghi vấn về quyền tác giả của bộ “Vén Màn Bí Mật Nữ Thần Isis”. Một số người rêu rao rằng mình chính là tác giả. Có một cá nhân đáng làm chứng nhất trong số những người có sự hiểu biết riêng tư về quyền tác giả ấy, đó là học sĩ bác sĩ Alexander Wilder, vốn là môn đồ phái Plato có nhiều năng lực nhất. Mặc dù ngày nay đã 85 tuổi, ông vẫn còn bồng bột như thời thanh xuân, vẫn còn cái hào khí trí tuệ của tuổi trưởng thành cùng với mọi bầu nhiệt huyết của phái Plato của mình”.

H.W.P.

̣t buổi sáng vào mùa thu năm 1876, tôi đọc thấy trong tờ báo Diễn đàn Nữu Ước có đề cập tới một tác phẩm đang được xuất bản với tựa đề là “Pháp Thuật” và bàn tới những đề tài bí nhiệm. Vì bản thân trước kia có lưu ý tới những đề tài này cho nên tôi viết thư tới địa chỉ được trình bày trong báo và nhận được một thư hồi âm của bà Hardinge Britton. Ngoài việc giải đáp thắc mắc của tôi, bà còn cho tôi biết về việc tạo lập Hội Thông Thiên Hc lúc bấy giờ đang diễn ra. Nhưng tôi không theo đuổi manh mối ấy. Tôi đâm ra ghê tởm những lời tự xưng tự mọc của các cá nhân cho mình có quyền năng cao siêu và nhng tên tuổi không thông dụng chẳng thu hút gì được tôi. Tuy nhiên vài tuần sau khi biết rằng quyển sách ấy đã ấn loát xong thì tôi gọi điện thoại tới bà Britton để nhận được một bản in. Bà nói rõ rằng tác giả không nêu danh tính và cũng không đòi tôi phải trả tiền mà lại ngợi khen tôi về tài năng trí thức là mt điều ǵ đó phi thường trong địa hạt này. Quyển sách rất thú vị đối với tôi, chứa nhiều khuôn vàng thước ngọc quí giá liên quan tới những vấn đề bí mật. Tiếc thay không có chỉ mục và việc thiếu chỉ mục khiến cho người tìm học cảm thy quyển sách mất giá trị hết một nửa. Trong quyển sách không có ám chỉ nào tới Hội Thông Thiên Hc và tôi cũng chẳng tò mò muốn biết về cái tổ chức ấy.

Vào lúc đó tôi đang biên tập nhiều ấn phẩm cho ông J. W. Bouton, một người bán sách ở New York; tôi ưa diễn thuyết và đóng góp bài vở cho một hay hai tờ báo. Tôi dẹp sang một bên những sự cam kết và liên kết khác. Tôi chỉ vừa nghe nói về bà Blavatsky nhưng chẳng có gì liên quan tới Thông Thiên Hc hoặc đề tài khác mà tôi có biết chút ít. Người ta mô tả bà là tự giới thiệu mình với người quen trên cương vị̣t “nữ quí tộc người Nga bon chen”, và tác phong của bà thu hút sự chú ư của nhiều người. Vào lúc đó người ta chẳng phát giác được điều ǵ thêm nữa.

Vài tháng sau, vào một buổi chiều thoải mái đầu mùa thu, tôi đang ợ̉t ḿnh trong nhà. Chuông reo lên và tôi ra tận cửa đáp lại. Đại tá Henry S. Olcott xuất hiện ở đó có một chuyện vặt cần gặp tôi. Tôi không nhận ra ông v́ tôi chưa bao giờ có dịp làm quen với ông, nhưng ông vốn có công việc chính quyền với một trong những người chủ của tôi trước đó nhiều năm, cho nên từ dạo ấy có biết tôi. Tuy nhiên ông không ngờ rằng tôi lại quan tâm tới những đề tài không thông thường, vì tôi đă thành công khiến cho mọi người chẳng ai biết đến mình ngay cả những kẻ nào hằng ngày giao tiếp với tôi và cứ tưởng rằng họ biết tỏng về tôi. Việc phục vụ lâu dài trong ngành báo chí, có quan hệ thân mật với giới công quyền, tích cực tham gia vào những vấn đề chính trị, dường như đã đóng kín mọi cơn đam mê nồng nhiệt về sự suy đoán thần bí khiến chẳng ai nhận ra, cũng như luôn cả đam mê về triết học siêu việt. Tôi nghĩ rằng bản thân Đại tá Olcott cũng khá sửng sốt.

Ông Bouton đã chỉ dẫn ông đến kiếm tôi. Bà Blavatsky đã biên soạn xong một tác phẩm về các đề tài huyền bí và triết học; ông Bouton được yêu cầu đảm nhiệm việc việc xuất bản tác phẩm ấy. Tôi cũng chẳng bao giờ hiểu rõ tại sao người ta lại chỉ dẫn ông đến kiếm tôi. Vài ngày trước đó ông Bouton đã du hành sang nước Anh và tôi đã viếng thăm ông nhiều lần, ngay cả khi từ Newark ghé sang tiễn ông đi buổi sáng mà ông khởi hành. Thế nhưng ông chẳng hề nói với tôi một lời nào v bản thảo ấy. Liệu ông ta có thật sự trông mong tôi đọc bản thảo hay là ông ta chỉ cố gắng né tránh việc làm điều gì đó với nó mà không tht sự thẳng thừng từ chối? Bây giờ tôi có khuynh hướng nghĩ rằng ông chỉ dẫn Đại tá Olcott đến kiếm tôi để tránh việc phải từ chối. Tuy nhiên vào lúc đó thì tôi lại giả định rằng mặc dù phương thức tiến hành không phải của một doanh nhân, song ông Bouton tht sự có ư định là tôi nên xem xét tác phẩm ấy và tôi đồng ý đảm nhận nhiệm vụ ấy.

Đây quả thật là mt tài liệu đồ sộ và phô bày công trình khảo cứu trong một địa hạt rất rộng, đòi hỏi phải có s cần cù, quen thuộc với nhiều chủ đề khác nhau, cũng như có ư định đối xử công bằng với người viết. Xét vì mình có nghĩa vụ đạo đức, hành động vì lợi ích của ông Bouton, tôi tỏ ra không ưu ái gì quá mức, mà tôi tin rằng sự công bằng cần phải như thế. Tôi coi là ḿnh có bổn phận nghiêm khắc. Khi tường trình với ông, tôi nêu rõ rằng bản thảo là mt sản phẩm được nghiên cứu công phu và trong chừng mực liên quan tới tư tưởng hiện hành th́ bản thảo có tính chất cách mạng, nhưng tôi nói thêm rằng tôi thấy nó dài quá cho nên nếu xuất bản thì chẳng có lời.

Tuy nhiên ông Bouton hiện nay lại đồng ý xuất bản tác phẩm ấy. Tôi chưa bao giờ biết những điều khoản ràng buộc nhưng những diễn biến sau đó khiến tôi giả định rằng người ta cũng chẳng cân nhắc kỹ lưỡng các điều khoản ràng buộc. Ông có được bản quyền nhân danh bản thân khiến ông có thể kiểm soát được giá cả, và sau đó ông từ chối mọi lời đề nghị chuyển quyền sở hữu cho tác giả hoặc cắt giảm bớt cho chi phí rẻ đi. Ông lại giao bản thảo sang cho tôi với huấn lệnh là cắt xén đi sao cho nó càng ngắn càng tốt. Đây là việc có quyền tha hồ quyết định nhưng chẳng dễ chịu chút nào. Thật khó lòng mà công bằng khi người ta chỉ hành động vì lợi ích của nhà xuất bản mà lại có được một quyền hành đến mức đó đối với tác phẩm của một tác giả. Tuy nhiên tôi cũng đảm nhận nhiệm vụ ấy. Trong khi rút gọn tác phẩm lại, hễ có dịp là tôi giữ nguyên tư tưởng của tác giả bằng một ngôn ngữ rành mạch, chỉ cắt bỏ đi những thuật ngữ và vấn đề nào xét ra có vẻ thừa thải và không cần thiết cho mục đích chính. Bằng cách này tôi đã cắt xén đi khá nhiều đủ để chứa đầy trong một quyển sách có tầm cỡ đáng kể. Khi làm nhựy tôi chỉ cân nhắc điều mà tôi giả sử là lợi ích của ông Bouton, và tin rằng ông muốn nhựy còn tôi chỉ làm theo lệnh ông. Nhưng đó tỏ ra chỉ là một “việc lao động vất vả vì tình yêu”.

Đại tá Olcott rất muốn tôi làm quen với bà Blavatsky. Ông dường như đánh giá bà rất cao gần tới mức sùng bái và cho rằng bất cứ ai có dịp được biết bà ắt phài là mt ưu ái hiếm có. Tôi hầu như không thể chia xẻ được cái bầu nhiệt huyết ấy. Vì tự nhiên là ngần ngại không muốn làm quen thêm nữa và lại đang đóng vai trò kẻ phê bình bản thảo ca bà cho nên do dự trong mt thời gian dài. Tuy nhiên rốt cuộc thì tôi cũng bỏ qua những điều cân nhắc ấy để tháp tùng ông đi tới cơ ngơi của hai người tại đường Phố 47. Đó là một “khu nhà phố” theo cái kiểu chỗ ở chẳng giống nhựt căn nhà giờ đây đang lan tỏa khắp đô thị đông dân, và thay thế cho mối quan hệ gia đình truyền thống bất cứ nơi đâu mà nó còn chiếm ưu thế. Dinh cơ mà hai người sống ở đó đã được “cải biến” theo mục đích ấy, họ ở trong một dãy phòng chung cư thuộc tầng trên lầu. Trong trường hợp này thì gia đình bao gồm nhiều cá nhân với những công việc khác nhau. Họ thường ̣p nhau vào lúc ăn cơm cùng với những người khác ở đâu đó ngẫu nhiên tới ghé thăm.

Phòng ăn được trang bị theo kiểu đơn giản, không giả vờ bắt chước bất cứ điều gì khác thường hoặc phi thường. Có lẽ tôi phải nói thêm rằng về sau th́ tình huống này đã bị thay đổi hoàn toàn. Mùa thu năm 1879 có đặc trưng là những tán lá cây sặc sỡ mà tôi chưa bao giờ được quan sát từ đó trở đi. Nhiều cuộc dã ngoại đi thăm những khu vườn xung quanh đó giúp người ta mang về những chiếc lá có màu sắc với mục đích để trang trí. Bằng cách này một trong những người nội trú ở khu nhà phố ấy, một người nước ngoài có liên quan tới nhóm huynh đệ Thông Thiên Hc đã kiếm được một số lớn lá cây và khởi sự dùng chúng để trang điểm cho phòng ăn. Bà tạo ra nhiều hình dưới dạng huy hiệu mà chính yếu là biểu tượng tam giác kép. Thế rồi bà nối tiếp bằng một phong cảnh Đông phương chạy suốt chiều dài của khu chung cư. Ở đó người ta thấy có hình con voi, con khỉ và những con vật khác cùng với một người đang đứng im như thể chiêm ngưỡng phong cảnh. Sự trang trí này còn mãi qua mùa đông cho tới khi những người trong nhà chia tay nhau. Thế rồi tôi mang nó theo về Newark rồi lắp đặt nó vào mt sảnh đường. Nó tồn tại ở đây trong nhiều năm. Khi ông G. R. S. Mead đến viếng thăm tôi thì nó vẫn còn ở đó. Về sau tôi gửi nó cho cô Caroline Hancock ở Sacramento và đến lượt cô trình bày nó cho Hội Thông Thiên Hc ở San Fransico. Chắc chắn là từ lâu rồi nó đã chịu số phận của những đồ đạc bị mục nát. Nhưng ngay từ thời sơ khai nó đã nổi tiếng bởi được khách viếng thăm ngưỡng mộ v́ quan niệm khéo léo và tân kỳ, có nhiều tờ báo xuất bản bài mô tả nó.

Văn phòng mà bà Blavatsky sống và làm việc trong đó được bài trí theo một kiểu kỳ quặc và rất thô sơ. Đó là một căn phòng lớn ợ̉t tiền, ngay ở bên phía kế cận đường phố, được thắp sáng đầy đủ. Ở giữa căn phòng là “phòng riêng” của bà, một nơi được rào lại cả ba phía bằng những vách ngăn tạm bợ trong đó có bàn viết và nhng kệ đựng sách. Bà bố trí nó sao cho thuận tiện đến mức độc nhất vô nhị. Trong cái khuôn viên ấy bà chỉ cần thò tay ra là lấy được một quyển sách, một tờ báo hoặc món đồ nào khác mà bà đang cần. Nơi chốn ấy không phù hợp với một ý thức thẩm mỹ linh hoạt ngoại trừ theo quan điểm cổ điển của Hi Lạp, theo đó mỹ lệ là thích ứng được với mục đích, cho nên mọi điều mỹ lệ chắc chắn là thuận lợi và gọn ghẽ. Bà Blavatsky làm vương làm tướng ở nơi chốn này, ra lệnh, đưa ra những phán xét, tiến hành việc liên lạc bằng thư tín, tiếp khách và viết ra bản thảo của quyển sách.

Xét về phong cách hoặc vẹ̉t th́ bà chẳng giống gì với điều mà tôi mong đợi. Bà cao nhưng lại không cân đối, nét mặt bà mang dáng vẻ và phô bày đặc trưng của một người đã từng thấy nhiều, nghĩ nhiều, đi lại nhiều và trải nghiệm nhiều. Gương mặt bà nhắc tôi nhớ tới lời mô tả mà Hippocrate viết về giống dân Scyths, giống dân mà có lẽ bà thoát thai từ đó. Tôi thấy mình không đủ khả năng mô tả y phục của bà, thật ra thì tôi chẳng bao giờ để ý cho nên làm sao mà nhớ nổi. Tôi là đàn ông cho nên ít khi săm soi xiêm y của phụ nữ. Tôi chỉ chú ý tới cá nhân và nếu người đó ăṇc không khác hẳn phong cách thời thượng thì tôi chẳng thể nào nói về cách ăn mặc đó một cách thông minh hoặc dễ hiểu. Tôi có th nói là bà ăn mặc chỉnh tề. Dáng vẻ của bà chắc chắn là gây nhiều ấn tượng, nhưng bà tuyệt nhiên không thô lỗ, vụng về hoặc mất dạy. Mặt khác bà tỏ ra có văn hóa, quen thuộc với những phong cách của xã hội thanh lịch nhất cũng như phép xã giao chân chính. Bà phát biểu ý kiến một cách táo bạo và quả quyết nhưng lại không sỗ sàng. Dễ dàng nhận thấy rằng bà không chịu khép mình trong khuôn khổ hạn hẹp của nền giáo dục thông thường đối với phụ nữ; bà biết rất nhiều đề tài và có thể thoải mái thuyết trình về chúng.

Xét về nhiều chi tiết th́ tôi giả sử rằng mình chưa bao giờ hiểu được bà một cách khá nhiều hoặc đầy đủ. Có lẽ điều này vượt xa mức mà tôi sẵn lòng thừa nhận. Tôi có nghe nói bà từng biểu diễn thần thông v nhng diễn biến phi thường có thể được coi là phép lạ. Cũng giống như Hamlet, tôi tin rằng trên trời dưới đất có nhiều điều hơn mức những người khôn ngoan thuộc thời đại này sẵn lòng tn tưởng. Nhưng bà Blavatsky chẳng bao giờ rêu rao với tôi như thế. Chúng tôi luôn luôn đàm đạo về những đề tài quen thuộc với cả đôi bên, với tư cách là những cá nhân trên một bình diện chung. Đại tá Olcott thường nói với tôi coi đó là việc có mt cợi lớn, nhưng bản thân bà chẳng ra vẻ làm phách chút nào. Tôi cũng chưa bao giờ trông thấy hoặc biết tới bất kỳ điu nào như thế xảy ra với bất kỳ người nào khác.

Tuy nhiên bà có tuyên bố rằng mình có giao tiếp với những nhân vật được gọi là “các Huynh Trưởng” và đôi khi bà nói bóng gió là có dùng một tác nhân hoặc những phương tiện tương tự như cái gọi là “thần giao cách cảm”. Chẳng cần chứng tỏ hoặc khăng khăng cho rằng cái phương tiện truyền thông này đã được biết tới ḥc thậm chí được tiến hành từ thời xa xưa. Ở Đông phương người ta biết rõ về Khabar. Tôi giả sử rằng có một điều kiện quan trọng cho khả năng duy trì sự giao tiếp ấy, đó là việc kiêng cử mọi sự kích thích nhân tạo, chẳng hạn như ăn thịt, uống rượu hoặc dùng các chất gây nghiện khác. Tôi không cho những thứ đó đặc biệt là không hợp đạo đức nhưng tôi phỏng đoán rằng việc điều độ như thế là thiết yếu để cho người ta triển khai trọn vẹn được những quyền năng trí tuệ và năng lực tinh thần được tha hồ tung hoành không bị cản trở hoặc ô nhiễm do ảnh hưởng của những thứ thấp hèn. Nhưng chẳng hề thấy bà Blavatsky tu khổ hạnh như thế. Bàn ăn của bà được cấp dưỡng đầy đụ̉c dù không thừa mứa theo một cách thức chẳng khác gì bàn ăn của những người nội trợ khác. Ngoài ra bà còn tha hồ hút thuốc lá và hễ có dịp là bà lại hút thuốc. Tôi chưa bao giờ thấy có bằng chứng nào cho rằng những điều đó làm xáo trộn hoặc tuyệt nhiên gây cản trở cho sự nhạy bén hoặc hoạt động trí tuệ của bà.

Lần đầu tiên tôi đến thăm thì bà tiếp đãi rất lịch sự và thậm chí thân thiện nữa. Bà dường như làm quen ngay tức khắc được với tôi. Bà nói v nhng đoạn rút ngắn mà tôi đóng góp cho bản thảo của bà, không tiếc lời ca tụng những điều tôi làm quá mức mà nó xứng đáng. Bà tuyên bố: “Mấy thứ mà ông cắt bỏ đi toàn là chuyện vớ vẩn”. Chắc chắn là tôi cũng không xét đoán nghiệt ngã như thế. Tôi không bới lông tìm vết mà chỉ tìm biết xem nên cô đọng bản thảo ra sao mà không ảnh hưởng tới mục đích chung. Có những trường hợp khác mà qui tắc của tôi là rà soát kỹ bản thảo chưa in ra theo kiểu bới lông tìm vết, nhưng khi nó đă được in ra rồi thì tôi chỉ tìm xem ư nghĩa và công trạng của nó ra sao. Song le trong trường hợp này thì tôi chỉ nhắm mục đích rút gọn tác phẩm mà không làm hỏng nó. Tuy nhiên tôi xin nói rõ là, tht ra khi xuất bản tác phẩm này, sau khi ông Bouton đă bắt đầu làm việc rồi mà bà Blavatsky vẫn cứ tiếp tục viết thêm đề tài này đề tài nọ và tôi nghĩ rằng khá nhiều điu trong quyển II được viết vào lúc đó. Tôi chẳng nhớ được gì nhiều về điều này, ngoại trừ những bản in thử thời kỳ sau.

Chẳng dễ gì mà tìm ra một tựa đề thích hợp cho ấn phẩm ấy. Tôi không nhớ là người ta có đề nghị tôi phục vụ cho vấn đề ấy không. Và chắc chắn là cũng chẳng đáng đề nghị yêu cầu như thế. Đây là mt địa hạt mà tôi đặc biệt yếu kém. Tôi cũng chẳng nghĩ ra được mt tên gọi nào ngoại lệ đáng được chọn dùng.

Ông Bouton lại có năng lực đặc biệt về điều ấy. Ông là một người có tài cung cấp trong thế giới bán sách nhưng ông có năng khiếu kinh doanh hơn là có ý thức thích đáng. Có lần ông xuất bản bộ khảo luận của Hiệp sĩ R. Payane bàn về Nghệ thuật Cổ truyền và có thêm vào những bức tranh có liên quan tới thần thoại Ấn độ và hoàn toàn xa lạ với đề tài ấy. Tác phẩm này của bà Blavatsky phần lớn dựa vào giả thuyết về thời kỳ tiền sử của giống dân Aryen ở Ấn Độ, trong thời kỳ đó ta khó lòng mà nói được rằng việc vén màn hoặc che màn Nữ thần Isis đóng một vai trò đặc biệt nào. Ngược lại, đó là việc biểu diễn đầy kịch tính đặc biệt liên quan tới tôn giáo và minh triết của Ai Cập, có lẽ là liên kết với những sự tàn ác của các vị vua Hyksos ở Syria. Chắc chắn là những vấn đề thuộc kho tàng học thuật Ai Cập phải được xem xét bằng những ngòi bút khác hơn những gì được dùng để viết ra tác phẩm “Vén Màn Bí Mật Nữ Thần Isis”.

Sau khi tác phẩm đã được in ra và thương mại hóa th́ người ta có bàn luận về quyền tác giả thật sự. Nhiều người không sẵn lòng thừa nhận bà Blavatsky có đủ thông tin hoặc có khả năng trí thức để tạo ra một sản phẩm như thế. Quả thật là có những phụ nữ như Frances Burney đã soạn ra những bài nhạc diễm tình được đánh giá rất cao. Cô Farley đã thành công khi làm nhạc trưởng trình bày bản “Cung hiến Lowell”. Mary Somerwill đã viết về Khoa học Vật lý, còn Harriet Martineau viết về Khoa Kinh tế Chính trị học.

Tôi nghe nói một giáo sĩ ở New York, thuộc Giáo hội Chính thống Hi Lạp Nga đã khẳng định rằng tôi mới tht sự là tác giả. Tuy nhiên bản tường trình ấy chẳng lan rộng được bao nhiêu. Nó cũng bị bác bỏ theo cái cách mà ông Henry Ward Beecher đã quá cố chặn đứng một bản tường trình tương tự. Ông bảo chúng tôi rằng khi quyển Túp lều của chú Tom được xuất bản thì có nhiều người cứ khắng khăng cho rằng chính mình chứ không phải bà Stowe là tác giả quyển ấy. Ông Beecher nói: “Thế rồi tôi viết bài Norwood hoàn toàn giải quyết được vấn đề ấy. Cũng thế, chẳng ai quen thuộc với cách hành văn của tôi mà lại gán cho tôi là tác giả quyển Vén Màn Bí Mật Nữ Thần Isis.

Tôi cũng do dự vì được người ta đánh giá cao theo ý nghĩa nổi tiếng là người biên tập tác phẩm này. Quả thật sau khi ông đồng ý làm người xuất bản th́ tôi được yêu cầu đọc bản in thử để đoan chắc rằng nhà in đã in chính xác những từ tiếng Hebrew và những thuật ngữ khác thuộc về những ngôn ngữ khác, nhưng tôi đâu có thêm vào điều gì và tôi cũng chẳng nhớ liệu mình có đánh bạo kiểm soát bất cứ thứ gì được đóng góp cho tác phẩm hay chăng. Nếu không có kiến thức và sự chuẩn y của bà thì hành động như thế ắt là dễ sợ.

Trong khi bà dấn thân viết tác phẩm này th́ bà có nhiều quyển sách liên quan tới đủ mọi đề tài, hiển nhiên là để bà tham khảo. Có tác phẩm của Jacolliot viết về Ấn Độ, tác phẩm của Bunsen viết về Ai Cập, quyển Lịch sử Pháp thuật của Ennermoser và những người khác. Bản thân tôi có viết đủ thứ tài liệu về nhiều đề tài khác nhau cho Tạp chí Não Tướng Học và các tạp chí khác thế mà bà cũng kiếm được nhiều tác phẩm ấy. Chúng tôi thường thảo luận về các chủ đề và đủ thứ đặc trưng của chúng vì bà là mt người đàm đạo thượng hạng, am tường mọi vấn đề mà chúng tôi trao đổi. Bà nói tiếng Anh lưu loát như người hoàn toàn quen thuộc với nó và thường suy nghĩ bằng tiếng Anh. Điều này dường như thể tôi đang nói chuyện với bất cứ người nào mà tôi quen biết. Bà sẵn sàng tiếp nhận ý tưởng được phát biểu để rồi bộc lộ tư tưởng của chính mình một cách minh bạch, ngắn gọn và thường rắn rỏi. Một số từ mà bà dùng có những đặc trưng biểu thị nguồn gốc của chúng. Bất cứ thứ gì mà bà không tán thành hoặc coi trọng thì bà nhanh chóng bác bỏ là “chuyện vớ vẩn”. Tôi chưa bao giờ nghe nói hoặc gặp từ ngữ này ở bất cứ nơi nào khác. Ngay cả những đề án hoặc dự án của Đại tá Olcott cũng không thoát khỏi sự gay gắt ấy và thật ra ông cũng thường bị bà phê phán chua cay. Lúc đó thì ông bực tức nhưng ngoại trừ việc phản ứng ngắn gọn ngay tức thời thì dường như ông không để bụng hậm hực.

Xét về tính chân thực trong vấn đề quyền tác giả th́ người ta có lần kể cho tôi nghe một câu chuyện mà một số người đã tưởng tượng là có liên quan trực tiếp tới vấn đề này. Tôi giả sử rằng đây chính là dịp để cho nhiều bức thư gửi đến tôi bàn về đề tài ấy. Người báo tin cho tôi là bà Elizabeth Thompson đã quá cố ở Boston. Bà Thompson là người phụ nữ giàu sang, có nhiều chủ trương đầy nhã ý nhưng có máu khoái điu mới lạ và ít nhiều mợng, đeo đuổi hết chuyện này sang chuyện khác và dễ được tâng bốc nịnh bợ. Chẳng hạn như bà tặng tiền bạc giúp cho trường y khoa tổ chức nhiều khóa học giảng bài rồi lại để cho sự việc đó chìm xuồng; bà trả tiền để xây dựng một nhà nguyện dành cho khóa học Trường hè về Trết lý ở Concord, thế rồi bà lại đâm ra chán cái công việc ấy; bà giúp bác sĩ Newbrough có tiền để in quyển thánh kinh mới Oahspe, và sử dụng ông họa sĩ Frank Carpenter để vẽ bức tranh Tổng thống Lincoln cùng với phòng làm việc của ông để bà tặng cho Quốc hội. Của cải mà chồng bà để thừa kế cho bà trở thành miếng mồi ngon cho đủ thứ ăn bám mò tới kiếm bà và khéo léo nịnh bợ thường giống như câu thần chú “Vừng ơi hãy mở cửa ra”, chắc chắn là chỉ để tìm cách móc túi bà. Nhưng bà nhanh chóng bỏ rơi hết người này tới người khác.

Có một thời gian ngắn bà bị thu hút về phía bà Blavatsky. Điều này cũng gây khá nhiều ngạc nhiên vì tht khó mà tưởng tượng rằng bà Blavatsky lại đi nịnh bợ bất cứ ai. Bà đã từng không ngần ngại bảo cho Henry Ward Beecher rằng ông không phải là một nhà giáo trung thực trước công luận khi ông đạt đỉnh cao được dân chúng ngưỡng mộ.

Do đó có thể nghi vấn chẳng biết bà Thompson có hoàn toàn thành thật hay chăng. Tôi nhớ có lần gặp được bà một ngày kia vào dịp dùng cơm tối trong khu nhà phố. Một phát biểu mà tôi thốt ra được Đại tá Olcott gán cho “Ánh sáng tinh tú”.

Vài ngày sau, khi tôi tiễn chân bà Thompson thì bà hỏi ý kiến tôi theo cái kiểu tạo ấn tượng cho tôi thấy rằng bà hầu như không được thẳng thắn trong mối quan hệ với gia đình Thông Thiên Hc.

Khoảng một năm sau đó, gia đình Thông Thiên Hc rời New Yord đi Ấn Độ. Bà Thompson trở thành một người tham gia vào gia đình của bác sĩ Newbrough ở số 34 đường phố phía Tây. Ông ấy đang nỗ lực cho lưu hành quyển “thánh kinh mới” của ḿnh. Tôi ghé thăm đó một ngày kia do lởi mời và khi biết rằng bà có những căn phòng riêng trong tòa nhà ấy thì tôi có tới thăm bà để tò lòng tôn kính. Trong khi đàm đạo, chúng tôi có nhắc tới bà Blavatsky và bà Thompson có nói nguyên văn như sau:

“Nếu bà Blavatsky đến tận cửa này thì tôi sẽ ôm hôn bà thắm thiết. Nhưng đồng thời tôi lại tin rằng bà ấy hoàn toàn phỉnh gạt”.

Thế rồi bà kể lại câu chụn sau đây: Nam tước Palm, là một nhà quí tộc người Đức đã sống một thời gian ở xứ sở này và chết ợ̉nh viện Roosevelt. Ông đã dành nhiều chú tâm tới những đề tài bí hiểm và có viết về những đề tài ấy. Ông chơi thân với nhóm người ở đường phố thứ 47 và tặng lại tài sản cho họ nhưng phải bảo đảm rằng xác ông sẽ được đem thiêu. Trong nhà dường như có một người phụ nữ trở nên không thân thiện và sẵn sàng phát biểu bừa bãi. Bà bảo bà Thompson rằng sau khi Nam tước chết thì bà ở với bà Blavatsky để khám xét những gì đựng trong rương của Nam tước. Người phụ nữ ấy bảo rằng một trong những rương có chứa đầy bản thảo. Bà Blavatsky đọc lướt qua một vài trang bản thảo rồi vội vã đóng nắp rương lại cố gắng đánh lạc hướng chú ý của mọi người.

Hiển nhiên bà Thompson tin rằng bản thảo đó là tài liệu để viết tác phẩm Vén Màn Bí Mật Nữ Thần Isis. Chắc chắn là bà cố gắng gây cho tôi ấn tượng ấy. Nhưng tôi không ưa nghe những lời bóng gió và cũng chẳng thích người khác giả định rằng tôi hàm ý nói điều mà tôi không nói huỵch toẹt ra. Việc nói bóng gió khó lòng là một thói quen đáng tôn trọng; đó chỉ là việc né tránh và thường là chỉ giả vờ có biết một điều gì đó vượt ngoài mức được truyền đạt trực tiếp. Tôi chẳng bao giờ dùng tới cái câu chuyện ấy và chỉ̉ lại cho bác sĩ R. B. Westbrook ở Philadelphia và kể cho Đại tá Olcott khi ông gặp tôi lần kế tiếp ở New York.

Nhiều người đã viết thư làm ra như thể tôi có biết một đều ǵ đó gây mất uy tín cho sự thành thật của bà Blavatsky, và việc bộ Vén Màn Bí Mật Nữ Thần Isis quả thật là tân kỳ. Tôi xin trả lời rằng bà luôn luôn đối xử công tâm với tôi, và tôi không có bẩm tính nói về bà không tử tế. Tôi luôn luôn ngụ ý tránh việc bợ đỡ hoặc cả tin, nhưng tôi ắt không báo đáp việc đối xử công bằng qua việc nói xấu hoặc không thân thiện với người khác.

Người ta dễ dàng nhận thấy rằng thật ra không đủ bằng chứng để bảo đảm việc gán quyền tác giả của bộ Vén Màn Bí Mật Nữ Thần Isis cho Nam tước Palm. Tôi chẳng biết liệu ông có thể viết tiếng Anh lưu loát hay chăng v́ ông sinh trưởng ở nước ngoài. Người ta đâu có biết liệu bản thảo trong cái rương được viết để xuất bản hay chỉ là một dạng sách thích hợp nào thôi. Tht vậy, tôi chưa bao giờ được biết liệu ông ấy có trù tính làm việc đó hay chăng, thậm chí liệu ông có đủ khả năng làm việc đó hay chăng. Mọi điều đó cần phải được xét cho là đương nhiên thì ta mới bắt đầu có thể giả định rằng có sự giả mạo về quyền tác giả.

Tôi biết chắc rằng bản thảo mà tôi xử trí là do bà Blavatsky viết bằng tay ra. Bất cứ ai quen thuộc với bà mà có đọc quyển đầu tiên trong bộ Vén Màn Bí Mật Nữ Thần Isis đều chẳng khó khăn gì mà nhận ra rằng bà là tác giả. Bản thảo ấy mặc dù đồ sộ nhưng đâu có đủ bao la để chứa gọn trong một cái rương lớn chất đầy giấy tờ đã viết sẵn. Ngoài ra một quyển thứ ba hoặc thậm chí còn nhiều hơn nữa đối với những gì được xuất bản đã do bà Blavatsky viết ra sau khi ông Bouton bắt tay vào việc đem in tác phẩm ấy. Bà tuyệt nhiên không phải là chuyên gia về việc soạn tài liệu. Bà vá víu và thay đổi luôn tạo ra một bản kê rất đồ sộ những điều cần “chỉnh lý”. Đúng ra bà chưa bao giờ tht sự hoàn chỉnh tác phẩm ấy cho đến khi nhà xuất bản bảo bà phải ngưng lại (nhà xuất bản có tuyên bố với tôi như thế).

Người ta muốn tôi đọc bản in thử. Tôi không có thẩm quyền đọc cho viết hoặc thậm chí gợi ý điu phải được bao gồm trong tác phẩm này và tôi cũng chẳng nhớ mình có một lần nào chấp nhận ngoại lệ ấy chăng. Bà có mô tạ̉t phép chữa bệnh nào đó mà xét theo biểu kiến là tán thành việc dùng thủy ngân làm một yếu tố chữa bệnh. Suốt đời tôi vẫn có ác cảm với cái loại thuốc ấy. Tôi đã từng thấy nhiều cá nhân thiệt mạng vì dùng thủy ngân làm thuốc còn những người khác thì bị què quặt một cách tuyệt vọng. Lời phản đối của tôi có thể đã buộc bà bớt đi lời tán dương thuốc ấy.

Bà luôn luôn đối xử lịch sự với tôi. Khi bà phải làm việc hối hả nhất hoặc khi bà đã chán ngán khách viếng thăm th́ bà ra lệnh cho người gác cửa xua đuổi mọi khách ghé thăm. Cái lệnh ấy được nói đi nói lại với tôi nhiều lần nhưng hễ khi bà nghe tiếng tôi gọi th́ bà lại gọi vói ra ngoài để chịu tiếp tôi. Điều này xảy ra khi cuộc ghé thăm không phải là chụn kinh doanh. Bà sẵn sàng trò chuyện và am tường về bất cứ chủ đề nào cho dù nó bí hiểm đến đâu đi chăng nữa. Ít người nào trên mọi ngã đường đời mà lại được trang bị đầy đủ tài liệu để đàm đạo như thế. Ngay cả Đại tá Olcott (vốn tuyệt nhiên không hèn kém hoặc tầm thường) cũng không bì với bà được ngoại trừ trong nghề nghiệp chuyên môn của chính ông.

Vì tin rằng phần chính yếu trong tác phẩm không đủ hấp dẫn đối với người mua sách cho nên tôi khuyến cáo bà nên bao gồm trong đó những bài tường trình về những chuyện mầu nhiệm mà bà đã quan sát thấy ở Ấn Độ. Nhưng bà khăng khăng từ chối làm như thế và bảo rằng các “Huynh trưởng” không cho phép. Đây là mt phiên tòa mà tôi không thể nghi vấn; vì sự khôn ngoan của tôi về vấn đề này chỉ là thói khôn vặt ở nơi chợ búa. Nhưng bà sẵn sàng luôn luôn nghe những điều buộc tôi phải nói hoặc là liên quan tới tác phẩm của bà hoặc là về những vấn đề triết lý hay là những đề tài của đời sống thường ngày. Khi nhà in đã sắp chữ được hết mọi thứ thì người ta sử dụng tôi để biên soạn chỉ mục. Người khác ắt phải thẩm định xem liệu tôi có làm điều đó trung thực hay chăng. V́ tác giả thì được trả tiền, còn nhà xuất bản không chịu ứng trước một xu cho mọi thứ mà tôi làm về vấn đề này mặc dù vẫn cẩn thận tính hết mọi thứ thu được do việc bán sách, cho nên đó chẳng qua chỉ là việc thừa nhận điều cần phải làm.

Cuối cùng thì tác phẩm cũng hoàn tất và bộ Vén Màn Bí Mật Nữ Thần Isis được phát hành đúng kỳ hạn. Cả nhà bắt đầu một lần nữa dọn dẹp để rời New York. Bà Blavatsky đi đến Sở Nhập Tịch và ở đó bà trở thành công dân Mỹ. Điều này làm tôi sửng sốt, một phần vì tôi đã biết bà dự tính rời bỏ xứ sở này thường xuyên và mt phần vì bà thoải mái chỉ trích phương thức làm ăn và nền chính trị của chúng tôi. Bà giải thích rằng nước Mỹ có một chính quyền tốt nhất thế giới. Có thể có những vấn đề luật pháp rắc rối mà tôi cũng chẳng biết nữa. Đại tá Olcott là một luật sư có tài và được nhà cầm quyền ở Washington sử dụng để moi móc những sự vi phạm pháp luật mà người ta giả định, ông biết việc gì cần thiết để cho người nước ngoài tự̣. Vì sau khi đến Ấn Độ cả nhóm đã trở thành đối tượng nghi ngờ có thể làm gián điệp cho Chính quyền nước Nga, nên rất có thể là thật khôn ngoan khi phòng hờ nhựy.

Sau khi tới Bombay thì bà Blavatsky có nhiều lần viết thư cho tôi. Bà nói về nhiều đề tài thú vị đối với một học viên về tôn giáo đối chiếu chẳng hạn như tôi, thư của bà vừa là thứ giải trí vừa là thứ để học. Nhưng khi thời gian trôi qua thì những nhiệm vụ mới đã thay thế cho những hồi ức xưa cũ. Có những biến cố xảy ra chẳng hạn như việc cắt đứt quan hệ với Dayananda, là thủ lãnh của Arya Samaj, liên minh không tự nhiên của những người Mỹ đối với những bậc tiền bối theo đạo Tin lành, họ chẳng thích bất cứ ai đàn áp đức tin tôn giáo của họ. Tuy nhiên, Tạp chí Nhà Thông Thiên Hc vẫn đều đều gởi đến cho tôi và tôi vẫn bảo quản nó từ số đầu tiên. Việc này có thể giúp tôi theo dõi nhóm người Thông Thiên Hc ấy để xem họ làm gì mãi cho tới khi hết đời sinh hoạt trên trần thế kiếp này.

 

LỜI NÓI ĐẦU

Tác phẩm giờ đây được đệ trình cho công luận phán xét là thành quả việc quen biết khá thân mật với các bậc cao đồ Đông phương để nghiên cứu khoa học của các ngài. Nó được hiến dâng cho những người nào sẵn lòng chấp nhận sự thật dù phát hiện nó ở bất cứ nơi đâu và bảo vệ sự thật ấy ngay cả khi phải đương đầu với thành kiến thông tục. Đó là một toan tính dành giúp cho học viên dò tìm được những nguyên tắc có tầm sống còn vốn là nền tảng của các hệ thống triết học thời xưa.

Tác phẩm này được viết ra hết sức chân thành. Nó có ngụ ý muốn đem lại sự công bằng nói ra sự thật mà không mang ác ý hoặc thành kiến. Nhưng nó không nương tay đối với những sai lầm đã được sùng bái và cũng không nễ vì thẩm quyền bị tiếm đoạt. Nó đòi hỏi phải phục hồi một quá khứ  bị cưỡng đoạt vì việc tín nhiệm những thành tựu của quá khứ ấy đã bị kềm hảm quá lâu dài. Nó kêu gọi phải tước bỏ những bộ áo đi vay mượn và minh oan cho những danh tiếng lẫy lừng nhưng bị vu khống. Sự chỉ trích của nó không nhắm tới bất kỳ dạng sùng bái nào, tín ngưỡng tôn giáo nào, giả thuyết khoa học nào mà không theo đúng tinh thần nêu trên. Con người và các phe phái, giáo phái và trường phái chẳng qua chỉ là phù du đối với thời buổi ngày nay trên thế giới. Chỉ có SỰ THẬT chễm chệ trên tảng đá rắn chắc mới là vĩnh hằng và tối cao.

Chúng tôi không tin vào Pháp thuật vốn siêu việt sự hiểu biết và năng lực của tâm trí con người, cũng không tin vào “phép lạ” cho dù của thần linh hay ma quỉ nếu pháp thuật hay phép lạ đó hàm ý sự vi phạm những định luật của thiên nhiên đã được thiết lập từ ngàn đời. Tuy nhiên chúng tôi chấp nhận lời nói ca tác giả thiên tài của Festus, theo đó tâm hồn con người chưa hoàn toàn được bộc lộ hết, và chúng ta chưa bao giờ đạt được hoặc thậm chí hiểu được quyền năng của nó. Liệu có quá đáng chăng khi tin rằng con người phải phát triển được sự nhạy cảm mới mẻ và quan hệ̣t thiết với thiên nhiên? Phép lý luận về tiến hóa phải giảng dạy được rất nhiều nếu ta đẩy nó tới những kết luận chính đáng. Nếu ở đâu đó, theo đường lối thăng lên từ thực vật hay khi một linh hồn được tiến hóa lên tới mức con người cao thượng nhất vì được phú cho những phẩm chất trí tuệ, thì cũng chẳng có chi là phi lý khi suy luận và tin rằng một năng khiếu nhận thức cũng đang tăng trưởng nơi con người khiến cho y có thể nhận ra được những sự kiện và sự thật thậm chí vượt ngoài tầm hiểu biết ca ta. Thế nhưng  chúng tôi cũng không ngần ngại lời khẳng định của Biffé, theo đó “điều cốt yếu bao giờ cũng vẫn như thế. Cho dù chúng ta khoét một khối đá hoa cương để che giấu cái pho tượng trong khối đá đó hoặc chồng chất hết tảng đá này lên tảng đá kia ở bên ngoài cho tới khi hoàn tất được đền thờ, thì kết quả MỚI của ta chỉ là một ý tưởng cũ kỹ. Điều mới nhất trong mọi sự thật vĩnh hằng ắt có sứ mệnh với một nửa linh hồn kia gắn bó với điều vĩnh hằng xưa nhất”.

Khi cách đây nhiều năm, chúng tôi lần đầu tiên du hành sang phương Đông để thám hiểm thâm cung những thánh điện bị bỏ hoang của nó thì có hai thắc mắc đầy phiền não cứ lẩn quẩn đè nặng lên tư tưởng chúng tôi: Thượng Đế ở đâu, ngài là AI hoặc là cái gì? Có ai đă từng thy TINH THẦN BẤT TỬ của con người khiến cho ngài có thể đoan chắc với bản thể mình về tính bất tử của con người hay chăng?

Chính trong khi băn khoăn nhiều nhất đ giải quyết những vấn đề gây rối trí này, chúng tôi tiếp xúc một vài người được phú cho những quyền năng huyền bí và sự hiểu biết sâu sắc đến nỗi chúng tôi có t̉ thật sự gọi các ngài là các bậc hiền triết ở Đông phương. Chúng tôi sẳn sàng lắng nghe lời giáo huấn của các ngài. Các ngài chứng tỏ cho chúng tôi thấy rằng bằng cách phối hợp khoa học với tôn giáo th́ người ta có thể chứng minh được sự tồn tại của Thượng Đế và tính bất tử của tinh thần con người giống như giải một bài toán hình học Euclide vậy. Lần đầu tiên chúng tôi nhận được lời xác quyết rằng triết học Đông phương không dành một chỗ đứng nào khác cho một niềm tin không giống như việc tin tuyệt đối và không nao núng vào sự toàn năng của chơn ngã bất tử nơi chính con người. Chúng tôi được dạy rằng sự toàn năng này bắt nguồn từ sự tương cận của tinh thần con người với Hồn Vũ Trụ tức Thượng Đế. Các ngài bảo rằng ta chẳng bao giờ chứng tỏ được Thượng Đế nếu không nhờ vào tinh thần con người. Tinh thần con người chứng minh được tinh thần Thượng Đế, cũng giống nhựt giọt nước chứng tỏ cái cội nguồn mà nó phải xuất phát từ đó. Cứ bảo một người chưa bao giờ nhìn thấy nước rằng có một đại dương nước th́ hoặc là y phải chấp nhận nó dựa trên đức tin hoặc là y bác bỏ nó hoàn toàn. Nhưng nếu người ta nhỏ xuống trên bàn tay y một giọt nước th́ bấy giờ y có một sự kiện mà từ đó y có th suy ra được mọi thứ còn lại. Sau đó th́ y có thể từng bước hiểu ra được rằng có tồn tại một đại dương vô biên và sâu thăm thẳm chứa đầy nước. Y không bao giờ còn cần tới đức tin mù quáng nữa; y đã thay đổi nó bằng sự HIỂU BIẾT. Khi người ta chứng kiến một kẻ phàm phu phô diễn được những năng lực ghê gớm, kiểm soát được các lực thiên nhiên và mợ̉ng tầm nhìn sang thế giới vong linh th́ cái trí biết suy tư ắt choáng váng với sự tin chắc rằng nếu Chơn ngă của một người có thể làm được nhiều điều nhựy thì năng lực của CHA TINH THẦN ắt phải tương đối rộng lớn hơn, cũng giống như trọn cả đại dương so với một giọt nước xét về mặt dung lượng và mãnh lực. Không có một điều gì có thể được tạo ra từ hư cho nên khi chứng tỏ được linh hồn con người qua những quyền năng mầu nhiệm của nó th́ bạn cũng chứng tỏ được Thượng Đế!

Trong công trình nghiên cứu của chúng tôi, những điều bí nhiệm tỏ ra không còn bí nhiệm nữa. Những tên tuổi và nơi chốn mà đối với tâm trí người Tây phương chỉ có thể xuất phát từ chuyện ngụ ngôn của Đông phương, lại tỏ ra là những thực tại. Chúng tôi kính cẩn đưa tinh thần lọt vào trong đền thờ nữ thần Isis; vén lên bức màn của “đấng đang, đã và sẽ tồn tại” ở Saïs; nhìn xuyên qua bức màn bị vén lên để thấy Thâm cung Thánh điện ở Jerusalem; và thậm chí còn tham vấn bên trong các hang động đã từng tồn tại bên dưới thánh điện Bath Kol bí nhiệm. Con gái của Diệu Âm đã đáp lời từ cái ngai từ bi bên trong bức màn che ấy [[6]] ; và khoa học, thần học, mọi giả thuyết của con người cũng như mọi quan niệm xuất phát từ sự hiểu biết bất toàn sẽ mãi mãi mất đi tính thẩm quyền của nó trước tầm nhìn của chúng tôi. Thượng Đế sống động duy nhất đã phán bảo qua sấm truyền của ngài tức là con người và chúng tôi đă thỏa mãn. Kiến thức ấy thật là vô giá; nó đã chỉ bị che khuất đối với những kẻ nào bỏ qua nó, chế nhạo nó hoặc chối bỏ sự tồn tại của nó.

Chúng tôi rất e ngại sự phê phán, chỉ trích và có lẽ cả sự thù địch của những người nào như thế, mặc dù những chướng ngại cản đường chúng tôi không hề xuất phát từ việc bằng chứng có căn cứ hay những sự kiện trong lịch sử đã được chứng thực hoặc công chúng mà tôi ngỏ lời với lại thiếu óc phân biệt phải trái thông thường. Ta có thể thấy rõ tư tưởng hiện đại đang trôi giạt theo hướng phóng khoáng về tôn giáo cũng như về khoa học. Mỗi ngày trôi qua đều khiến cho những kẻ phản động tiến gần hơn tới mức họ bắt buộc để cho thẩm quyền độc đoán qui phục lương tâm của công chúng, cái thẩm quyền độc đoán đó họ đã hưởng thụ và vận dụng từ biết bao lâu nay. Khi Giáo hoàng có thể đi đến mức cực đoan nổi giận bài xích tất cả những kẻ nào bênh vực cho tự do ngôn luận và báo chí hoặc khăng khăng đòi rằng khi dân luật và giáo luật xung đột với nhau thì dân luật phải thắng thế hoặc bất cứ phương pháp giáo huấn nào chỉ thuần là thế tục thôi cũng đều có th được ủng hộ [[7]]; còn ông Tyndall với tư cách phát ngôn viên của khoa học thế kỷ 19 tuyên bố rằng: “Ta có thể xác định lập trường bất di bất dịch của khoa học trong một vài từ sau đây: chúng tôi đòi hỏi và sẽ giằng lại từ trong tay thần học trọn cả địa hạt lý thuyết vũ trụ học” [[8]]; thì ta cũng chẳng khó khăn gì trong việc tiên đoán kết thúc của chuyện đó.

Biết bao nhiêu thế kỷ phục tùng đã không hoàn toàn làm đông giá được cái bầu nhiệt huyết của con người thành ra các tinh thể xung quanh hạt nhân tín ngưỡng mù quáng; và thế kỷ 19 đang chứng kiến sự đụng độ của kẻ khổng lồ khi y vứt sợi dây xiềng xích của người tí hon và leo lên chân mình. Ngay cạ̉ng đồng giáo phái Tin lành ở Anh và Mỹ giờ đây cũng dấn thân vào việc duyệt lại bản văn của các Sấm truyền cũng sẽ bắt buộc phải chứng tỏ nguồn gốc và công trạng của chính bản văn ấy. Cái ngày mà các giáo điều áp chế lên con người đã sắp tới lúc cáo chung rồi.

̣y thì tác phẩm của chúng tôi là sự biện bạch cho việc công nhận triết thuyết của Hermes tức Tôn giáo Minh triết đại đồng thế giới thời xưa với vai trò là chìa khóa duy nhất khả hữu về điều Tuyệt đối trong khoa học và thần học. Để chứng tỏ rằng chúng tôi tuyệt nhiên không lờ đi tầm quan trọng trong công trình của mình, chúng tôi xin nói trước rằng thật là không kỳ lạ nếu lớp người sau đây lại câu kết với nhau đ chống lại chúng tôi:

Những Ki Tô hữu nào thấy chúng tôi đang nghi vấn về bằng chứng cho sự đúng đắn trong đức tin của họ.

Những khoa học gia nào tự cho là mình cùng với Giáo hội Công giáo La Mã được vơ đũa cả nắm xếp vào loại không thể sai lầm được và một số trường hợp đặc biệt có những nhà hiền triết và những triết gia của thế giới cổ truyền lại được xếp loại cao hơn chính họ.

Những nhà khoa học ngụy tạo cố nhiên là sẽ tố cáo chúng tôi điên cuồng.

Những nhân viên Giáo hội phóng khoáng và những người tư tưởng Tự do thấy rằng chúng tôi không chấp nhận điều mà họ làm song đòi hỏi phải công nhận trọn cả sự thật.

Những nhà văn và đủ thứ người có thẩm quyền che giấu đức tin thật sự của mình do kiêng nễ thành kiến thông tục.

Những bọn con buôn và những kẻ sống ký sinh qua giới báo chí, họ làm nó bị bại hoại còn hơn cả vương quyền gây hại cho nó, họ làm ô danh một nghề cao quí khi thấy quá dễ dàng trong việc chế nhạo những sự kiện quá mầu nhiệm mà họ không hiểu nổi; đối với họ giá cả của một đoạn báo còn nhiều hơn giá trị của ḷng chân thành. Có nhiều người sẽ phê phán trung thực, nhưng cũng có nhiều người không phê phán trung thực được.

Tuy nhiên chúng tôi trông mong ở tương lai.

Cuộc đấu tranh giờ đây đang tiếp diễn giữa một bên là lương tâm công luận còn một bên là đám phản động đã phát triển được một cung bậc tư tưởng lành mạnh hơn. Cuối cùng thì hầu như nó sẽ có kết quả là lật đổ được sai lầm để cho Sự Thật chiến thắng. Chúng tôi xin lập lại một lần nữa. Chúng tôi đang lao động vất vả vì một ngày mai tươi sáng hơn.

Thế nhưng khi chúng tôi xét tới sự chống đối cay đắng mà chúng tôi phải đương đầu th́ còn ai có thẩm quyền hơn chúng tôi khi bước vào đấu trường mà lại khắc lên trên cái khiên mộc của ḿnh lời tung hô của dũng sĩ giác đấu La Mã đối với hoàng đế Cæsar: KẺ TỰ̉I XIN CHÀO ĐỨC HOÀNG ĐẾ.

New York tháng 9 năm 1877.

MỤC LỤC [[9]]

Chú thích của Nhà Xuất bản

Lời Nói Đầu

ĐỨNG TRƯỚC BỨC MÀN.

- Những điều giả định đầy giáo điều của khoa học hiện đại và Thần học.

- Triết thuyết Platon cung ứng thuyết trung dung duy nhất.

- Duyệt lại các hệ thống triết học thời xưa.

- Một bản thảo của Syria bàn về Simon Magus

- Chú giải các thuật ngữ được dùng trong quyển sách này.

QUYỂN I

KHOA HỌC HIỆN ĐẠI “KHÔNG THỂ SAI LẦM”

CHƯƠNG I

NHỮNG ĐIỀU CŨ ĐƯỢC MANG TÊN GỌI MỚI.

- Kinh Kabala của Đông phương.

- Các truyền thuyết xưa được sự nghiên cứu hiện đại ủng hộ.

- Sự tiến bộ của loài người được ghi dấu qua các chu kỳ.

- Khoa học bí truyền thời xưa.

- Sự vô giá của bộ kinh Phệ đà.

- Sự cắt xén những quyển Thánh kinh Do Thái giáo trong khi dịch thuật.

- Pháp thuật luôn luôn được coi là một khoa học thiêng liêng.

- Thành tựu của các cao đồ pháp thuật và giả thuyết của những kẻ hiện đại chỉ biết dèm pha.

- Con người khao khát được bất tử.

CHƯƠNG II

CÁC HIỆN TƯỢNG PHÉP LẠ VÀ THẦN LỰC.

- Sự nô dịch của xã hội.

- Thành kiến và sự ngu tín của các nhà khoa học.

- Họ bị các hiện tượng thông linh săn đuổi.

- Các bí thuật đã thất truyền.

- Ý chí của con người là chủ lực trong các thần lực.

- Những điều tổng quát hóa hời hợt của các nhà bác học người Pháp.

- Các hiện tượng đồng cốt được gán cho cái gì.

- Quan hệ của chúng với tội ác.

CHƯƠNG III

KẺ MÙ DẮT NGƯỜI ĐUI

- Sự trích dẫn của Huxley phái sinh từ Orohippus.

- ̣ thống của Comte và các môn đồ.

- Các nhà duy vật Luân Đôn.

- Những bộ áo thầy tu đi vay mượn.

- Vũ trụ ngoại giới là phân thân của vũ trụ ̣i giới.

CHƯƠNG IV

CÁC THUYẾT LIÊN QUAN TỚI NHỮNG HIỆN TƯỢNG THÔNG LINH

- Thuyết của Gasparin.

-          ..       Thury.

-          ..       Mousseaux; Mirville.

-          ..       Babinet.

-          ..       Houdin.

-          ..       các ông Royer và Jobart de Lamballe.

Hai anh em sinh đôi – “trí não vô thức” và “truyền âm nhập mật vô thức”.

- Thuyết của Crookes.

-         ..        Faraday.

-         ..        Chevreuil.

- Mendeleyeff đã ủy thác điều gỉ vào năm 1876.

- Sự mù quáng của linh hồn.

CHƯƠNG V

CHẤT ETHER, TỨC “ÁNH SÁNG TINH TÚ”

- Là mt lực bản sơ duy nhất nhưng có nhiều tương quan.

- Còn một chút xíu nữa là Tyndall đã có mt khám phá lớn.

- Không thể có phép lạ.

- Bản chất của nguyên thể chất.

- Việc thuyết giải một số huyền thoại thời xưa.

- Sự thí nghiệm của các fakirs.

- Sự tiến hóa trong thuyết ẩn dụ của Ấn Độ.

CHƯƠNG VI

CÁC HIỆN TƯỢNG THÔNG LINH VẬT THỂ.

. Chúng ta chịu ơn Paracelsus.

. Thuật thôi miên Mesmer – nguồn gốc, sự tiếp thu, tiềm năng.

- “Thuật trắc tâm”.

- Thời gian, Không gian, Vĩnh hằng.

- Việc chuyển năng lượng từ vũ trụ hữu hình sang vũ trụ vô hình.

- Các thí nghiệm của Crookes và thuyết của Cox.

CHƯƠNG VII

CÁC NGUYÊN TỐ, TINH LINH NGŨ HÀNH VÀ ÂM MA.

- Sức hút và đẩy phổ biến khắp nơi trong mọi giới thuộc thiên nhiên.

- Các hiện tượng thông linh tùy thuộc vào môi trường vật thể xung quanh.

- Những quan sát ở Xiêm la.

- Âm nhạc trong các bệnh rối loạn thần kinh.

- “Linh hồn của thế giới” và các tiềm năng của nó.

- Chữa bệnh bằng cách chạm vào người và nhng nhà chữa bệnh theo kiểu đó.

- “Diakka” và những loài ma quỉ tồi tàn của Prophyry.

- Cây đèn không dập tắt được.

- Thời nay chẳng ai biết tới sinh lực.

- Thuyết tương quan lực đã xưa lắm rồi.

- Pháp thuật được tin tưởng phổ biến ở khắp nơi.

CHƯƠNG VIII

̣T SỐ ĐIỀU BÍ NHIỆM CỦA THIÊN NHIÊN

- Liệu các hành tinh có ảnh hưởng tới số phận của con người chăng?

- Đoạn văn rất kỳ bí của Hermes.

- Vật chất không chịu đứng yên.

- Lời tiên tri của Nostradamus đã hoàn thành.

- Sự đồng cảm giữa các hành tinh và cây cối.

- Ấn Độ có biết tới các tính chất của màu sắc.

- “Những điều trùng hợp” là phương thuốc trị bá bệnh của khoa học hiện đại.

- Mặt trăng và thủy triều.

- Những rối loạn về đạo đức và tâm trí lan tràn nhựnh dịch.

- Chư thần trong đền thờ Chư Thần chỉ là các lực thiên nhiên.

- Bằng chứng về quyền năng pháp thuật của Pythagoras.

- Các chủng loại vô hình của không gian tinh vi.

- “Tứ diệu đề” của Phật giáo.

CHƯƠNG IX

CÁC HIỆN TƯỢNG TUẦN HOÀN

- Ý nghĩa của thành ngữ “lớp áo bằng da”.

- Sự tuyển trạch tự nhiên và kết quả của nó.

- “Vòng tất yếu” của người Ai Cập.

- Các giống dân Tiền Adam.

- Tinh thần giáng xuống vật chất.

- Bản chất ba ngôi của con người.

- Các tạo vật thấp nhất trên thang tồn tại.

- Mô tả đặc biệt các tinh linh ngũ hành.

- Proclus bàn về các sinh linh trong bầu không khí.

- Các tinh linh ngũ hành được gọi bằng nhiều tên khác nhau.

- Quan điểm của Swedenborg về sự chết của linh hồn.

- Những hồn người vướng vòng tục lụy.

- Những đồng cốt không trong sạch và các “vong linh hướng dẫn”.

- Thuật trắc tâm trợ giúp cho việc khảo cứu khoa học.

CHƯƠNG X

CHƠN NHƠN VÀ PHÀM NHƠN

- Cha Félix tố cáo các nhà khoa học.

- “Điều bất khả tư nghị”.

- Nguy cơ của những kẻ sơ cơ trục triệu ma quỉ.

- Lares và Lemures.

- Bí mật của các đền thờ Ấn Độ.

- S luân hồi.

- Thuật phù thủy và các nhà phù thủy.

- Sự xuất thần do uống nước Soma linh thiêng.

- Một vài “u hồn” rất dễ bị̉n thương.

- Thí nghiệm của Clearchus đối với một đứa bé trai đang ngủ.

- Tác giả chứng kiến một thử nghiệm pháp thuật ở Ấn Độ.

- Trường hợp Cevennois.

CHƯƠNG XI

CÁC KỲ TÍCH VỀ VẬT THỂ VÀ TÂM LÝ

- Con người có đạt được việc không bị̉n thương.

- Phóng chiếu thần lực của ý chí.

- Không bị nhiễm nọc độc của rắn.

- Dùng âm nhạc để làm mê mẫn loài rắn.

- Bàn về các hiện tượng quái thai.

- Người ta thú nhận rằng chưa thăm dò được địa hạt tâm lý.

- Những sự nuối tiếc thất vọng của Berzelius.

- Biến dòng sông thành máu là một hiện tượng của giới thực vật.

CHƯƠNG XII

“VỰC THẲM KHÔNG VƯỢT QUA ĐƯỢC”.

- Các nhà khoa học thú nhận là mình dốt nát.

- Đền thờ Chư thần của chủ nghĩa hư vô.

- Cấu tạo tam bội của lửa.

- Định nghĩa bản năng và lý trí.

- Triết thuyết của Kỳ Na giáo Ấn Độ.

- Lemprière cố tình biểu diễn sai lạc.

- Anh hồn của con người không bất tử.

- Các kiếp luân hồi của Đức Phật.

- Các bức tranh mặt trời và mặt trăng trong pháp thuật Tây Tạng.

- Giải thích hiện tượng ma cà rồng.

- Trò ảo thuật ở Bengal.

CHƯƠNG XIII

THỰC TẠI VÀ HÃO HUYỀN

- Cơ sở lý luận của bùa.

- Những điều bí nhiệm còn chưa giải thích được.

- Cuộc thực nghiệm pháp thuật ở Bengal.

- Các thành tích đáng ngạc nhiên của Chibh Chondor.

- Trò leo dây của Ấn Độ chỉ là ảo giác.

- Hồi sinh các vị fakirs bị chôn sống.

- Giới hạn của những tiềm sinh (tạm ngưng sống).

- Thuật đồng cốt hoàn toàn đối lập với thuật cao đồ.

- Các “vong linh hiện hình” nghĩa là gì?

- Shudāla Mādan.

- Triết lý của thuật khinh thân.

- Thuốc trường sinh và nước cam lồ dung môi vạn năng.

CHƯƠNG XIV

MINH TRIẾT CỦA AI CẬP

- Cội nguồn của dân Ai Cập.

- Các công trình tạo tác hùng vĩ của họ.

- Vùng đất thời xưa của các Pharaon.

- Các dinh thự ở Nilot rất xa xưa.

- Các thuật chiến tranh và hòa bình.

- Thần thoại và di tích ở Mê hi cô.

- Chúng rất giống với nguồn gốc Ai Cập.

- Thánh Moise là mt tu sĩ của Osiris.

- Những bài học mà các di tích ở Xiêm la dạy cho ta.

- Thập giá chữ Tau của Ai Cập ở Palenque.

CHƯƠNG XV

ẤN ĐỘ LÀ CÁI NÔI CỦA LOÀI NGƯỜI

- Đạt được “giáo lý bí nhiệm”.

- Hai di tích thuộc quyền sở hữu của một học giả̉i tiếng Nam phạn.

- Người Ấn Độ bo bo giữ độc quyền.

- Lydia Maria Child bàn về khoa biểu tượng của tượng dương ̣t.

- Thời đại kinh Phệ Đà và Đức Bàn Cổ.

- Truyền thuyết về các giống dân tiền hồng thủy.

- Châu Atlantis và các dân cư của nó.

- Các di tích ở Peru.

- Sa mạc Gobi và nhng bí mật của nó.

- Các huyền thoại Tây Tạng và Trung Hoa.

- Pháp sư trợ giúp chứ không cản trở thiên nhiên.

- Mẹ Ấn Độ truyền thừa triết học, tôn giáo, nghệ thuật và khoa học cho hậu thế.

ĐỨNG TRƯỚC BỨC MÀN.

Joan- Hãy phất cao ngọn cờ phấp phới trên những bức tường!

                                        Vua Henry VI. Hồi IV

“Cuộc đời của tôi đã được dành trọn cho việc nghiên cứu con người, số phận và hạnh phúc của y”.

                                     J. M. BUCHANAN, Bác sĩ Y khoa

               Tác phẩm Phác họa các Bài thuyết trình về Nhân loại học.

Như chúng tôi được biết đã 19 thế kỷ trôi qua từ khi cái đêm đen của Ngoại đạo và Tà giáo lần đầu tiên bị xua tan bởi ánh sáng thiêng liêng của Ki Tô giáo; và đã hai thế kỷ mới trôi qua từ khi ngọn đèn sáng rỡ của Khoa học Hiện đại bắt đầu soi sáng cho bóng tối vô minh của biết bao thời đại. Trong phạm vi những thời kỳ liên tiếp đó, chúng ta bị bắt buộc phải tin rằng đã xảy ra sự tiến bộ tht sự về đạo đức cũng như tri thức của loài người. Các nhà triết học thời xưa cũng quá đủ đối với các thế hệ đương đại nhưng họ lại dốt nát so với các nhà khoa học hiện nay.

Luân lý của Ngoại đạo có lẽ cũng đáp ứng được nhu cầu của những người thất học thời xưa, nhưng chỉ khi “Ngôi sao sáng rực ở Bethlehem” giáng lâm thì người ta mới thấy rõ được con đường chân chính của đạo đức toàn bích và con đường giải thoát. Xưa kia thì thú tính là qui luật còn đức tính và tính linh là ngoại lệ. Ngày nay kẻ trì độn nhất cũng có thể đọc hiểu được ý chí của Thượng Đế qua lời của Ngài được thiên khải; con người được cổ võ để trở nên thánh thiện và đang càng ngày càng tốt hơn.

Sau đây là mt lời giả định: Sự tht ra sao? Một đằng là giáo đoàn thiếu tính linh, đầy giáo điều thường khi lại trụy lạc nữa với một bè lũ giáo phái ba tôn giáo lớn đánh nhau, thay vì hợp nhất thì chỉ bất hòa, thay v́ chứng minh thì chỉ có giáo điều với những nhà thuyết pháp mê đắm thú vui giác quan, với giáo dân đạo đức giả và ngu tín chỉ mưu cầu khoái lạc và của cải, bị những thúc bách tàn bạo của qui luật sống đời thường muốn tỏ ra là ḿnh khả kính trong khi lòng chân thành và lòng sùng đạo chân chính chỉ là ngoại lệ. Một đằng thì các giả thuyết của khoa học chỉ là những lâu đài xây trên bãi cát; không đồng ý được với nhau v bất cứ vấn đề nào; cãi cọ đầy hiềm khích và ganh tị; nói chung là trôi giạt về phía chủ nghĩa duy vật. Một trận đánh giáp lá cà một mất ̣t còn giữa Khoa học và Thần học để tranh nhau việc không thể sai lầm. Đây là “một cuộc xung đột ngàn đời”.

Ở Rome, tòa thánh tự phong của Ki Tô giáo, vị kế nghiệp ngai của thánh Peter đang làm tổn hại cho trật tự xã hội với một mạng lưới vô hình nhưng có mặt khắp nơi của những tác nhân ngu tín, xúi bẫy họ làm cách mạng ở Âu châu để chiếm được quyền tối cao v cả thế quyền lẫn thần quyền. Ta thy đấng tự xưng là “Giáo hoàng phó tế của đấng Ki Tô” lại sát cánh với những người Hồi giáo chống Ki Tô để chống lại mt quốc gia Ki Tô giáo khác, công khai cầu khẩn Thượng Đế ban phước cho những người nào qua hàng thế kỷ đã đứng vững dùng lửa máu và kiếm gươm để tự cho mình là đấng Ki Tô, sứ giả của Thượng Đế! Ở Berlin – một trong những nơi học thức nhất – các vị giáo sư khoa học chính xác hiện đại ngoảnh mặt quay lưng với những kết quả khoe khoang là đã khai sáng được từ thời sau Galileo, lại đang lặng lẽ dập tắt ngọn nến ở Florentine vĩ đại; tóm lại thì họ đang tìm cách chứng tọ̉ thống nhật tâm ngay cả khi trái đất vẫn đang quay, nhưng những giấc mơ của các nhà khoa học bị hão huyền ấy mà Newton là mt kẻ mợng, còn mọi nhà thiên văn học quá khứ và hiện tại chẳng qua chỉ là những kẻ biết khéo léo tính toán về những bài toán không kiểm chứng được [[10]].

Giữa hai kẻ khổng lồ đang xung đột nhau ấy – tức là Khoa học và Thần học - th́ công chúng đâm ra hoang mang, nhanh chóng mất niềm tin vào tính bất tử nơi phàm ngã của con người, mất hết niềm tin vào bất kỳ loại thần linh nào và nhanh chóng xuống cấp chỉ còn sống giống nhựt con thú.  Đây là bức tranh đương đại được soi sáng bởi ánh mặt trời chính ngọ của cái kỷ nguyên Ki Tô giáo và kỷ nguyên khoa học này!

Liệu có tht sự công bằng chăng khi kết án ném đá những tác giả khiêm tốn và ôn nhu nhất vì họ đã hoàn toàn bác bỏ thẩm quyền của hai đối thủ nêu trên? Liệu ta có bắt buộc phi chấp nhận câu châm ngôn chân chính của thế kỷ này qua lời tuyên bố của Horace Greeley không: “Tôi không dè dặt chấp nhận quan điểm của bất cứ ai dù người đó còn sống hay đã chết”? [[11]] Dù sao đi nữa thì đó cũng là châm ngôn của chúng tôi và chúng tôi ngụ ý nguyên tắc đó sẽ thường xuyên dẫn dắt chúng tôi qua suốt tác phẩm này.

Trong số nhiều hậu quả phi thường của thế kỷ ta, có mt tín ngưỡng kỳ lạ của cái gọi là các nhà Thần linh học đã vươn lên trong đám tàn tích nghiêng ngã của các tôn giáo tự phong là mình được thiên khải và các triết thuyết duy vật; thế nhưng chỉ nó mới hiến ra một chỗ trú khả dĩ cuối cùng đ thỏa hiệp giữa đôi bên. Cái bóng ma chẳng ai trông thy được này ngay từ thời tiền-Ki tô không được thế kỷ thực chứng và chính chắn của chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh; điều này cũng chẳng có ǵ đáng ngạc nhiên. Thời thế đă đổi thay rất kỳ lạ; chỉ mới gần đây thôi, một nhà thuyết pháp nổi tiếng ở Brooklyn đã sắc sảo nhận xét trong một bài giảng rằng nếu Chúa Giê su mà có trở lại biểu diễn trên đường phố New York giống như ngài đã từng biểu diễn trên đường phố Jerusalem thì ngài ắt thấy mình bị nhốt vào nhà tù của những Ngôi mộ [[12]] Thế thì liệu Thần linh học có thể trông mong cái loại nghênh đón nào? Cũng đúng thôi, kẻ xa lạ kỳ quặc ấy thoạt nhìn dường như chẳng có gì hấp dẫn và cũng chẳng có gì đầy triển vọng. Nó chẳng có hình thù gì và lại cục mịch giống nhựt đứa trẻ được bảy cô bảo mẫu xúm xít lại chăm nom thì đến khi hết tuổi dậy thì nó ắt tỏ ra què quặc không được lành lặn như người khác. Kẻ thù của nó thì hằng hà sa số, còn bạn bè và người bảo trợ cho nó thì đếm được trên đầu ngón tay. Nhưng thế nghĩa là sao chứ? Biết bao giờ thì người ta mới chấp nhận sự thật ̣t cách tiên nghiệm? Đó là vì những kẻ̉ xúy cho Thần linh học trong khi cuồng tín đã thổi phồng lên những phẩm tính của mình và bưng tai bịt mắt trước những khuyết điểm của mình cho nên không bào chữa được việc người ta nghi ngờ về tính thực tại của mình. Làm sao chúng ta có thể ngụy tạo được khi chúng ta chẳng có một mô hình nào để bắt chước theo đó mà ngụy tạo. Bản thân sự cuồng tín của các nhà Thần linh học cũng là bằng chứng cho việc các hiện tượng phép lạ của họ là có thật và có thể xảy ra được. Họ cung cấp cho ta những sự kiện mà ta có th khảo cứu chứ không phải những điều khẳng định mà ta phải tin dù không có chứng minh. Hàng triệu nhng người nam nữ có lý trí đâu có dễ ǵ mà sa vào một ảo giác tập thể như thế. Do đó trong khi giáo đoàn căn cứ theo sự giải thích của riêng mình về Thánh kinh và khoa học căn cứ vào ̣ Luật do mình tự tạo ra về những khả năng trong thiên nhiên; cả hai đều từ chối không lắng nghe Thần linh học một cách công tâm thì khoa học thật sự và tôn giáo chân chính đều im lặng và nghiêm trang chờ đợi những sự phát biểu thêm nữa.

Trọn cả vấn đề hiện tượng phép lạ dựa vào việc hiểu biết đúng đắn những triết lý cổ xưa. Thế thì trong khi bối rối chúng tôi biết hướng về ai nếu không phải là các nhà hiền triết thời xưa vì các nhà hiền triết thời nay lấy cớ là mê tín dị đoan cho nên từ chối không chịu giải thích cho chúng tôi hiểu? Nếu chúng tôi hỏi họ, họ biết gì về khoa học và tôn giáo chân chính; không phải chỉ về những vấn đề chi tiết tủn mủn mà v mọi quan điểm phóng khoáng của hai thứ chân lý bài trùng này – chúng rất mạnh mẽ khi hợp nhất với nhau nhưng lại yếu đuối xiết bao khi tách rời khỏi nhau. Ngoài ra chúng tôi thấy mình có thể có lợi khi so sánh cái khoa học hiện đại huênh hoang này với sự vô minh thời xưa, so sánh cái Thần học hiện đại đã được cải thiện này với “giáo lý bí nhiệm” của tôn giáo đại đồng thế giới thời xưa. Do đó chúng tôi có thể tìm ra một mảnh đất trung dung mà chúng tôi có thể đạt tới và mang lại lợi ích cho đôi bên.

Chỉ có triết học của Plato (vốn là toát yếu cầu kỳ nhất của hệ thống bí hiểm thuộc cổ Ấn độ) mới có thể cung ứng cho chúng ta mảnh đất trung dung này. Mặc dù Plato đã mất được 22 thế kỷ ¼, song những đầu óc vĩ đại trên thế giới vẫn còn bận tâm với những tác phẩm của ông. Ông là người thuyết giải thế gii theo ý nghĩa rộng lớn nhất của từ này. Và mọi triết gia vĩ đại nhất thuộc kỷ nguyên tiền-Ki Tô đều phản ánh trung thực trong tác phẩm của mình thần linh học của các triết gia Phệ đà vốn đã sống hàng ngàn năm trước thời đại mình và cách diễn đạt siêu hình của nó. Ta ắt thấy Vyasa. Djiminy, Kapila, Vrihaspati và Sumati cũng như biết bao người khác đã truyền đạt dấu ấn không phai nhòa được của mình cho Plato và trường phái của ông xuyên qua các thế kỷ trung gian. Nhựy mới bảo đảm được sự suy diễn của Plato và các nhà hiền triết cổ Ấn Độ đều tiết lộ cùng một loại minh triết. Nếu cơn chấn động của thời gian vẫn còn làm sống sót nó thì cái minh triết này chẳng lẽ không thể là thiêng liêng và vĩnh hằng hay sao?

Plato dạy dỗ về sự công bằng vốn là nền tảng của linh hồn người có sự công bằng và là phúc lợi lớn nhất của y. “Tị̉ với trí năng của mình, con người đã thừa nhận những đòi hỏi siêu việt của ông”. Thế nhưng những nhà bình luận về ông hầu như đều nhất trí rằng họ cảm thấy dội với mọi đoạn văn hàm ý rằng siêu hình học của ông dựa trên một nền tảng vững chắc chứ không phải trên những quan niệm lý tưởng.

Nhưng Plato không thể chấp nhận một triết lý không có những hoài bão tâm linh; đối với ông thì triết lý và tâm linh là một. Đó là v́ nhà hiền triết thời cổ Hi Lạp chỉ có một mục tiêu duy nhất để đạt tới: tri thức chân thỰc. Y chỉ coi là các triết gia chân chính khi những người nào tìm hiểu về sự thật mà có điều tri thức về điều thật sự tồn tại đối nghịch với điều chỉ là bề ngoài; tri thức về điều luôn luôn tồn tại đối nghịch với điều chỉ phù du tạm bợ; và tri thức về điu vốn tồn tại thường trụ đối nghịch với điều cứ tiêu trưởng luân phiên được phát triển rồi lại bị hủy diệt. “Vượt ngoài mọi kiếp tồn tại hữu hạn và nhng nguyên nhân thứ cấp, mọi định luật, ý tưởng và nguyên lý, có một trí THôNG tuệ hoặc tâm trí (Nous tức tinh thần) nguyên khí bản sơ của mọi nguyên khí, Ý tưởng Tối cao mà mọi ý tưởng khác đều dựa vào đó; bậc Quân vương và đấng Ban bố Pháp luật cho vũ trụ; nguyên chất tối hậu từ đó phái sinh ra bản thể và thực thể của vạn vật. Nguyên nhân đầu tiên và hữu hiệu của mọi trật tự hài hòa và mỹ lệ, tuyệt diệu và tốt đẹp, thấm nhuần vũ trụ; do tối hảo và ưu việt cho nên nguyên nhân đó được gọi là Điều Thiện Tối cao, Thượng Đế, ‘Chúa tể Muôn loài’ [[13]]. Ngài không phải là sự thật cũng như là trí thông minh mà là “cha của nó”. Mặc dù các giác quan thể xác của ta không thể nhận biết được bản thể vĩnh hằng này của các sự̣t, song tâm trí của những người nào không cố tình trì độn đều có thể lĩnh hội được nó. Chúa Giê su có dạy những đệ tử ưu tú của ḿnh như sau: “Ta sẽ ban cho các con biết được sự bí nhiệm của nước Thiên chúa, nhưng ta sẽ không ban điều đó cho công chúng . . . Vì vậy ta nói với họ bằng dụ ngôn hoặc ẩn dụ; vì họ có mắt cũng như mù, có tai cũng như điếc cho nên họ có hiểu ǵ đâu”[[14]].

Porphyry thuộc trường phái Tân Platon có đoan chắc với ta rằng triết lý của Plato được giảng dạy và minh họa trong các bí pháp. Nhiều người đã thắc mắc và thậm chí chối bỏ điều này; trong tác phẩm Aglaophomus, Lobeck đã đi đến mức cực đoan khi biểu diễn những cơn hoan lạc thiêng liêng chẳng khá gì hơn một pha trình diễn rỗng tuếch để thu hút óc tưởng tượng. Điều này dường như thể trong vòng hơn 20 thế kỷ thành Athens và nước Hi Lạp cứ mỗi 5 năm thì lại lui tới Eleusis để chứng kiến một trò hề tôn giáo trang trọng! Augustine là đức Cha giám mục ở Hippo đã giải quyết những điều khẳng định ấy. Ông tuyên bố rằng học thuyết của các môn đồ Plato ở Alexandria là giáo lý bí truyền nguyên thủy của những môn đồ đầu tiên của Plato, ông còn mô tả Plotinus là Plato tái thế. Ông cũng giải thích động cơ thúc đẩy của vị triết gia vĩ đại nhằm che giấu ý nghĩa bên trong của điều mà ḿnh giảng dạy [[15]] .

Còn về phần các thần thoại thì trong tác phẩm Gorgias và Phœdon, Plato có tuyên bố đó là những công cụ của những sự thật lớn lao rất đáng mực mưu cầu. Nhưng các nhà bình luận ít giao tiếp với bậc đại triết gia đến nỗi họ bắt buộc phải thừa nhận rằng họ mù tịt chẳng biết “phần học thuyết chấm dứt ở đâu và phần thần thoại bắt đầu ở đâu”. Plato đã xua tan niềm mê tín dị đoan thông tục liên quan tới pháp thuật và ma quỉ, ông đã triển khai những ý niệm quá lố về thời gian biến nó thành các thuyết hợp lý và các quan niệm siêu hình. Có lẽ những thứ này không hoàn toàn phù hợp với phương pháp lý luận qui nạp mà Aristotle đã xác lập; tuy nhiên chúng thỏa đáng đến mức cao nhất đối với những người nào lĩnh hội được sự tồn tại ca cái năng lực cao siêu là giác ngộ tức tuệ giác, vốn được coi là mt tiêu chuẩn để nhận biết sự thật.

Khi đặt mọi nền tảng học thuyết của mình trên sự tồn tại của Trí tuệ Tối cao, Plato có dạy rằng Nous tức tinh thần, tức hồn lý trí của con người được “Cha Thiêng Liêng sản sinh ra”, nó có bản chất tương cận hoặc thậm chí đồng chất với Thiên tính và nó có thể chứng kiến những thực tại vĩnh hằng. Năng lực chiêm ngưỡng thực tại theo kiểu trực tiếp và ngay trước mắt chỉ thuộc về Thượng Đế thôi; hoài bão có được sự hiểu biết nhựy cấu thành cái thực sự được ngụ ý qua từ triết lý tức là yêu quí minh triết. Yêu sự thật vốn cố hữu nơi yêu điều thiện, và nó chiếm ưu thế hơn mọi ham muốn của linh hồn, làm cho linh hồn được tẩy trược và đồng hóa với phần thiêng liêng, nhựy chi phối được mọi hành vi của cá thể, nó nâng con người lên tới việc tham gia và hiệp thông với Thiên tính, phục hồi y cho giống như Thượng Đế. Trong tác phẩm Theœtetus, Plato có bảo rằng “Sự bay bổng này cốt là trở nên giống như Thượng Đế và sự đồng hóa này là trở nên công chính và thánh thiện cùng với sự minh triết”.

Người ta luôn luôn quả quyết rằng nền tảng của sự đồng hóa này là sự tồn tại trước của tinh thần tức Nous. Trong ẩn dụ về cổ xe và những con ngựa có cánh được trình bày trong Phœdrus, ông biểu diễn bản chất thông linh có tính phức hợp bao gồm hai phần: phần thumos tức epithumetic được tạo ra từ nguyên chất ca thế giới hiện tượng; còn phần thumocides, có bản chất liên kết với thế giới vĩnh hằng. Cuộc sống trên trần thế hiện nay là một sự sa đọa và trừng phạt. Linh hồn ở trong “nấm mồ mà ta gọi là thể xác” và trong trạng thái nhập xác trước khi có được giới luật do giáo dục thì noëtic, yếu tố tinh thần, vẫn “yên ngủ”. Nhựy sự sống là mt giấc mơ hơn là mt thực tại. Cũng giống như những kẻ bị tù ở trong cái hang dưới đất được mô tả trong tác phẩm Nước Cộng Hòa vốn quay lưng về phía ánh sáng, chúng ta chỉ nhn thc được cái bóng của sự̣t và nghĩ rằng những cái bóng này là các thực tại có tht. Chẳng lẽ cái ý tưởng này về Maya tức điều hão huyền của các giác quan trong sinh hoạt trên cõi trần lại không phải là mt đặc điểm nổi bật trong triết lý Phật giáo hay sao? Nhưng nếu chúng ta không hoàn toàn phục tùng bản chất đầy dục lạc thì những cái bóng đó cũng gợi ra nơi ta hoài niệm về cái thế gii cao siêu mà chúng ta từng một lần ở nơi đó. “Tinh thần nội tại vẫn nhớ lờ mờ và mơ màng về trạng thái cực lạc trước khi sinh ra, cũng nhựt sự khao khát dự báo theo bản năng là nó sẽ trở lại”. Đó là phạm vi giới luật của triết học nhằm giải thoát nó ra khỏi sự nô lệ cho giác quan, và nâng nó lên tới thiên giới của tư tưởng thuần túy để có được tầm nhìn về chân, thiện, mỹ vĩnh hằng. Trong tác phẩm Theœtetus, Plato có bảo rằng: “Linh hồn không thể nhập vào hình tướng của một con người nếu nó chưa bao giờ thấy được sự thật. Đây là việc nhớ lại những điều mà linh hồn ta trước kia đã thấy khi đồng hành với Đấng thiêng liêng, bất chấp những sự việc mà giờ đây ta bảo rằng đang hiện hữu, chỉ ngước mắt nhìn lên điều vốn thực sự tồn tại. Vì sao chỉ có nous tức tinh thần của triết gia hoặc người tìm hiểu thật sự cao cấp mới được chấp cánh bay lên; bởi vì y đã vận dụng hết năng lực của mình để ghi khắc những điều này vào tâm trí, việc chiêm nghiệm những điều đó khiến cho nó trở nên thiêng liêng. Bằng cách vận dụng đúng đắn những sự̣t này mà nó nhớ lại từ kiếp trước, bằng cách thường xuyên tự hoàn thiện ḿnh với các bí pháp hoàn hảo, con người trở nên thật sự toàn bích, là một điểm đạo đồ của minh triết thiêng liêng”.

Vì thế cho nên ta mới hiểu được tại sao những phong cảnh cao siêu nơi Bí pháp đều luôn luôn xảy ra vào ban đêm. Cuộc sống của tinh thần nội tại là sự chết của bản chất ngoại giới, và đêm đen của cõi trần xác định ngày của cơi tâm linh. Do đó Dionysos tức mặt trời vào ban đêm đã được tôn thờ nhiều hơn Helios, là tinh cầu đó vào ban ngày. Trong các Bí pháp có trình bày tượng trưng điều kiện tồn tại trước của tinh thần và linh hồn, tinh thần và linh hồn lướt qua sống trên cõi trần và cõi Âm ty với những sự khốn khổ trong kiếp sống đó th́ linh hồn mới được tẩy trược, mới khôi phục lại được sự cực lạc thiêng liêng để hiệp nhất trở lại với tinh thần. Theon ở Smyrna đã khéo léo so sánh giới luật của triết học với những nghi thức của thần bí, ông bảo rằng: “Ta có thể gọi triết học là s  khai tâm vào điều bí nhiệm chân chính và giáo huấn về những Bí pháp chân chính. S khai tâm này có năm phần: I., sự̉y trược sợ; II., chấp nhận cho gia nhập vào các nghi thức bí mật; III., khải huyền, khai thị; IV., phong chức hoặc tấn phong; V., điều thứ năm là sản phẩm ca tất cả những điều trên, đó là tình bằng hữu và sự hiệp thông bên trong với Thượng Đế, hưởng thụ được cái sự cực lạc vốn bắt nguồn từ việc giao tiếp thân mật với các thực thể thiêng liêng . . . Plato gọi epopteia, sự khai thị cá nhân là việc hoàn toàn chiêm ngưỡng các sự̣t mà ta lĩnh hội được bằng trực giác về các sự tht và ư tưởng tuyệt đối. Ông cũng coi việc quấn băng trên đầu và đội vương miện là việc tương tự như thẩm quyền mà bất cứ người nào tiếp nhận từ vị huấn sư của ḿnh nhằm dẫn dắt người khác cũng chiêm nghiệm được như thế. Cấp năm là sự cực lạc hoàn hảo nhất bắt nguồn từ vị huấn sư (và do đó theo Plato) việc đồng hóa với thiên tính đến mức tối đa nơi loài người” [[16]] .

Thuyết của Plato là như thế. Ralph Waldo Emerson có nói rằng: “Xuất phát từ Plato có đủ mọi thứ mà các nhà tư tưởng vẫn còn viết lách và bàn luận về chúng”. Ông đã hấp thu được học thức thuộc thời đại mình ở Hi Lạp từ Philolaus cho tới Socrates; rồi tới Pythagoras ở Ý; rồi thì điều mà ông tìm được từ Ai Cập và Đông phương. Ông bác học đến nỗi mọi triết thuyết Âu Á đều có trong học thuyết của ông; ngoài khả năng tu dưỡng và chiêm nghiệm, ông còn có thêm bản chất và phẩm tính của một nhà thơ.

Các môn đồ của Plato thường bám sát lấy các thuyết tâm lý của ông. Tuy nhiên nhiều người như Xenocrates đã đánh bạo có những suy đoán táo tợn hơn. Speusippus, vốn là cháu và người nối ngḥp vị đại triết gia, là tác giả của quyển Giải tích Số, một bộ khảo luận về các con Số theo Pythagoras. Ta không thy trong tác phẩm Các cuộc Đối thoại có một số những điều suy đoán của ông ấy; nhưng vì ông là người lắng nghe những bài thuyết trình không được viết ra của Plato cho nên phán đoán của Enfield chắc chắn là chính xác, theo đó ông chẳng khác gì thầy của ḿnh. Hiển nhiên, mặc dù không đích danh thì ông chính là kẻ đối địch mà Aristotle đã chỉ trích, khi ông tự cho là trích dẫn lập luận của Plato chống lại học thuyết của Pythagoras, theo đó bản thân vạn vật đều là những con số hoặc đúng hơn là không tách rời khỏi ý tưởng về những con số. Ông đặc biệt cố gắng chứng tỏ rằng học thuyết của Plato về những ý tưởng có bản chất khác với học thuyết của Pythagoras, theo đó ông giả định rằng những con số và các độ lớn tồn tại độc lập với những sự̣t. Ông cũng quả quyết Plato dạy rằng không thể có tri thức chân thực nếu ta không đưa đối tượng của tri thức đó vượt ra ngoài hoặc vượt lên trên mức độ cảm nhận theo cảm quan.

Nhưng Aristotle không phải là một nhân chứng đáng tin cậy. Ông trình bày sai lệch về Plato và hầu như lại biếm họa các học thuyết của Pythagoras. Có một điều luật để thuyết giải sẽ dẫn dắt chúng ta trong việc khảo sát mọi ý kiến triết học: “Khi tác động tất yếu theo luật của riêng mình, tâm trí con người bắt buộc phải ấp ủ cùng một ý tưởng căn bản, và tâm hồn con người phải lưu luyến với cùng một xúc cảm trải qua mọi thời đại”. Chắc chắn là Pythagoras đã khơi dậy sự đồng cảm tri thức sâu sắc nhất trong thời đại của mình, và học thuyết của ông đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ lên tâm trí của Plato. Ý tưởng chủ yếu của ông là có một nguyên lý thường trụ, đơn nhất ẩn bên dưới mọi hình tướng, mọi sự thay đổi và mọi hiện tượng khác của vũ trụ. Aristotle quả quyết rằng ông có dạy “những con số là nhng nguyên thể đầu tiên của mọi thực thể”. Ritter đã diễn tả ý kiến cho rằng ta nên coi công thức của Pythagoras dưới dạng biểu tượng và điều này chắc chắn là chính xác. Aristotle tiếp tục liên kết những con số này với “những hình tướng” và “ý tưởng” của Plato. Thậm chí ông tuyên bố Plato có dạy rằng “các hình tướng đều là những con số” và “các ý tưởng đều tồn tại thực chất là những thực thể có thật”. Thế nhưng Plato đâu có dạy nhựy. Ông tuyên bố rằng nguyên nhân tối hậu là Điều thiện Tối cao. “Các ý tưởng là những đối tượng thuộc quan niệm thuần túy của lý trí con người, và chúng là thuộc tính của Lý trí Thượng Đế[[17]] . Ông cũng chưa bao giờ bảo rằng “hình tướng là những con số”. Ta có th tìm thấy điều ông giảng dạy ở tác phẩm Timœus: “Thượng Đế tạo ra những sự̣t khi chúng thoạt tiên xuất lộ tùy theo các hình tướng và con số”.

Khoa học hiện đại có công nhận rằng mọi định luật cao siêu của thiên nhiên đều có dạng một phát biểu định lượng. Đây có lẽ là việc bày tỏ minh bạch hơn và khẳng định rõ ràng hơn v học thuyết của Pythagoras. Những con số được coi là biểu diễn tốt nhất cho những định luật hài âm vốn thấm nhuần vũ trụ. Chúng ta cũng biết rằng trong hóa học, học thuyết về nguyên tử và các định luật hóa hợp quả thật và có th nói là được định nghĩa tùy tiện bằng những con số. Ông W. Archer Butler có diễn tả điều đó như sau: “Vậy là thông qua mọi bộ môn của mình, thế giới vốn là một môn số học sống động đang phát triển và một môn hình học đang tĩnh tại”.

Chìa khóa cho những giáo điều của Pythagoras vốn là công thức chung về đơn chất trong đa dạng, nhất bổn tán vạn thù và thấm nhuần vạn thù. Nói tóm lại đây là giáo lý cổ truyền về sự phân thân. Ngay cả thánh tông đồ Paul cũng chấp nhận là nó đúng sự thật: “Vạn vật đều xuất phát từ ngài, thông qua ngài và ở nơi ngài”. Như ta có thể thấy qua đoạn trích dẫn sau đây, câu nêu trên hoàn toàn thuần túy thuộc về Ấn giáo và Bà la môn giáo:

“Khi chu kỳ hoại không – Pralaya – đã hết thời hạn thì Đấng Cao Cả – Para-Atma tức Para-Purusha – Đấng Chí Tôn tồn tại tự thân, vạn vật đều xuất phát từ ngài, thông qua ngài, đã, đang và sẽ tồn tại  . . . đều tan biến để được phân thân từ thực chất của chính ngài thành ra đủ thứ tạo vật” (Manava Dharma Sastra, quyển I, câu kinh 6 và 7).

Thập nguyên thần bí 1+2+3+4=10 là một cách để diễn tả ý tưởng này. Một là Thượng Đế, Hai là vật chất, Ba là tổ hợp của Đơn nguyên và Lưỡng nguyên tham dự vào bản chất ca cả hai, do đó là thế gii hiện tượng; Tứ nguyên tức hình tướng hoàn hảo diễn tả sự trống rỗng của vạn vật; còn Thập nguyên tức tổng thể vạn vật, bao gồm trọn cả càn khôn. Vũ trụ là tổ hợp của một ngàn nguyên tố, thế nhưng là biểu hiện của chị̉t tinh thần thôi – đó là một khối hỗn mang đối với giác quan nhưng là một càn khôn hài hòa đối với lý trí.

Trọn cả sự̉ hợp bao gồm những con số lũy tiến nơi ý tưởng sáng tạo đều thuộc về Ấn giáo. Đấng tồn tại tự thân (Đấng Tự Tại Swayambhu tức Swayambhuva tức Chơn như theo cách gọi của một số người) vốn nhất như. Tự bản thân ngài phân thân ra năng lực sáng tạo tức Brahma tức Purusha (tức nam tính thiêng liêng) và một trở thành Hai; từ Lưỡng nguyên đó vốn kết hợp nguyên thể thuần túy trí thức với nguyên thệ̉t chất, có triển khai ra một nguyên thể thứ ba tức là Viradj, thế gii hiện tượng. Từ tam vị nhất thể vô hình và không thể hiểu nổi này tức ba ngôi của Bà la môn giáo mới triển khai ra tam nguyên thứ nhì biểu diễn ba năng lực: sáng tạo, bảo tồn và biến hóa. Ba năng lực này được tiêu biểu qua Brahma, Vishnu và Siva, nhưng chúng lại mãi mãi được hòa lẫn thành một. Nhất nguyên, Brahma hoặc theo kinh Phệ đà gọi là Tridandi, là Thượng Đế biểu lộ ra tam bội, khai sinh ra thánh ngữ Aum biểu tượng, tức là ba ngôi toát yếu. Chỉ có nhờ vào ba ngôi này bao giờ cũng chủ động và nắm bắt được với mọi giác quan của ta thì Nhất nguyên vô hình và không ai biết được mới có thể biểu lộ được cho thế giới của kẻ phàm phu. Khi ngài trở thành Sarira tức là khi ngài khoác lấy một hình tướng hữu hình th́ ngài tiêu biểu cho mọi nguyên khí của vật chất, mọi mầm mống của sự sống, lúc đó ngài là Purusha, Thượng Đế ba mặt tức quyền năng tam bội, là bản thể của tam nguyên trong kinh Phệ đà. “Xin các đấng Brahma hãy biết tới Âm tiết thiêng liêng (Aum) tức là ba linh từ của Savitri và hãy đọc kinh Phệ đà hằng ngày”. (Đức Bàn Cổ, iv, câu kinh 125).

“Sau khi đã tạo ra vũ trụ, Ngài vốn có quyền năng không ai hiểu được lại biến mất vì bị hấp thu vào Linh hồn Tối cao . . . Sau khi đã triệt thoái vào trong bóng tối bản sơ thì Linh hồn lớn vẫn ở bên trong điều không ai biết được, và không có mọi hình tướng . . .

“Khi đã lại hợp nhất các nguyên th ngũ hành tinh vi thì nó lại được dẫn nhập vào hoặc là một chủng tử thực vật hoặc là một mầm mống động vật và ở mỗi thứ này thì nó đều khoác lấy một hình tướng mới”.

“Chính vì thế mà bằng cách luân phiên thức rồi ngủ, Đấng Bất Di Bất Dịch khiến cho mọi tạo vật đang tồn tại cứ sống rồi lại chết đi mãi, cứ hoạt động rồi lại trơ lì”. (Đức Bàn Cổ , i, câu kinh 50 và những câu kinh khác).

Người nào đã nghiên cứu Pythagoras và những suy đoán của ông về Đơn nguyên Monad (sau khi đã phân thân ra Lưỡng nguyên thì nó bèn triệt thoái vào trong im lặng và đen tối, nhựy tạo ra Tam nguyên) đều có thể ngộ ra được  nguồn gốc triết lý của nhà đại Hiền triết ở Samos và sau ông là triết lý của Socrates và Plato.

Speusippus dường như đã dạy rằng hồn thông linh vốn bất tử cũng giống như tinh thần tức hồn thuần túy và ta sẽ chứng tọ̉p luận của ông thêm nữa. Cũng giống như Philolaus và Aristotle khi thảo luận về linh hồn; ông cũng biến hậu thiên khí (æther) thành ra một nguyên tố sao cho có năm nguyên tố chính tương ứng với năm hình đều đặn trong Hình học. Điều này cũng trở thành một học thuyết của trường phái Alexandria [[18]]. Thật vậy trong các học thuyết của môn đồ trường phái này có nhiều điều không xuất hiện trong các công trình của các môn đồ phái Plato xưa hơn, nhưng chắc chắn về thực chất th́ chính triết gia ấy phải dạy dỗ nó, nhưng vì ông thường kín tiếng cho nên nó không được ủy quyền để viết v́ quá bí hiểm cho nên không thể xuất bản lung tung. Cũng giống như vị đại sư phụ của mình Speusippus và sau đó là Xenocrates đều chủ trương rằng anima mundi tức hồn thế giới, không phải là Đấng Thiêng Liêng mà là một sự biểu lộ. Các triết gia đó chẳng bao giờ quan niệm Đấng Nhất Như là một bản chất thú tính [[19]]. Đấng Nhất Như nguyên thủy  không tồn tại theo như ta hiểu về thuật ngữ này. Chừng nào ngài chưa hiệp nhất với vạn hữu thì sự tồn tại do phân thân (đơn nguyên và lưỡng nguyên) còn phải được tạo ra. Điều được tôn vinh – là một điều ǵ đó được biểu lộ ngự nơi trung tâm cũng như chu vi, nhưng đó chỉ là phản ánh của Đấng Thiêng Liêng – đó chính là Hồn Thế Giới [[20]]. Trong học thuyết này ta thấy có cái thần của Phật giáo Bí truyền.

Ý tưởng của con người về Thượng Đế chính là cái hình ảnh ánh sáng chói lòa mà y thấy phản chiếu trong cái gương lõm của linh hồn chính mình; thế nhưng đây không phải là Thượng Đế mà chỉ là sự phản chiếu của Ngài. Sự vinh quang của Ngài có ở đó, nhưng đó chỉ là ánh sáng của Tinh thần chính Ngài mà con người trông thấy, và đó là tất cả những gì y có thể chấp nhận được khi chứng kiến. Cái gương càng rõ thì hình ảnh của Thượng Đế càng trong sáng. Nhưng cùng trong lúc đó thì ta không thể chứng kiến được ngoại giới. Nơi bậc đạo sĩ Yoga đang xuất thần, nơi nhà Thấu thị đã giác ngộ, tinh thần sẽ chiếu sáng giống nhựt trời lúc chính ngọ, nơi nạn nhân bị bại hoại vì bị trần thế thu hút, sự chói sáng đó biến mất vì cái gương bị những vết vật chất làm mờ tối đi. Những người như thế chối bỏ Thượng Đế  của mình và sẵn lòng dẹp bỏ linh hồn của con người ngay trong chớp mắt.

không có thượng đế, không có linh hồn ư? Thật là mt tư tưởng hủy diệt dễ sợ! Cơn ác mộng làm cho kẻ cuồng loạn nổi điên lên trở thành một kẻ Vô thần; nó trình bày trước tầm nhìn sôi nổi của y một đoàn không ngừng ghê gớm những điểm linh quang vũ trụ lướt qua mà không do ai tạo ra; tự xuất hiện, tự tồn tại và tự phát triển; cái Bản ngã này lại Ngã vì nó chẳng là ǵ cả và chẳng là ai cả; nó trôi nổi tiến lên phía trước mà chẳng xuất phát từ đâu, nó bị thôi thúc không do Nguyên nhân nào cả vì không hề có nguyên nhân và nó cũng xông tới chẳng biết chỗ nào nữa. Và điều này diễn ra trong một vòng Vĩnh hằng mù quáng, trơ lì và không có nguyên nhân. Thậm chí cái quan niệm sai lầm ấy còn ghê gớm hơn khi đem so sánh với Niết Bàn trong Phật giáo! Trước Niết Bàn còn có vô số sự biến hóa tâm linh và những sự chuyển kiếp, trong đó thực thể không hề mất đi ý thức cá biệt của chính mình hết một giây nào, và nó có thể tồn tại trong hàng triệu thời đại trước khi đạt tới cái Hư Vô Tối Hậu.

̣c dù một số người đã coi Speusippus là thấp kém hơn Aristotle, song le thế gian chịu ơn ông v́ đã định nghĩa và xiển dương nhiều điều mà Plato đã bọ̉c cho lờ mờ trong học thuyết của mình về điều Cảm nhận được và điều Lý tưởng. Câu châm ngôn của ông là: “Ta biết được điều Phi vật chất nhờ vào tư tưởng khoa học, ta biết được điu có tính Vật chất nhờ vào nhận thức khoa học”[[21]].

Xenocrates có xiển dương nhiều giáo huấn và thuyết bất thành văn của sư phụ mình. Ông cũng chấp nhận học thuyết của Pythagoras, hệ thống những con số và toán học của Pythagoras được đánh giá cao nhất. Vì chỉ công nhận có ba mức độ hiểu biết: Tư tưởng, Nhận thức và Trực quan (tức hiểu biết do Trực giác); cho nên y khiến tư tưởng bận rộn với mọi thứ vượt ngoài tầm các cõi trời; Nhận thức lo về những sự̣t trong các cõi trời và Trực giác lo về chính các cõi trời.

Ta lại thấy những thuyết này hầu như với ngôn ngữ giống hệt như thế trong Manava-Dharma-Shastra khi nó nói về sự sáng tạo con người: “Ngài (Đấng Tối Cao) rút ra từ bản thể chính ḿnh cái thần khí bất tử vốn không bị diệt vong nơi thực thể và ngài ban cho linh hồn của thực thể ấy cái ngã thức Ahancara để làm kẻ dẫn đạo tối cao”. Thế rồi ngài ban cho linh hồn ca thực thể ấy (con người) trí năng được tạo thành từ ba phẩm chất cùng với năm cơ quan để nhận thức bên ngoài”.

Ba phẩm chất này là Trí tuệ, Lương tâm và Ý chí tương ứng với Tư tưởng, Nhận thức và Trực quan của Xenocrates. Speusippus đã phát triển thêm nữa mối quan hệ của các con số với những ý tưởng và Xenocrates còn đạt hơn nữa; ông vượt qua Plato khi định nghĩa học thuyết về các Độ lớn không thể phân chia được. Khi qui giản chúng về nhng nguyên tố bản sơ lý tưởng, ông chứng tỏ rằng mọi hình và mọi dạng đều bắt nguồn từ đường nhỏ nhất không phân chia được. Hiển nhiên là Xenocrates chấp nhận cùng một thuyết giống như Plato liên quan tới hồn người (được giả sử là mt con số), mặc dù Aristotle phản đối điều này cũng như mọi giáo huấn khác của triết gia ấy [[22]]. Đây là kết luận hiển nhiên mà nhiều học thuyết của Plato đã được trình bày truyền khẩu, cho dù nó chứng tỏ rằng chính Xenocrates chứ không phải Plato mới là người đầu tiên khai sáng ra thuyết về các độ lớn không phân chia được. Ông cho Linh hồn phái sinh từ Lưỡng nguyên bản sơ và gọi nó là mt con số tự thân vận động[[23]]. Theophrastus nhận xét rằng ông đã du nhập và loại bỏ thuyết Linh hồn này nhiều hơn bất kỳ môn đồ Plato nào khác. Ông xây dựng học thuyết vũ trụ luận dựa vào đó và chứng tỏ rằng ở mỗi phần trong không gian vũ trụ đều tất yếu có tồn tại một loạt liên tiếp và lũy tiến các thực thể sinh động biết suy tư và thuộc v tâm linh[[24]]. Đối với ông, Hồn Người là mt hợp thể với những tính chất tâm linh nhất của Đơn nguyên và Lưỡng nguyên vì có những nguyên khí cao nhất của cả hai. Giống như Plato và Prodicus, nếu ông đề cập tới các Nguyên tố coi là những Quyền năng Thiêng liêng, và gọi chúng là thần linh thì ông cũng như những người khác không gắn liền ý tưởng nhân hình với tên gọi ấy. Krische nhận xét rằng ông chỉ gọi chúng là thần linh sao cho các quyền năng ngũ hành này không bị lẫn lộn với loài ma quỉ của cõi âm ty (Âm ma) [[25]]. Vì Hồn Thế Gii thấm nhuần trọn cả Vũ trụ cho nên ngay cả những con thú cũng phải có nơi mình một điều ǵ đó thiêng liêng [[26]] . Đây cũng là giáo lý của các Phật tử và môn đồ Hermes; còn Đức Bàn Cổ phú một linh hồn cho ngay cả loài cây và nhng cọng cỏ mảnh mai nhất.

Theo thuyết này thì loài thần linh là những thực thể trung gian giữa mức hoàn hảo của đấng thiêng liêng và đầy tội lỗi của loài người [[27]], và ông chia chúng ra thành các lớp, mỗi lớp lại được chia nhỏ thành nhiều phân lớp. Nhưng ông có phát biểu rõ ràng rằng hồn cá thể hoặc hồn cá nhân là thần hộ̣nh chủ đạo của mỗi người và không một thần linh nào có nhiều quyền năng đối với chúng ta hơn là vị thần hộ̣nh ấy. Nhựy Daimonion của Socrates là thần linh hoặc Thực thể Thiêng liêng linh hứng cho y trọn cả đời. Điều này còn tùy thuộc vào việc con người mở hoặc đóng nhận thức của mình đối với Diệu âm thiêng liêng. Cũng giống như Speusippus, ông gán tính bất tử cho tâm tức là thể thông linh, là hồn phi thuần lý. Nhưng một số triết gia Hermes đã dạy rằng linh hồn chỉ tồn tại liên tục riêng biệt chừng nào nó còn có bất kỳ hạt vật chất trần tục nào được nhập thể nơi nó khi nó băng qua các cõi; khi nó đã được tẩy trược hoàn toàn th́ các hạt vật chất bị tiêu diệt chỉ còn tinh hoa của linh hồn hòa lẫn với tinh thần thiêng liêng (hồn Thuần lý) và từ đó trở đi cả hai đã hiệp nhất.

Zeller nêu rõ rằng Xenocrates cấm ăn mặn (thịt động vật) không phải vì ông thấy những con thú có điều ǵ đó tương cận với con người khi ông gán cho chúng ý thức lờ mờ về Thượng Đế mà vì “lý do ngược lại kẻo sự phi lý của hồn thú nhờ vậy có thể gây ảnh hưởng nào đó lên chúng ta” [[28]]. Nhưng chúng tôi tin rằng đúng hơn là vì, cũng giống như Pythagoras, ông có sư phụ và gương điển hình của mình là các bậc hiền triết Ấn Độ. Cicero mô tả Xenocrates coi thường mọi thứ ngoại trừ đức hạnh cao nhất [[29]] và mô tả tính tình của ông là không có tì vết và rất nghiêm khắc khổ hạnh [[30]] . “Để giải thoát chúng ta khỏi sự phục tùng việc tồn tại bằng giác quan, muốn chinh phục được những yếu tố của người Khổng lồ nơi bản chất trần tục của ta thông qua bản chất thiêng liêng th́ đó là vấn đề của chúng ta”. Zeller có khiến ông dạy rằng: “Sự thanh khiết ngay cả qua những điều ao ước thầm kín nhất trong tâm hồn ta chính là bổn phận lớn nhất và chỉ có triết học cũng như việc khai tâm vào các Bí pháp mới giúp ta thành tựu được mục đích này” [[31]].

Crantor, là mt triết gia khác có liên quan tới thời kỳ đầu của Hàn lâm học viện Plato, quan niệm hồn người được tạo ra từ bản chất nguyên sơ của vạn vật: Đơn nguyên tức ̣t và Lưỡng nguyên tức hai. Plutarch có nói dông dài về triết gia này; cũng giống như sư phụ ḿnh, ông tin rằng hồn người được phân phối nơi các cơ thể trần tục là bị lưu đày và trừng phạt.

Herakleides (mặc dù một số nhà phê bình không tin là ông bám sát triết lý bản sơ của Plato) cũng dạy khoa luân lý như thế [[32]] . Zeller trình bày ông với chúng ta là giống như Hicetas và Ecphantus, ông có truyền thụ học thuyết của Pythagoras  v việc trái đất quay vòng quanh trục trong một ngày đêm, còn các định tinh thì bất động, nhưng Zeller có nói thêm rằng ông không biết trái đất quay vòng quanh mặt trời mỗi một năm và cũng không biết hệ nhật tâm [[33]] . Nhưng chúng ta có đủ bằng chứng cho rằng trong các Bí pháp có dạy về hệ nhật tâm và Socrates chết vì thuyết vô thần nghĩa là vì truyền bá cái kiến thức linh thiêng ấy. Herakleides chấp nhận trọn vẹn quan điểm của Pythagoras và Plato về hồn người cùng với những năng lực và năng khiếu của nó. Ông mô tả nó là mt bản thể sáng chói, rất tinh anh. Ông khẳng định rằng linh hồn ở nơi ngân hà trước khi “giáng sinh” tồn tại dưới dạng hạ nguyệt tinh. Thần linh hoặc tinh linh của ông là những cơ thể giống như dạng hơi và không khí.

Trong tác phẩm Epinomis có trình bày đầy đủ học thuyết về những con số của Pythagoras liên quan tới các tạo vật. Trên cương vị là mt môn đồ Plato chân chính, tác giả quả quyết rằng ta chỉ có thể đạt được minh triết bằng cách tìm hiểu rốt ráo về bản chất huyền bí của sự sáng tạo; chỉ bằng cách đó thì ta mới bảo đảm có kiếp sống cực lạc sau khi chết. Trong bộ khảo luận này người ta suy đoán rất nhiều v tính bất tử của linh hồn; nhưng tác giả của nó có nói thêm rằng ta chỉ có thể đạt được tri thức này nhờ hoàn toàn thấu hiểu được những con số; đó là v́ con người không thể phân biệt được đường thẳng với đường cong thì ắt chưa bao giờ có được minh triết đủ để chứng minh toán học được về điu vô hình; điều này nghĩa là chúng ta phải chắc mẫm v s tồn tại khách quan của anh hồn (thể tinh vi) trước khi chúng ta học biết rằng chúng ta có một tinh thần thiêng liêng và bất tử. Iamblichus cũng nói giống như thế; vả lại ông còn nói thêm rằng đó là mt điều bí mật thuộc về cuộc điểm đạo cao nhất. Ông bảo rằng Quyền năng Thiêng liêng cảm thấy phẫn nộ với “những kẻ không biểu lộ được thành phần của icostagonus” nghĩa là những người đưa ra phương pháp khiến cho một hình khối 12 mặt nội tiếp được trong một hình cầu [[34]].

Cái ý tưởng “những con số” đều có đức hạnh cao nhất luôn luôn tạo ra điều tốt đẹp và không bao giờ gây ra điu xấu xa; nó nhằm nói tới sự công bình, tính tình bình thản và mọi điều hài hòa. Khi tác giả nói tới mỗi ngôi sao đều là mt hồn cá thể thì ông chỉ ngụ ý rằng người Ấn Độ khai tâm còn các môn đồ Hermes đã dạy dỗ trước và sau ông, theo đó mỗi ngôi sao đều là mt thiên thể độc lập giống như hành tinh trái đất có một linh hồn của riêng mình, mỗi nguyên tự̉t chất đều thấm nhuần luồng du nhập thiêng liêng của hồn thế giới. Nó thở hít và sống động; nó cảm nhận và đau khổ cũng như vui hưởng cuộc sống trên quãng đường du hành của mình. Liệu có nhà vạn vật học nào sẵn ḷng tranh cãi điều này dựa vào bằng chứng xác đáng hay chăng? Do đó ta phải coi các thiên thể là hình ảnh của các chư thần linh tham gia vào quyền năng nơi bản chất ấy; và mặc dù các thần linh không bất tử về thực thể linh hồn, song tác nhân của họ trong cơ cấu tổ chức vũ trụ vẫn có quyền được tôn vinh thiêng liêng, giống như ta tôn vinh các tiểu thần linh. Ý tưởng này tht là minh bạch và người ta quả thật phải có ác ý lắm mới trình bày sai lệch nó được. Nếu tác giả của Epinomis đặt các vị hỏa thần này cao hơn loài thú, loài cây cỏ và ngay cả loài người nữa (tất cả những thứ này đều là các tạo vật trần tục nên được ông xếp vào địa vị thấp kém) th́ ai có thể chứng tỏ được rằng ông sai hoàn toàn? Quả tht người ta cần phải thâm nhập vào chiều sâu khoa siêu hình học  trừu tượng thuộc các triết lý thời xưa thì mới hiểu được rằng xét cho cùng th́ đủ thứ hiện thân trong cái quan niệm của triết lý ấy đều dựa vào việc lĩnh hội đồng nhất về bản chất của Nguyên nhân Bản sơ cùng với những thuộc tính và phương pháp của nó.

Lại nữa khi tác giả của quyển Epinomis chen vào giữa các thần linh cao nhất và thấp nhất này (các linh hồn có hiện thân) ba lớp thần linh và khiến cho vũ trụ chứa đầy các thực thể vô hình th́ ông lại còn hợp lý hơn các nhà khoa học hiện đại khi họ cho rằng giữa hai cực đoan đó có một chỗ đứt đoạn rộng lớn về thực thể và là sân chơi của các lực mù quáng. Trong số ba lớp này thì hai lớp đầu tiên vốn vô hình, thân thể của họ toàn bằng chất dĩ thái và lửa (các chơn linh hành tinh); các thần linh thuộc lớp thứ ba khoác lấy các cơ thể dạng hơi; họ thường vô hình nhưng đôi khi trở nên cụ thể để cho ta thấy được trong một vài giây. Đây là các thần linh trần tục tức anh hồn của ta.

Nếu các học thuyết này được nghiên cứu theo phép tương tự dựa vào nguyên tắc tương ứng thì xưa kia nó đã dẫn dắt các môn đồ phái cổ truyền, giờ đây nó có thể̃n dắt các môn đồ trường phái hiện đại từng bước tiến tới việc giải quyết được các điều bí nhiệm lớn nhất. Khi đứng trên bờ vực thẳm tối đen ngăn cách thế gii tâm linh với thế gii vật lý, khoa học hiện đại mắt nhắm nghiền, mặt ngoảnh đi tuyên bố rằng vực thẳm này là không có đáy và không thể vượt qua được, mặc dù nó vẫn cầm trên tay một ngọn đuốc mà chỉ cần thả xuống thấp một ít thôi, xuống dưới vực sâu thì nó cũng chứng tỏ được là mình đang lầm lỗi. Nhưng người kiên nhẫn tìm học triết lý của Hermes đã xây dựng được một cái cầu bắc ngang qua vực thẳm này.

Trong tác phẩm Các Mảnh vụn Khoa học, Tyndall có buồn bã thú nhận như sau: “Nếu bạn hỏi tôi xem liệu khoa học đã giải quyết, hay hiện nay rất có thể giải quyết được vấn đề của vũ trụ hay chưa, thì tôi phải lắc đầu hoài nghi”. Nếu sau khi nghĩ lại mà ông có cải chính mãi sau này và đoan chắc với thính giả rằng bằng chứng thực nghiệm đã giúp ông khám phá ra “sự hứa hẹn và mãnh lực của mọi phẩm tính sự sống” trong cái vật chất bị bao trùm đầy tủi nhục ấy thì ông chỉ nói đùa thôi. Thật khó cho giáo sư Tyndall đưa ra được bất kỳ bằng chứng tối hậu và không thể bác bỏ được về điều mà mình khẳng định, cũng khó khăn nhựy Job xỏ cái móc câu vào lỗ mũi của con quái vật dưới nước.

QUYỂN I

KHOA HỌC HIỆN ĐẠI “KHÔNG THỂ SAI LẦM”

BỨC MÀN CHE NỮ THẦN ISIS

PHẦN I. KHOA HỌC

CHƯƠNG I

NHỮNG ĐIỀU CŨ ĐƯỢC MANG TÊN GỌI MỚI.

- Kinh Kabala của Đông phương.

- Các truyền thuyết xưa được sự nghiên cứu hiện đại ủng hộ.

- Sự tiến bộ của loài người được ghi dấu qua các chu kỳ.

- Khoa học bí truyền thời xưa.

- Sự vô giá của bộ kinh Phệ đà.

- Sự cắt xén những quyển Thánh kinh Do Thái giáo trong khi dịch thuật.

- Pháp thuật luôn luôn được coi là một khoa học thiêng liêng.

- Thành tựu của các cao đồ pháp thuật và giả thuyết của những kẻ hiện đại chỉ biết dèm pha.

- Con người khao khát được bất tử.

CHƯƠNG I

“Ta là Chơn ngã”

̣t câu châm ngôn của triết học Hermes

“Chúng ta bắt đầu khảo cứu nơi mà sự suy đoán hiện đại đã co vòi lại v́ mất niềm tin. Và đối với chúng ta nhng yếu tố thông thường trong khoa học là nhng thứ mà các bậc hiền triết ngày nay khinh thường là điều hoang tưởng hoặc tuyệt vọng, vì đó là những điều bí nhiệm khôn dò”.

Tác phẩm Zanoni của BULWER.

Ở đâu đó trong thế giới rộng rãi này có tồn tại một quyển Cổ thư – xưa đến nổi mà nhng nhà buôn đồ cổ thời nay có thể cân nhắc trên những trang giấy của nó biết bao nhiêu thời gian vẫn không hoàn toàn đồng ý được với nhau về bản chất của loại kết cấu mà nó được viết trên đó. Nó là bản sao duy nhất của nguyên bản mà giờ đây còn tồn tại. Tài liệu xưa nhất bằng tiếng Hebrew bàn v học thuật huyền bí (Siphra Dznieouta) được biên soạn từ bản sao này vào lúc mà bản sao ấy đã được xem xét theo sự minh giải của một di tích văn học. Một trong những hình minh họa trong đó biểu diễn Bản thể Thiêng liêng là phân thân của ADAM [[35]] giống nhựt cung chói sáng tiến ra đ tạo thành vòng tròn; thế rồi sau khi đã đạt tới điểm cao nhất trên chu vi thì Điều Vinh Diệu khôn tả đó vòng xuống trở lại quay v trần thế, mang theo một loại người cao hơn đi vào vòng xoáy. Khi nó càng ngày càng tới gần hành tinh ta thì Phân thân càng ngày càng lu mờ cho đến khi tiếp đất th́ nó tối đen như đêm ba mươi.

̣t điều xác tín, dựa trên bảy ngàn năm, kinh nghiệm – người ta giả định nhựy[[36]] đã được các triết gia Hermes của mọi thời đại ấp ủ cho rằng sớm muộn gì thì do tội lỗi vật chất cũng trở nên thô trược hơn so với lúc con người mới được tạo ra; vào lúc khởi thủy cơ thể con người có bản chất bán tinh anh; trước khi sa đọa loài người thoải mái giao tiếp với các vũ trụ giờ đây không còn ai nhìn thấy nữa. Nhưng từ lúc đó trở đi, vật chất đã trở thành hàng rào khủng khiếp ngăn cách chúng ta với thế gii tinh thần. Truyền thuyết nội môn xưa nhất cũng dạy rằng trước khi có Adam thần bí đã có nhiều giống người sống rồi chết đi, mỗi giống người lần lượt nhường chỗ cho giống người khác. Liệu những giống người trước đó này có hoàn hảo hơn chăng? Liệu có giống người nào thuộc về giống người có cánh mà Plato đề cập tới trong tác phẩm Phœdrus hay chăng? Khoa học có thẩm quyền đặc biệt giải quyết vấn đề này. Các hang động ở Pháp và di chỉ của thời kỳ đồ đá cung ứng một khởi điểm để ta bắt đầu.

Khi chu kỳ tiếp diễn thì mắt người càng ngày càng mở ra cho đến khi y đâm ra biết được về “điều thiện” và “điều ác” cũng như bản thân các đấng Elohim. Sau khi đạt tới tột đỉnh thì chu kỳ bắt đầu đi xuống. Khi vòng cung đạt tới một mức nào đó khiến cho nó song song với một đường cố định trên cõi trần tục thì con người được thiên nhiên cung cấp cho “lớp áo bằng da” và Thiên Chúa “đã mặc quần áo đó cho họ”.

Ta có th truy nguyên cũng niềm tin này (về sự tồn tại trước đó của một giống người có tính linh hơn hẳn so với giống người mà giờ đây ta thuộc về) tới tận những truyền thuyết xa xưa nhất của hầu hết mọi dân tộc. Trong bản thảo cổ truyền Quiché mà Brasseur de Bourbourg xuất bản tức là quyển Popol Vuh, người ta đề cập tới những người đầu tiên là giống dân có thể ăn nói, lý luận, với tầm nhìn vô hạn, và biết ngay tức khắc mọi chuyện. Theo Philo Judæus bầu không khí chứa đầy một tập đoàn vô hình các Chơn linh, một số bất tử và không tàn ác, còn một số hữu hoại và độc hại. “Chúng ta thoát thai từ các con của El và chúng ta lại trở thành các con của El”. Và phát biểu dứt khoát của một tín đồ Ngộ đạo vô danh viết quyển Phúc âm theo thánh John cho rằng “biết bao nhiêu người tiếp nhận Ngài” nghĩa là thực tế tuân theo giáo lý bí truyền của Chúa Giê su đều “trở thành con của Thiên Chúa” (I, 12) cũng nêu lên niềm tin ấy. Bậc Thầy có kêu lên rằng “các con không biết mình là thần linh ư?” Trong tác phẩm Phœdrus, Plato có mô tả tuyệt vời trạng thái mà con người đã từng đạt được và y sẽ lại trở thành như thế: trước và sau khi “bị cắt cụt mất cánh” khi “y sống giữa các thần linh, bản thân y là vị thần linh trong thế giới lồng lộng trên không”. Từ thời kỳ xa xưa nhất các triết thuyết tôn giáo đều có dạy rằng trọn cả vũ trụ chứa đầy các thực thể thiêng liêng và tâm linh thuộc đủ mọi giống người. Theo thời gian, một trong những giống người này tiến hóa ra thành ADAM, người nguyên thủy.

Trong huyền thoại, người Kalmuck và mt số bộ̣c ở Tây bá lợi á cũng mô tả những tạo vật sơ khai hơn so với giống người hiện nay. Họ bảo rằng các thực thể này hầu như có kiến thức vô biên và rất dũng cảm thậm chí đến mức đe dọa nổi loạn chống lại vị Chơn linh đại Thủ lãnh. Để trừng phạt sự tự phụ của họ khiến cho họ biết thế nào là khiêm tốn, vị thủ lãnh giam nhốt họ trong những thể xác và thế là bị các giác quan khống chế. Họ chỉ có thể thoát ra khỏi những thể xác này qua một thời kỳ lâu dài ăn năn, tự̉y rửa và tự phát triển. Họ nghĩ rằng các Shamans của họ đôi khi có được những thần thông mà xưa kia mọi người đu có.

Thư viện Astor ở New York mới đây được bổ sung bản sao bộ Khảo luận Y khoa viết vào thế kỷ 16 trước Công nguyên (chính xác là năm 1552 trước Công nguyên), theo niên đại học thường được chấp nhận th́ đây là thời kỳ thánh Moses mới có 21 tuổi. Nguyên bản được viết trên vỏ cây bên trong của Cây gió Cyperus; giáo sư Schenk ở Leipsig đã tuyên bố rằng nó không chỉ trung thực mà còn là bản hoàn hảo nhất ông đã từng thấy. Nó bao gồm một tờ chiếc giấy gió màu vàng nâu có phẩm chất tốt nhất, rộng 3 tấc, dài 20 mét và tạo thành một cuộn sách được chia thành 110 trang, tất cả đều được đánh số cẩn thận. Nhà khảo cổ học Ebers đã mua được nó ở Ai Cập vào năm 1872-1873 từ tay “một người Ạ̉p sung túc ở Luxor”. Khi bình luận về trường hợp này báo Diễn đàn New York có nói: Tài liệu bằng giấy gió đó có “bằng chứng nội tại là một trong 6 quyển Sách Hermes về Y học do Clement ở Alexandria đặt tên”.

Ban biên tập có nói thêm rằng: “Vào thời Iamblichus, năm 363 sau Công nguyên, các lễ sư Ai Cập có trưng bày 42 quyển sách mà họ gán cho Hermes (Thuti). Theo tác giả đó thì trong số nhng quyển sách ấy có 36 quyển bao hàm lịch sử về mọi kiến thức của loài người; 6 qủn cuối cùng bàn về giải phẫu cơ thể học, bệnh lý học, bệnh nhãn khoa, dụng cụ phẫu thuật và thuốc men [[37]] . Tài liệu Giấy gió Ebers rõ ràng là một trong các tác phẩm cổ truyền của Hermes”.

Nếu tia sáng soi rọi cho khoa học cổ truyền của Ai Cập do nhà khảo cổ học người Đức ngẫu nhiên gặp một người Ạ̉p “sung túc ở Luxor” thì làm sao ta có thể biết được ánh sáng mặt trời nào sẽ rọi vào những hang động tối tăm của lịch sử do sự̣p gỡ cũng ngẫu nhiên giữa một người Ai Cập giàu có nào khác và mt người mạo hiểm tìm học về thời cổ nào khác.

Những khám phá của khoa học hiện đại không bất đồng với những truyền thuyết xưa nhất cho rằng loài người có nguồn gốc xa xưa không thể tin nổi. Trong vòng vài năm vừa qua địa chất học (trước kia chỉ thừa nhận rằng ta chỉ có thể truy nguyên con người đến tận đệ tam kỷ) đã tìm ra những bằng chứng không phản bác được theo đó con người tồn tại trước cả thời Băng hà cuối cùng ở Âu châu – hơn 250 ngàn năm! Đối với Thần học của các Giáo phụ th́ đây là mt khối cứng ngắc khó lòng phá vỡ được nhưng là mt sự thật được các triết gia thời xưa chấp nhận.

****************

Bất kỳ môn đồ Kinh Kabala nào quen thuộc với hệ thống số và hình học của Pythgoras đều có thể chứng minh được rằng quan niệm siêu hình của Plato vốn dựa vào những nguyên lý toán học nghiêm xác nhất. Tác phẩm Magicon có nói: “Toán học chân chính là mt điều ǵ đó liên quan tới mọi khoa học cao cấp; còn toán học thông thường chẳng qua chỉ là một bóng ma lừa gạt và tính không thể sai lầm của nó vốn được tâng bốc quá lời chỉ bắt nguồn từ việc nền tảng của nó là nhng tư liệu, điều kiện và những điều qui chế như thế”. Khoa học gia nào tin rằng mình chọn theo phương pháp Aristotle chỉ v́ mình bò khi không chịu chạy từ việc chứng tỏ cái riêng dẫn tới cái chung. Khoa học gia ấy đã vinh danh cho phương pháp triết học qui nạp này và đã bác bỏ triết học của Plato mà họ coi là thiếu thực chất. Giáo sư Draper phàn nàn rằng những nhà thần bí suy đoán như Amonius Saccas và Plotinus đã thế chỗ cho “các nhà triết học nghiêm khắc của các bảo tàng viện cổ xưa” [[38]]. Ông quên rằng môn hình học là môn duy nhất trong các khoa học đi từ cái chung đến cái riêng, cho nên chính là phương pháp mà Plato sử dụng trong triết học của mình. Chừng nào khoa học chính xác còn hạn chế việc quan sát vào những tình huống vật lý và tiến hành theo kiểu Aristotle th́ nó chắc chắn là không thể sai lầm. Tuy nhiên mặc dù thế gii vật chất vốn vô biên đối với chúng ta, song nó vẫn còn hữu hạn, thế là cái thuyết duy vật mãi mãi đi cái vòng lẩn quẩn không thể bay vút lên cao hơn mức chu vi vòng tròn ấy cho phép. Chỉ có thuyết số học về vũ trụ của Pythagoras học được của các đạo trưởng Ai Cập mới có thể dung hòa được hai đơn vị tinh thần và vật chất, khiến cho mỗi đơn vị chứng tỏ được đơn vị kia ṿt toán học.

Những con số linh thiêng của vũ trụ qua các tổ hợp bí truyền giải quyết được bài toán lớn, giải thích được thuyết bức xạ và chu kỳ phân thân. Trước khi phát triển thành các bậc cao hơn th́ các bậc thấp hơn phải phân thân từ các bậc tâm linh cao hơn nữa để rồi khi đạt tới mức bước ngoặt th́ nó lại được tái hấp thụ vào vô cực.

Cũng như mọi thứ khác trong cái thế giới tiến hóa đời đời này, sinh lý học phải chịu sự xoay vòng tuần hoàn. Cũng như giờ đây nó dường như khó lòng xuất lộ khỏi cái bóng của vòng cung dưới thấp; cũng vậy, một ngày kia nó có th tỏ ra là đã ở điểm cao nhất trên chu vi vòng tròn vào cái thời sớm hơn hẳn thời ca Pythagoras.

Mochus là người ở xứ Sidon, nhà sinh lý học và giáo sư giải phẫu cơ thể học đã lừng danh rất lâu trước thời nhà hiền triết ở Samos, còn nhà hiền triết ở Samos lại nhận được những giáo huấn linh thiêng ca các môn đồ và hậu duệ. Pythagoras là nhà triết học thuần túy am hiểu sâu sắc v nhng hiện tượng thâm thúy của thiên nhiên, là nhà quí tộc thừa kế kho học thức cổ truyền với mục đích vĩ đại là giải thoát linh hồn ra khỏi vòng xiềng xích của giác quan và buộc nó  phải thực chứng được quyền năng của mình, phải sống vĩnh hằng trong ký ức của con người.

Bức màn bí mật thâm sâu không thể xuyên thấu đã che phủ lên môn khoa học được giảng dạy trong thánh điện. Đây là nguyên nhân khiến cho người thời nay đánh giá thấp các triết lý cổ truyền. Ngay cả Plato và Philo Judæus cũng bị nhiều nhà bình luận buộc tội là tiền hậu bất nhất một cách phi lý trong khi rõ ràng là bản thiết kế làm nền tảng cho mê lộ với những điều mâu thuẫn siêu hình đã gây rối trí xiết bao cho người đọc tác phẩm Timæus. Nhưng liệu có một nhà xiển dương triết học cổ điển nào đã từng đọc Plato mà hiểu ông chăng? Đây là vấn đề được bảo đảm là đúng qua phần phê phán mà ta thấy nơi những tác giả như Stalbaüm, Schleirmarcher, Ficinus (bản dịch tiếng La tinh), Heindorf, Sydenham, Buttmann, Taylor và Burges, chứ đừng nói tới những người có ít thẩm quyền hơn. Việc nhà triết học người Hi Lạp ngầm ám chỉ những điều bí truyền rõ rệt là đã làm rối trí những nhà bình luận này đến mức tối đa. Họ chẳng những trân tráo lạnh lùng gợi ý rằng một số đoạn khó hiểu hiển nhiên là ngụ ý khác đi mà họ còn dám liều mạng sửa văn khác đi nữa. Dòng chữ của Orpheus:

“Trong bài hát thì thứ tự của giống dân thứ sáu đã kết thúc”

chỉ có thể được thuyết giải là ám chỉ giống dân thứ sáu đã tiến hóa liên tiếp qua các cõi [[39]] . Burges có viết: “ . . . hiển nhiên là nó đã được rút ra từ một vũ trụ khởi nguyên luận trong đó người ta bịa đặt rằng con người được sáng tạo ra sau cùng” [[40]]. Chẳng lẽ cái người đảm đương việc biên tập tác phẩm của người khác mà ít ra lại không hiểu nổi ngụ ý của tác giả hay sao?

Thậṭy, ngay cả những người ít có thành kiến nhất trong các nhà phê bình hiện đại nói chung dường như đều cho rằng các triết gia thời xưa thiếu những kiến thức sâu sắc và rốt ráo về khoa học chính xác mà thế kỷ hiện nay của chúng ta đang khoe khoang xiết bao. Thậm chí người ta còn nghi vấn chẳng biết các triết gia thời xưa có hiểu được chăng cái nguyên lý khoa học căn bản: không một điều gì có thể được tạo ra từ hư vô. Nếu họ phỏng đoán rằng ̣t chất có tính bất diệt – theo các nhà bình luận ấy – th́ đó không phải là hậu quả của một công thức đã được xác lập mà chỉ là do lý luận theo trực giác và bằng phép tương tự.

Chúng tôi có ý kiến ngược lại. Những điều suy đoán của các triết gia ấy về vật chất vẫn được bỏ ngỏ cho công luận phê phán: nhưng giáo huấn của họ về những sự việc tâm linh có tính bí truyền sâu sắc. Nhựy vì đã thệ nguyện giữ bí mật và kín miệng đối với những đề tài bí hiểm của tôn giáo bao gồm quan hệ giữa tinh thần với vật chất, cho nên họ cạnh tranh với nhau bằng nhng phương pháp khéo léo để che giấu đi ý kiến thực của mình.

Các nhà khoa học đã chế nhạo rất nhiều, còn các nhà thần học đã bác bỏ thuyết Chuyển kiếp, thế nhưng nếu ta hiểu đúng được nó khi áp dụng vào tính bất diệt của vật chất và tính bất tử của tinh thần thì ta ắt nhn thc được rằng đó là mt quan niệm cao siêu. Tại sao trước tiên ta không xem xét vấn đề này theo quan điểm của cổ nhân rồi mới dám cả gan dèm pha những người giảng dạy nó?

Việc giải thích vấn đề lớn là thời gian vĩnh hằng không thuộc về lãnh vực mê tín dị đoan theo tôn giáo cũng như duy vật thô thiển. Sự hài hòa và đồng dạng toán học của cơ tiến hóa lưỡng bội (tâm linh và thể chất) chỉ được minh giải qua những con số vạn năng của Pythagoras, ông đã xây dựng hệ thống của mình hoàn toàn trên cái gọi là “ngôn ngữ âm luật” trong kinh Phệ đà của Ấn Độ. Chỉ mới gần đây thì một trong những học giả nhiệt thành nhất về tiếng Bắc phạn là Martin Haug mới đảm đương việc dịch thuật Aitareya Brahmanam của bộ Rig Phệ đà. Mãi cho tới lúc đó chẳng ai biết gì v nó; những lời giải thích ấy đã biểu thị không thể chối cãi sự đồng nhất của hệ thống Pythagoras và Bà la môn giáo. Trong cả hai hệ thống này đều rút ra ý nghĩa bí truyền từ con số: trong hệ thống Pythagoras có mối quan hệ thần bí của mọi con số với mọi điều mà trí người có thể hiểu được; trong hệ thống Bà la môn giáo người ta rút ra ý nghĩa bí truyền từ số âm tiết tạo nên mỗi câu thơ trong các Mantras thần chú. Plato là môn đồ nhiệt thành của Pythagoras đã thực chứng hoàn toàn được điều đó đến nỗi ông chủ trương rằng hình khối 12 mặt là hình kỷ hà mà Đấng Hóa Công sử dụng để kiến tạo nên vũ trụ. Một số hình này có ý nghĩa đặc biệt long trọng. Chẳng hạn như số 4 (hình khối 12 mặt là gấp 3 lần số 4) được môn đồ Pythagoras coi là linh thiêng. Chính hình vuông toàn bích (trong đó không có một đường biên nào vượt hơn đường biên khác chỉ một điểm nhỏ theo chiều dài), nó là biểu hiệu của sự công bằng đạo đức và sự bình đẳng thiêng liêng được biểu diễn bằng hình học. Mọi quyền năng và mọi bản đại hòa tấu có bản chất tâm linh và th chất đều nội tiếp trong hình vuông toàn bích và hồng danh khôn tả của Ngài (hồng danh này không thể thốt nên lời bằng cách nào khác) được thay thế bằng con số 4 linh thiêng ấy, nó là lời thề ràng buộc long trọng đối với các thần bí gia thời xưa là Tứ linh tự.

Nếu ta giải thích rành mạch và đối chiếu thuyết chuyển kiếp của Pythagoras với thuyết tiến hóa hiện đại thì ta ắt thấy nó cung cấp mọi “mắt xích còn thiếu” cho cái chuỗi xích tiến hóa hiện đại. Nhưng có ai trong đám khoa học gia chúng ta mà lại chịu mất thời giờ quí báu về những trò ngông cuồng đó của cổ nhân. Mặc dù có bằng chứng ngược lại, song họ chẳng nhng chối bỏ việc các quốc gia thời cổ sơ có kiến thức chắc chắn về hệ thống Nhật tâm mà còn bác bỏ việc các triết gia thời xưa có thể biết điu đó. “Bedes Đáng Kính”, Augustines và Lactantii dường như do dốt nát đầy giáo điều đã bóp nghẹt mọi niềm tin vào các nhà thần học xưa hơn thời kỳ thế kỷ tiền-Ki Tô. Nhưng giờ đây ngôn ngữ học đã làm quen nhiều hơn với kho tài liệu tiếng Bắc phạn, cho nên phần nào giúp ta bào chữa được cho họ đứng trước những lời buộc tội bất công. Chẳng hạn như trong kinh Phệ đà ta thấy có bằng chứng chắc chắn cho rằng ngay từ năm 2.000 trước Công nguyên, các nhà hiền triết và học giả Ấn Độ ắt đã quen thuộc với việc trái đất hình tròn cũng nhự thống Nhật tâm. Vì thế cho nên Pythagoras và Plato đều biết rõ sự thật thiên văn này; đó là v́ Pythagoras đã thu lượm được kiến thức nơi Ấn Độ hoặc từ những người đã ở Ấn Độ, còn Plato chỉ trung thành phản ánh lại giáo huấn của Pythagoras. Chúng tôi xin trích dẫn hai đoạn trong Aitareya Brahmana:

Trong “Thần chú về Con rắn” [[41]] , Brahmana tuyên bố như sau: Thần chú này được Nữ hoàng loài Rắn, Sarpa-rājni, chứng kiến, vì trái đất là Nữ hoàng của loài Rắn do nó là mẹ đứng đầu mọi thứ biết vận động. Thoạt tiên trái đất chỉ có một cái đầu tròn không có tóc (hói) nghĩa là không có cây cối. Thế rồi nó quan niệm ra thần chú này mang lại cho kẻ nào biết thần chú ấy quyền năng có được bất kỳ hình tướng nào mà ḿnh muốn. Nó “phát âm ra thần chú” nghĩa là hiến tế cho chư thần linh và do đó tức khắc có một dáng vẹ̉c sỡ, nó đâm ra thiên biến vạn hóa, có thể tạo ra bất kỳ hình tướng nào mà ḿnh muốn, biến đổi từ hình tướng này sang hình tướng khác. Thần chú này bắt đầu bằng cụm từ: “Ayam gaūh priśnir akramīt (x., 189).

Việc mô tả trái đất có dạng một cái đầu tròn và trọc lóc thoạt tiên là mềm và chỉ trở nên cứng do được thần Vâyu tức là thần gió phà hơi vào, việc đó bắt buộc gợi ra ý tưởng rằng tác giả ca các thánh thư Phệ đà đã có biết trái đất hình tròn hoặc hình cầu; hơn nữa nó thoạt tiên là một khối dạng keo và dần dần mới nguội lại do ảnh hưởng của gió và thời gian. Kiến thức của họ v việc trái đất hình cầu; và giờ đây ta còn có bằng chứng để dựa vào đó mà khẳng định là người Ấn Độ đã hoàn toàn quen thuộc với hệ thống Nhật tâm, ít ra cũng từ 2.000 năm trước Công nguyên.

Cũng trong bộ khảo luận đó, vị lễ sư Hotar được dạy cách lập lại các kinh Shastras và cách giải thích hiện tượng mặt trời mọc và mặt trời lặn. Kinh dạy: “Các Agnishtoma là vị thần linh đốt cháy. Mặt trời chưa bao giờ mọc cũng như chưa bao giờ lặn. Khi người ta nghĩ mặt trời lặn thì không phải nhựy, họ đã nhầm lẫn. Đó là v́ sau khi đạt tới lúc tận cùng của một ngày thì mặt trời tạo ra hai tác dụng đối nghịch khiến cho điều ở bên dưới trở thành đêm, còn điều ở phía bên trên trở thành ngày. Khi thiên hạ tin rằng mặt trời mọc vào buổi sáng th́ nó chỉ làm như sau: sau khi đã đạt tới điểm tận cùng của đêm th́ bản thân nó tạo ra hai tác dụng đối nghịch, biến điều ở bên dưới thành ngày và điều ở phía bên kia thành đêm. Thật ra mặt trời không bao giờ lặn, nó cũng chẳng lặn đối với ai đã biết như thế” [[42]] .

Câu này có tính kết luận đến mức ngay cả dịch giả của bộ Rig Phệ đà là Tiến sĩ Haug cũng bắt buộc phải nhận xét nhựy. Ông bảo rằng đoạn này bao hàm việc “chối bỏ có sự tồn tại của hiện tượng mặt trời mọc và mặt trời lặn”, và tác giả giả định rằng mặt trời “vẫn luôn luôn ở vị trí trên cao” [[43]] .

Ợ̉t trong những tác phẩm Nivids xưa nhất, Rishi Kutsa, là mt bậc hiền triết Ấn Độ thời xa xưa nhất đã giải thích ẩn dụ về những định luật đầu tiên dành cho các thiên thể. Đó là v́ việc làm “điều mà ḿnh không nên làm” nên Anāhit  (Anaïtis tức Nana là Kim tinh của người Ba Tư) biểu diễn trái đất trong huyền thoại mới bị kết án phải quay xung quanh mặt trời. Các Sattras tức những khóa hiến tế [[44]] chứng tỏ chắc chắn rằng rất sớm, vào khoảng thế kỷ 18 hoặc 20 trước Công nguyên, th́ người Ấn Độ đã tiến bộ rất nhiều v khoa học thiên văn. Các Sattras kéo dài một năm và chẳng qua chỉ là “bắt chước lộ trình hằng năm của mặt trời”. Ông Haug có nói rằng chúng được chia ra thành hai bộ phận riêng biệt, mỗi bộ phận bao gồm 6 tháng, mỗi tháng 30 ngày; giữa hai bộ phận này là Vishuvan ường xích đạo, tức lúc chính ngọ) chia trọn cả Sattras ra thành hai nửa. v.v. . . [[45]] . Mặc dù học giả này gán cho việc trước tác đa số bộ Brahmanas vào thời kỳ 1400 tới 1200 năm trước Công nguyên, song ông có ý kiến cho rằng bài thánh ca xưa nhất có thể được ấn định vào ngay lúc bắt đầu kho tài liệu kinh Phệ đà vào giữa năm 2400 và 2000 trước Công nguyên. Ông thấy chẳng có lý do gì để coi kinh Phệ đà là kém phần xưa cũ hơn các thánh thư của Trung Hoa. V́ Kinh Thư và các bài hiến tế trong Kinh Thi đã được chứng tỏ là xưa cũ tới mức 2200 năm trước Công nguyên, cho nên chẳng bao lâu nữa các nhà ngôn ngữ học ắt phải bắt buộc thừa nhận rằng người Ấn Độ thời tiền hồng thủy là bậc thầy v kiến thức thiên văn.

Dù sao đi nữa, có những sự kiện chứng tỏ rằng một số phép tính toán thiên văn vẫn chính xác đối với người Chaldea vào thời Julius Cæsar cũng giống như thời nay. Khi nhà chinh phục ấy cải cách lịch thì người ta thấy dương lịch thường dùng tương ứng rất ít với mùa màng đến nỗi mà mùa hè đã lẫn lộn vào những tháng mùa thu, còn các tháng mùa thu lại nhập nhằng vào ngay giữa mùa đông. Chính Sosigenes, là nhà thiên văn học người Chaldea đã phục hồi được trật tự từ cái mớ hỗn độn ấy bằng cách đẩy lùi ngày 25 tháng 3 lui lại 90 ngày, do đó khiến cho tương ứng với điểm xuân phân; và cũng chính Sosigenes đã ấn định độ dài của các tháng giống như chúng vẫn còn nhựy hiện nay.

Ở Châu Mỹ, đạo quân Motezuman đã phát hiện ra rằng lịch của người Aztecs qui cho mỗi tháng con số bằng nhau v ngày và tuần lễ. Mức độ cực kỳ chính xác trong phép tính toán thiên văn của họ lớn đến nỗi những phép kiểm chứng sau này không phát hiện ra được họ tính sai, còn người Âu Châu độ̉ lên Mễ tây cơ năm 1519 th́ tính theo lịch của Cæsar đã đi sớm gần 11 ngày so với thời gian chính xác.

Chúng ta biết ơn những bản dịch chính xác vô giá của bộ kinh Phệ đà và nhng khảo cứu cá nhân của Tiến sĩ Haug vì chúng bổ chứng cho những lời khẳng định ca các triết gia Hermes. Ta có thể dễ dàng chứng minh được thời kỳ Zarathustra Spitama (Zoroaster) xa xưa khôn tả. Bộ Brahmanas mà ông Haug gán cho là đã có từ 4000 năm nay mô tả sự đấu tranh tôn giáo giữa những người Ấn Độ thời xưa sống vào thời tiền-Phệ đà và người Ba Tư.

************

Người ta gán cho rằng pháp thuật là mt khoa học linh thiêng giúp ta tham dự vào các thuộc tính của Thượng Đế. Philo Judæus có nói rằng: “Nó tiết lộ các thao tác của thiên nhiên và giúp ta chiêm ngưỡng được những quyền năng thiên thể [[46]] . Vào thời sau này, việc nó bị lạm dụng và thoái hóa thành ra thuật phù thủy khiến nó nói chung bị ghê tởm. Do đó ta chỉ bàn tới pháp thuật ở vào quá khứ xa xưa trong thời kỳ mà mọi tôn giáo chân chính đều dựa trên cơ sở hiểu biết các quyền năng huyền bí của thiên nhiên. Giai cấp giáo sĩ ở̉ Ba Tư không hề lập nên pháp thuật như người ta thường nghĩ mà chính các pháp sư Magi mới sáng lập ra pháp thuật, tên gọi của họ phái sinh từ pháp thuật. Mobeds, là các lễ sư của Bái Hỏa giáo – những người Ghebers cổ truyền – ngay cả thời nay cũng được gọi là Magoï trong thổ ngữ Pehlvi [[47]] . Pháp thuật xuất hiện trên thế giới cùng với những giống người xa xưa nhất. Cassien có nhắc tới một bộ khảo luận nổi tiếng vào thế kỷ thứ 4 và 5 mà người ta tin là ca Ham, con trai của Noah, đến lượt Noah lừng danh là đã tiếp nhận bộ khảo luận đó từ Jared, là hậu duệ đời thứ tư của Seth tức con trai của Adam [[48]] .

Ta biết tên thánh Moses vì ông có hiểu biết mẹ của nữ hoàng Ai Cập, là Thermuthis, bà cứu ông khỏi chết đuối trên dòng sông Nile. Bản thân vợ của vua Pharaoh [[49]] , Batria, cũng là một điểm đạo đồ, còn tín đồ Do Thái chịu ơn bà v́ có bậc đạo sư “đã học được mọi minh triết của người Ai Cập, có lời lẽ và hành vi dũng mãnh” [[50]] . Thánh tử vì đạo Justin dựa vào thẩm quyền của Trogus Pompeius chứng tỏ rằng Joseph đã hiểu biết rất nhiều về pháp thuật nhờ học được của các lễ sư cao cấp Ai Cập [[51]] .

̉ nhân biết nhiều về một vài môn khoa học so với các nhà bác học hiện đại vẫn còn chưa khám phá hết.̣c dù nhiều người vẫn ngần ngại thú nhận, song nhiều khoa học gia đã công nhận rằng: “Trình độ kiến thức khoa học có được vào thời kỳ xã hội sơ khai vĩ đại hơn nhiều so với mức nhng người hiện đại sẵn lòng công nhận”. Tiến sĩ A. Todd Thomson, là biên tập của tác phẩm Khoa học Huyền bí của Salverte có nói nhựy; ông còn nói thêm: “Nhưng kiến thức đó chỉ được hạn chế trong các đền thờ đã bị̉n thận che khuất khỏi cặp mắt soi bói của dân chúng và tương phản với giới lễ sư”. Khi nói tới kinh Kabala, nhà bác học Franz von Baader có nhận xét rằng: “Chẳng những việc cứu chuộc và khoa minh triết của ta mà bản thân khoa học của ta cũng do người Do Thái truyền lại”. Nhưng tại sao không nói hết câu cho độc giả biết người Do Thái có được minh triết do ai truyền thừa?

Origen (vốn đã thuộc về trường phái Alexandria của các môn đồ Plato) tuyên bố rằng thánh Moses ngoài việc giảng huấn về giao ước còn truyền thụ̣t số bí mật rất quan trọng “từ vùng sâu thẳm ẩn tàng trong định luật” trao lại cho 70 môn đồ lão thành. Ông ra lệnh cho họ chỉ truyền thụ những bí mật này cho người nào mà họ thấy xứng đáng.

Thánh Jerome gọi các tín đồ Do Thái ở Tiberias và Lydda là các bậc huấn sư duy nhất về cách thuyết giải thần bí. Cuối cùng Ennemoser nhấn mạnh tới ý kiến theo đó “các tác phẩm của Dionysius Areopagita rành rành là dựa cơ sở trên kinh Kabala của Do Thái giáo”. Khi chúng ta xét tới việc các môn đồ phái Ngộ đạo tức các Ki Tô hữu sơ khai chẳng qua chỉ là tín đồ của phái Essenes thời xưa mang một danh hiệu mới, thì sự kiện này cũng chẳng có gì lấy làm lạ. Giáo sư Molitor tưởng thưởng xứng đáng kinh Kabala. Ông nói:

“Đã qua rồi cái thời tiền hậu bất nhất và hời hợt cả trong thần học lẫn trong khoa học; và vì thuyết duy lý cách mạng ấy chẳng để lại ǵ ngoại trừ sự rỗng tuếch của chính mình, sau khi đã hủy hoại mọi thứ tích cực, cho nên giờ đây đã đến lúc ta lại chú ư tới cái sự khải huyền bí nhiệm vốn là động cơ thúc đẩy linh hoạt ắt phải mang lại sự cứu chuộc cho ta . . . Các Bí pháp của Do Thái thời xưa (vốn bao hàm mọi bí nhiệm của Do Thái thời nay đã được đặc biệt tính toán để đặt kết cấu thần học dựa trên những nguyên lý minh triết thiêng liêng sâu sắc nhất và có được một nền tảng vững chắc cho mọi khoa học lý tưởng. Nó ắt mở ra một con đường mới . . . cho cái mê lộ tối tăm của các thần thoại, điều bí nhiệm và cấu tạo của các quốc gia ban sơ. Chỉ trong các truyền thuyết này mới có bao hàm hệ thống các trường phái nhà tiên tri; nhà tiên tri Samuel không tìm thấy mà chỉ phục hồi lại hệ thống này; nó có cứu cánh chẳng có gì khác hơn là đưa các học giả tới minh triết và tri thức cao nhất khi họ tỏ ra xứng đáng và khai tâm họ vào các điều bí nhiệm sâu xa hơn. Được xếp vào loại điu bí nhiệm này là pháp thuật, nó có bản chất lưỡng tính: pháp thuật thiêng liêng và pháp thuật gian tà tức tà thuật. Mỗi mt trong các loại pháp thuật này lại được chia thành hai loại nhỏ: loại chủ động và loại thụ động; trong loại chủ động con người cố gắng giao tiếp với thế gii để học được những điều ẩn tàng; trong loại thụ động y cố gắng đạt quyền năng khống chế các tinh linh; trong loại chủ động y thực thi những hành vi tốt đẹp và mang lại phúc lợi, trong loại thụ động y thực hiện mọi thứ hành động ma quỉ và thiếu tự nhiên” [[52]] .

Giới giáo sĩ của ba đoàn thể Ki Tô giáo nổi bật nhất là Chính thống giáo Hi Lạp, Công giáo La Mã và Tin Lành đều tỏ ý phản đối mọi hiện tượng tâm linh biểu lộ qua cái gọi là “đồng cốt”. Thật vậy chỉ có mt thời kỳ rất ngắn đã trôi qua từ khi cả Giáo hội Công giáo La Mã lẫn Tin Lành đều thiêu đốt, treo cổ và thậm chí còn giết hại mọi nạn nhân chới với mà các vong linh – đôi khi là các lực thiên nhiên mù quáng và cho đến nay chưa giải thích được – biểu lộ thông qua cơ thể họ. Đứng đầu ba giáo hội này và nổi bật nhất là Giáo hội La Mã. Bàn tay nó đã đỏ thắm máu vô tội của vô số nạn nhân đã bị đổ ra nhân danh thiên tính giống như-Moloch đang cầm đầu đức tin của nó. Nó sẵn sàng và sốt sắng bắt đầu lại. Nhưng nó bị bó chân bó tay do cái tinh thần tiến bộ và tự do tôn giáo thuộc thế kỷ 19 mà ngày nào nó cũng chửi rủa và xúc phạm. Chính thống giáo Nga-Hi Lạp thân thiện nhất và giống nhưức Ki Tô v́ có đức tin sơ khai, đơn giản, mặc dù mù quáng. Bất chấp sự thật thực tế không có sự hợp nhất nào giữa các giáo hội Hi Lạp và La Tinh và cả hai đã chia tay nhau từ cách đây nhiều thế kỷ. Song Đức Giáo hoàng La Mã dường như thường xuyên phớt lờ sự kiện ấy bằng một cách trơ trẽn nhất có thể được. Giáo hội La Mã đã nhận vơ v mình cái quyền quản hạt chẳng những đối với các xứ sở trong phạm vi giáo xứ của Chính thống giáo mà còn đối với mọi tín đồ Tin Lành nữa. Giáo sư Draper có nói rằng: “Giáo hội cứ khăng khăng cho rằng nhà nước chẳng có quyền đối với bất cứ điều gì mà Giáo  ̣i tuyên bố trong địa hạt quản trị của mình và Tin Lành chỉ là phái nổi loạn tuyệt nhiên chẳng có quyền gì hết; ngay cả ở các giáo xứ trong cộng đồng Tin Lành thì vị giám mục Công giáo vẫn là vị chủ chiên tâm linh hợp pháp duy nhất[[53]]. Những sắc lệnh không ai buồn chú ý tới, những bức thư chỉ dụ của Giáo hoàng chẳng ai thèm đọc, những lời mời đọc dự công hội đại kết chẳng ai buồn đếm xỉa, những việc rút phép thông công bị người ta chế nhạo – tất cả những thứ đó dường như chẳng làm ai nao núng. Sự kiên trì của họ chỉ ăn khớp với sự trơ tráo của họ thôi. Vào năm 1864, người ta đã đạt tới đỉnh cao phi lý khi Giáo hoàng Pius thứ IX đã rút phép thông công và công khai trút lên Nga hoàng sự mạ lỵ coi đó là kẻ ly giáo bị trục xuất ra khỏi lòng của Hội thánh Mẹ [[54]] . Từ khi nước Nga được Ki Tô hóa cách đây 1000 năm, các vị̉ tiên cũng như bản thân Nga hoàng chưa bao giờ đồng ý gia nhập Công giáo La Mã. Tại sao không đòi hỏi quyền quản hạt của Giáo hội đối với các Phật tử ở Tây Tạng hay là bóng dáng của những Hyk-Sos thời xưa?

Hiện tượng đồng cốt đã biểu hiện mọi lúc ở Nga cũng như ở mọi xứ sở khác. Thế lực này phớt lờ những sự dị biệt về tôn giáo, nó cười nhạo quốc tịch và xâm lấn bất kỳ cá nhân nào mà không được mời gọi, cho dù đó là mt vị quân vương đứng đầu nước hay một kẻ ăn xin nghèo nàn.

Ngay cả vị Phó tế của Thiên Chúa hiện nay tức bản thân Giáo hoàng Pius thứ IX cũng không thoát khỏi tay người khách không mời mà đến. Trong vòng 50 năm vừa qua người ta biết rằng Đức Giáo hoàng đã chịu nhiều cơn chứng rất dị thường. Trong nội bộ Tòa thánh Vatican thì người ta bảo đó là các linh ảnh về Thiên Chúa, còn ngoài phạm vi Tòa thánh thì giới y sĩ bảo đó là các cơn động kinh; và theo tin đồn của dân chúng thì người ta gán cho nó là bị ma ám thuộc loại Peruggia, Castelfidardo và Mentana!

“Đèn bật lên thì màu xanh; thế mà giờ đây nó tắt ngúm như tối đêm ba mươi

Những giọt mồ hôi lạnh sợ hãi toát lên trên da thịt run rẩy của tôi

Thiết tưởng vong hồn của những người mà tôi đã khiến cho họ bị giết hại

Đã trở lại. . .” [[55]]

Ông hoàng Hohenlohe rất nổi tiếng vào phần tư đầu tiên trong thế kỷ hiện nay về quyền năng chữa bệnh, bản thân ông cũng là một đồng cốt vĩ đại. Thật vậy, những hiện tượng và quyền năng ấy không thuộc về thời đại hoặc xứ sở đặc biệt nào. Chúng tạo thành một phần các thuộc tính tâm lý của con người tức Tiểu vũ trụ.

Trong hàng thế kỷ các Klikouchy [[56]] , Yourodevoÿ [[57]] và những tạo vật khốn khổ khác đã bị những bệnh kỳ lạ mà giới giáo sĩ Nga và giới bình dân gán cho là bị ma quỉ ám. Những người ấy bu đầy lối vào nhà thờ chính, không dám liều mình len vào trong kẻo đám ma quỉ ương ngạnh kiểm soát họ có tḥt họ xuống đất. Voroneg, Kiew, Kazan và mọi đô thị đều có những di tích thông thần của các vị thánh đã được phong thánh, những nơi ấy đu đầy dẫy những đồng cốt vô ý thức. Người ta có thể luôn luôn tìm thy một số nhng người ấy tụ̣p thành những nhóm dị hợm lãng vãng nơi cổng và cửa ngõ. Vào những giai đoạn nào trong khi thi hành thánh lễ  Misa của vị giáo sĩ chủ lễ, chẳng hạn như khi có xuất hiện các bí tích hoặc bắt đầu cầu nguyện và đồng ca bài “Ejey Cheroúvim”, thì những kẻ nửa điên nửa đồng cốt này bắt đầu gáy như gà, sủa như chó, rống như bò và rống như lừa, rồi cuối cùng bò lăn bò càn ra trong những cơn co giật dễ sợ. Lời giải thích mộ đạo là “kẻ không trong sạch không thể chịu đựng được lời cầu nguyện thiêng liêng”. Xúc động vì ḷng trắc ẩn, một số tâm hồn từ thiện tìm cách phục hồi chức năng cho những kẻ bị̣nh và bố thí cho họ. Đôi khi một vị linh mục được mời tới để trục tà ma, trong diễn biến ấy hoặc là ông hành lễ vì lòng từ thiện và tình thương hoặc là vì viễn ảnh cám dỗ kiếm được tiền bạc chỉ có 20 xu Nga tùy theo những xung lực Ki Tô giáo của ông. Nhưng các tạo vật khốn khổ ấy – họ chỉ là đồng cốt đôi khi cái cơn đó chân thực th́ họ tiên tri được và thấy được linh ảnh [[58]] – họ chưa bao giờ bị quấy nhiễu vì sự bất hạnh của mình. Tại sao giới giáo sĩ lại ngược đãi họ hoặc thiên hạ ghét bỏ, tố cáo họ là đám phù thủy đáng bị nguyền rủa? Óc phân biệt phải trái bình thường và công lý ắt chắc chắn gợi ý rằng nếu có ai phải bị trừng phạt thì đó dứt khoát không phải là nhng nạn nhân không tự lo liệu được cho mình mà loài ma quỉ bị gán cho việc kiểm soát hành động của họ. Điều tồi tệ nhất xảy ra cho bệnh nhân đó là khi vị linh mục rưới đẫm nước thánh lên bệnh nhân khiến cho tạo vật khốn khổ ấy bị cảm lạnh. Nếu nước thánh tỏ ra vô hiệu lực thì kẻ Klikoucha đó bị bọ̉c cho ý chí của Thượng Đế và được chăm sóc bằng tình thương và lòng trắc ẩn. Cho dù mê tín và mù quáng thì một đức tin được chỉ đạo dựa trên những nguyên tắc đó chắc chắn vẫn đáng được kính trọng và không thể xúc phạm tới con người hoặc Thượng Đế chân chính. Các tín đồ Công giáo La Mã, thứ đến là các giáo sĩ Tin Lành – ngoại trừ một số nhà tư tưởng lỗi lạc nhất trong đám họ – đều không được như thế cho nên mục đích của chúng tôi là nêu ra nghi vấn trong tác phẩm này. Chúng tôi muốn biết họ dựa vào cơ sở nào mà đối xử với các nhà thần linh học và môn đồ kinh Kabala, người Ấn Độ và Trung Quốc theo cách họ vẫn làm tức là tố cáo những người Ấn Độ và Trung Quốc này cùng với những người không theo đạo – là sản phẩm do chính họ tạo ra – đến nỗi nhiều kẻ bị kết án tù đày phải chịu ngọn lửa hỏa ngục thiêu đốt mãi không bao giờ tắt.

Chúng tôi tuyệt nhiên không thấy có tư tưởng bất kính nào – chứ đừng nói đến phạm thượng – đối với Quyền năng Thiêng liêng làm cho vạn vật (hữu hình và vô hình) hiện hữu. Chúng tôi thậm chí chẳng dám nghĩ tới sự uy nghi và hoàn hảo vô biên của nó. Chúng tôi chỉ cần biết rằng Nó tồn tại và rất minh triết. Chỉ cần biết rằng chúng tôi cũng có một Điểm Linh Quang mang bản thể của Nó giống như mọi đồng loại khác. Quyền năng tối cao mà chúng tôi kính trọng vốn vô biên và vô tận; đó là MẶT TRỜI TÂM LINH TRUNG ƯƠNG” vĩ đại mà chúng tôi bị bao quanh bởi những thuộc tính của nó và những tác dụng hữu hình của Ý CHÍ ấy mà không ai nghe thấy được; đó là Thượng Đế của cổ nhân cũng như của các nhà thấu thị thời nay. Ta chỉ có thể nghiên cứu được bản chất của ngài nơi những thế gii mà SẮC LỆNH dũng mãnh của ngài đã tạo ra. Ta chỉ truy nguyên được sự khải huyền của ngài qua ngón tay của chính ngài chỉ vào nhng hình bất diệt về sự hài hòa trong vũ trụ trên bề mặt của Càn khôn. Đó là cái phúc âm duy nhất không thể SAI LẦM mà chúng tôi công nhận.

Khi nói tới các nhà địa lý thời xưa trong tác phẩm Theseus, Plutarch có nhận xét rằng họ “chèn vào những bờ mép trong bản đồ của họ những phần trên thế gii mà họ chẳng biết gì, họ ghi thêm các chú thích bên lề với nội dung là bên ngoài bờ mép bản đồ chẳng có gì ngoại trừ những sa mạc đầy cát với những con thú hoang và những đầm lầy không ai tới gần được”. Liệu các nhà thần học và khoa học của chúng ta có làm giống như thế chăng? Trong khi nhà thần học nhét đầy thiên thần hoặc ma quỉ vào thế giới vô hình thì các triết gia lại cố gắng thuyết phục các môn đồ rằng ở đâu không có ̣t chất thì ở đó chỉ là hư.

Biết bao nhiêu những kẻ thâm căn cố đế mặc dù theo thuyết duy vật lại thuộc về các Chi bộ Tam Điểm? Các huynh đệ Hoa Hồng Thập Tự (những thần bí gia thực hành của thời trung cổ) vẫn còn sống sót nhưng chỉ hữu danh vô thực thôi. Họ có thể “nhọ̉ trước ngôi mộ của bậc Thầy đáng kính là Hiram Abiff”, nhưng họ sẽ hoài công mưu tìm cái nơi đúng thực “có cành cây sim”. Chỉ còn lại chữ nghĩa bút sa gà chết, còn cái thần của bản văn đã biến đi mất rồi. Họ giống như dàn đồng ca người Anh hoặc người Đức trong vở nhạc kịch của Ý mãi tới hồi bốn trong vở Ernani mới xuống hầm mộ của Charlemagne hát lên cái âm mưu của mình bằng một ngôn ngữ mà họ chẳng biết gì hết. Nhựy nếu muốn, mỗi đêm các vị hiệp sĩ thời nay của Mái vòm Linh thiêng có thể “đi xuyên qua chín mái vòm để xuống tận trong ruột trái đất” mà họ “chẳng bao giờ phát hiện được Châu thổ linh thiêng của Enoch”. Các “ngài Hiệp sĩ ở Thung lũng phía Nam” cũng như “Thung lũng phía Bắc” có thể cố gắng đoan chắc với mình rằng “sự giác ngộ ló dạng với tâm trí của mình” khi ḿnh tiến bộ về thuật Tam Điểm, “bức màn mê tín, chuyên chế, tàn bạo” v.v. . . không còn che khuất tầm nhìn của tâm trí mình nữa. Nhưng đây toàn là những lời rỗng tuếch chừng nào họ còn phớt lờ bà mẹ Pháp thuật và ngoảnh mặt quay lưng với chị em sinh đôi của bà tức là Thần linh học. Thật vậy, hỡi các “Ngài Hiệp sĩ ở Đông phương”, các ngài có thể “rời bỏ trạm yên nghỉ của mình và ngồi bệch xuống sàn với thái độ đau buồn gục đầu vào bàn tay” vì các ngài đã khiến cho số phận của mình phải tham khóc đầy tang tóc. Từ khi Phillipe le Bel đã tiêu diệt các Hiệp sĩ ở Đền thờ th́ chẳng còn ai dám xuất hiện để xua tan nỗi nghi ngờ của các ngài bất chấp mọi lời rêu rao ngược lại. Quả thật các ngài là “những kẻ lang thang ra khỏi Jerusalem đi tìm cái kho tàng đã bị mất của vùng thánh địa”. Các ngài đã tìm ra chưa? Tiếc thay là chưa, vì thánh điện ấy đã bị phàm tục hóa; những cột trụ minh triết, dũng mãnh và mỹ lệ đã bị hủy hoại. Từ nay trở đi, “các ngài phải lang thang trong đêm tối” và “viễn du trong sự khiêm hạ” giữa núi rừng để đi tìm cái “linh từ đã thất truyền”. “Các ngài vẫn cứ tiếp tục đi” nhưng sẽ chẳng bao giờ tìm được chừng nào cuộc hành hương của các ngài còn bị hạn chế vào bảy hoặc ngay cả bảy lần bảy; bởi vì các ngài “đang du hành trong đêm tối” và bóng đen này chỉ có thể bị xua tan bởi ánh sáng của ngọn đuốc chân lý chói lòa mà chỉ có mỗi đám hậu duệ chân chính của Ormasd đang giương cao. Chỉ có họ mới dạy cho các ngài cách phát âm đúng đắn của hồng danh được khải huyền cho Enoch, Jacob và thánh Moses. “Các ngài cứ tiếp tục đi”, cho đến khi vị R. S. W. ca các ngài học được cách nhân 333 thay vì 666 thì lại bắn trúng con số Con thú trong kinh Khải huyền, lúc đó các ngài mới có thể thận trọng mà hành động “một cách kín đáo”.

**********

Loài người có một sự khao khát bẩm sinh không thể đè nén được và phải được thỏa mãn trong bất kỳ tôn giáo nào thay thế cho cái thần học đầy giáo điu, không được ai chứng minh và cũng chẳng ai chứng minh nổi trong thời đại Ki Tô giáo của chúng ta. Đây là lòng khao khát mưu tìm bằng chứng v s bất tử. Ngài Thomas Browne đã diễn tả điều đó như sau: “thật đáng buồn cho con người khi bảo rằng y đă tới số rồi, chẳng còn một trạng thái tương lai nào nữa  và điều đó dường như diễn tiến tới mức nếu không nhựy thì tất cả hóa ra là rỗng tuếch”. Nếu có bất kỳ tôn giáo nào đề nghị cung cấp những bằng chứng bất tử dưới dạng những sự kiện khoa học, và nếu cái hệ thống được xác lập ấy được thúc đẩy theo phương án củng cố các giáo điều của mình bằng những sự kiện như thế th́ cái lòng sùng kính và mến mộ đối với giáo hội Ki Tô ắt sẽ là không còn nữa. Nhiều Ki Tô hữu thánh thiện đã bắt buộc phải công nhận rằng không có uyên nguyên chân thực nào giúp ta bảo đảm được một trạng thái tương lai mà con người có thể nương tựa vào đó. Làm sao một niềm tin như thế có thể đứng vững được qua vô số thời đại, nếu trong mọi quốc gia cho dù văn minh hay dã man thì con người cũng được phép có chứng minh về sự kiện ấy? Chẳng lẽ chính sự tồn tại của một niềm tin như thế không đủ là bằng chứng cho thấy cả triết gia biết suy nghĩ lẫn kẻ dã man không có lư trí đu bắt buộc phải công nhận bằng chứng của giác quan mình hay sao? Nếu trong những trường hợp riêng rẽ, ảo giác về ma có thể là kết quả của những nguyên nhân vật lý th́ mặt khác trong hàng ngàn trường hợp hiện hình ra thành người để trò chuyện với nhiều cá nhân cùng một lúc, tập thể họ đều trông thấy và nghe thấy sự hiện hình đó thì chẳng lẽ tất cả đều bị loạn trí hay sao?

Các tư tưởng gia vĩ đại nhất của Hi Lạp và La Mã đều coi những vấn đề đó là nhng sự kiện đã được chứng minh. Họ phân biệt những thứ hiện hình ra bằng những tên gọi vong hồn, linh hồn và u hồn: vong hồn giáng xuống Âm phủ sau khi cá nhân chết; linh hồn tức tinh thần thanh khiết thăng lên thiên đường; còn cái u hồn bức rức (vong hồn vẫn còn vướng vòng tục lụy) lẩn quẩn quanh ngôi mộ vì sức hút của vật chất và sự ưa thích xác phàm vẫn chiếm ưu thế nơi nó và ngăn cản nó thăng lên các cõi cao.

Ovid khi nhắc tới cấu tạo tam bội của phần hồn có nói rằng:

Xác phàm nằm trong lòng đất, u hồn ̉n quẩn quanh mộ, vong hồn rớt xuống âm phủ, còn linh hồn mưu tìm thiên giới.”

Nhưng tất cả những định nghĩa như thế phải được triết học phân tích cẩn thận. Quá nhiều tư tưởng gia chúng ta không thy rằng trong ngôn ngữ có rất nhiều biến đổi cách dùng từ theo ẩn dụ và hiển nhiên là đầy bí mật của các tác giả Thần bí thời xưa, họ thường có bổn phận không được tiết lộ những bí mật long trọng của thánh điện, cho nên tiếc thay đã làm lầm lạc các nhà dịch thuật và bình luận. Dịch giả đọc hiểu câu chữ của các nhà luyện kim đan thời trung cổ theo nghĩa đen; ngay cả học giả hiện đại cũng thường hiểu lầm khoa biểu tượng học ẩn giấu của Plato. Một ngày nào đó, họ có thể học biết được rành mạch hơn th́ mới vỡ lẽ ra rằng triết học thời xưa cũng như triết học thời nay đều thực hành phương pháp thiết yếu cực đoan: ngay từ những thời kỳ đầu của con người, những sự thật căn bản về mọi điều mà ta được phép biết trên trần thế đều được cao đồ giữ an toàn trong thánh điện; những sự khác nhau về tín điều và phép thực hành tôn giáo đều chỉ là bề ngoài; nhng người canh giữ sự thiên khải nguyên sơ và đã giải quyết được mọi bài toán trong phạm vi của trí người hiểu được đều liên kết với nhau qua mt tổ chức tam điểm đại đồng thế giới v khoa học và triết học tạo thành một dây xích liền một khúc vòng quanh quả địa cầu. Ngôn ngữ học và tâm lý học cần phải tìm cho ra cái đầu mút của sợi dây xích ấy. Nếu tìm được thì nó sẽ nhận biết được rằng chỉ cần nới lỏng được một mắt xích trong cái hệ thống tôn giáo cổ xưa ấy thì ta có thể tháo gở được cái chuỗi dây xích bí nhiệm ấy.

Việc lơ là và giữ kỹ những bằng chứng ấy đã đẩy những người có đầu óc lỗi lạc như Hare và Wallace cùng với nhng người đầy quyền lực khác vào hội đoàn Thần linh học hiện đại. Đồng thời nó lại bắt buộc những người khác bẩm sinh không có trực giác tâm linh phải sa vào chủ nghĩa duy vật thô thiển núp dưới nhiều tên gọi khác nhau.

Nhưng chúng tôi chẳng thấy có ích lợi gì mà theo đuổi đề tài này thêm nữa. Đó là vì ̣c dù theo ý kiến của hầu hết những người đương đại, chỉ có một ngày tràn đầy học thức trong cái ánh sáng nhá nhem ấy có những triết gia cổ xưa còn trong cái ánh sáng chói lọi giữa trưa ca ngày ấy cũng có mọi triết gia thời nay của ta; và mặc dù bằng chứng của hàng chục tư tưởng gia thời xưa và thời trung cổ đã tỏ ra vô giá trị đối với các nhà thực nghiệm thời nay dường như thể thế giới chỉ mới khai sinh ra từ năm thứ nhất sau Công nguyên và mọi kiến thức đều mới được phát triển gần đây th́ chúng tôi cũng chẳng hề mất hi vọng hoặc mất can đảm. Bây giờ là lúc thuận tiện hơn bao giờ hết để duyệt lại các triết lý cổ xưa. Các nhà khảo cổ học, ngôn ngữ học, thiên văn học, hóa học và vật lý học đang càng ngày càng tiến gần đến mức họ bắt buộc phải xét tới các triết lý cổ. Khoa học vật lý đã đạt tới sự giới hạn của sự thám hiểm; thần học theo giáo điều thy động cơ linh hứng cho mình đã khô cạn. Nếu chúng tôi không đánh giá lầm dấu hiệu th́ đã gần tới lúc thế gii nhận được bằng chứng cho thấy chỉ có tôn giáo cổ truyền mới hài hòa với thiên nhiên và chỉ có khoa học cổ truyền mới bao trùm được mọi thứ mà ta có thể biết được. Những bí mật đã giấu kín lâu nay có thể được tiết lộ; những quyển sách đã bị quên lãng lâu nay và những nghệ thuật đă bị thất truyền từ bao đời nay có thể lại được đưa ra trước ánh sáng; những sách bằng giấy gió và bằng da mỏng có tầm quan trọng vô giá có thể mở ra trong tay những người tự cho là mình vớ được chúng từ các xác ướp hoặc chạm phải chúng trong những hầm mộ bị chôn giấu; những bảng biểu và cột trụ với những thứ điêu khắc khải huyền sẽ làm sững sờ các nhà thần thoại và làm băn khoăn các nhà khoa học cũng có thể được khai quật và thuyết minh. Ai mà biết được tương lai sẽ xảy ra điều gì? Chẳng bao lâu nữa một kỷ nguyên tỉnh ngộ và tái thiết sẽ bắt đầu, thậm chí nó đã bắt đầu rồi. Chu kỳ này hầu như đã đi hết đoạn đường của nó, một chu kỳ mới sắp bắt đầu và những trang sử mới trong tương lai có thể chứa đầy bằng chứng và chứng minh hùng hồn rằng

“Nếu ta có thể tin được tổ tiên,

Thì các Chơn linh đã giáng lâm để đàm đạo với con người,

Và dạy cho y bí mật v thế giới mà chưa ai biết”.  

QUYỂN I – KHOA HỌC

Tác giả xin kính dâng bộ sách này cho Hội Thông Thiên Hc, được sáng lập ở New York, năm 1875 sau Công nguyên, ĐỆ̉I NGHIÊN CỨU NHỮNG ĐỀ TÀI MÀ BỘ SÁCH BÀN TỚI

CHƯƠNG II

CÁC HIỆN TƯỢNG PHÉP LẠ VÀ THẦN LỰC.

- Sự nô dịch của xã hội.

- Thành kiến và sự ngu tín của các nhà khoa học.

- Họ bị các hiện tượng thông linh săn đuổi.

- Các bí thuật đã thất truyền.

- Ý chí của con người là chủ lực trong các thần lực.

- Những điều tổng quát hóa hời hợt của các nhà bác học người Pháp.

- Các hiện tượng đồng cốt được gán cho cái gì?

- Quan hệ của chúng với tội ác.

“Lòng kiêu hảnh (nơi mà không có trí xảo) bước vào để bảo vệ chúng ta,

Và lấp đầy mọi ý thức trống rỗng cồn cào trong tâm khảm . . .”

                                                                   GIÁO HOÀNG

“Nhưng tại sao những tác động của thiên nhiên lại phải thay đổi? Có thể có một triết lý sâu sắc hơn mức ta mơ ước tới – một triết lý khám phá ra được những bí mật của thiên nhiên nhưng không làm thay đổi lộ trình của nó qua việc thâm nhập vào các bí mật ấy”.

BULWER

*************

̉ nhân bao giờ cũng xuất sắc – nhất là các nhà Pháp thuật và chiêm tinh gia người Chaldea – vì họ tha thiết yêu mến và tha thiết theo đuổi kiến thức trong mọi ngành khoa học. Họ cố gắng thâm nhập các bí mật của thiên nhiên cũng giống như các nhà vạn vật học hiện đại và chỉ dùng phương pháp duy nhất khiến người ta có thể đạt được mục tiêu này, nghĩa là bằng lý trí và nghiên cứu thực nghiệm. Nếu các triết gia hiện đại không thể hiểu được sự tht là họ đã thâm nhập sâu hơn về các điều bí nhiệm của vũ trụ thì điều này cũng không tạo ra một lý do xác đáng tại sao ta không tin họ có được kiến thức này hoặc buộc tội họ chịu trách nhiệm về điều mê tín dị đoan. Chẳng có gì bảo đảm được lời kết tội ấy và mọi khám phá khảo cổ mới đều nổi dậy chống lại giả định đó. Họ đều vô song về mặt hóa học và trong bài thuyết trình nổi tiếng Bàn về các Thuật đã Thất truyền, Wendell Phillips có nói: “Hóa học của thời kỳ xa xưa nhất đã đạt tới mức mà ta thậm chí chưa bao giờ đến gần được”. Bí mật của thủy tinh dễ dát mỏng – “nếu chỉ được nâng đỡ ợ̉t đầu, do trọng lượng của chính mình th́ trong vòng 20 tiếng đồng nó sẽ rút gọn lại thành một sợi dây mảnh mai mà bạn có thế quấn quanh cổ tay mình” – ắt khó lòng mà tái phát hiện được trong các xứ văn minh của ta chẳng khác nào bay lên mặt trăng.

Có một sự thật lịch sử là việc tạo ra một cái cốc bằng thủy tinh do một người lưu đày mang tới La Mã vào triều đại Tiberius – cái cốc này “khi được ném mạnh xuống hè đường bằng đá hoa cương không bị vụn tan hoặc nứt vì do sự va chạm ấy” và nếu nó có bị “móp méo chút ít” thì cũng dễ dàng nắn lại hình dáng cũ bằng một cái búa. Nếu ngày nay người ta nghi ngờ việc ấy th́ đó chỉ là v́ người hiện đại không thể làm được nhựy. Và thế nhưng, nơi Samarkand và một số tu viện ở Tây Tạng, người ta vẫn có th tìm thấy những cái cốc và đồ thủy tinh như thế mãi tới tận ngày nay; thậm chí có người quả quyết rằng mình có thể làm được giống nhựy nhờ có hiểu biết v chất dung môi vạn năng đã bị chế nhạo rất nhiều và xưa nay đã bị nghi ngờ. Tác nhân này mà Paracelsus và Van Helmont quả quyết rằng đó là mt lưu chất nào đó trong thiên nhiên “có thể rút gọn mọi vật thể trần thế, đồng chất cũng như hỗn hợp qui về nguyên thể bản sơ tức vật chất nguyên thủy cấu tạo thành chúng, hoặc rút gọn chúng thành ra một chất lỏng đồng dạng, đồng đẳng và dễ uốn, nó hiệp nhất được với nước, với các thể dịch trong mọi vật thể, song vẫn giữ được những tính chất căn cốt của chính mình; và nếu nó lại được hòa lẫn với chính nó th́ do đó sẽ được chuyển hóa thành nước sơ cấp thuần khiết”; liệu có điều ngăn cản không cho ta tin vào phát biểu ấy? Tại sao nó lại không tồn tại và tại sao ý tưởng này được coi là không tưởng? Chẳng lẽ lại v́ các nhà hóa học hiện đại của ta không thể chế tạo ra nó hay sao? Nhưng chắc chắn là ta có thể không cần nhiều cố gắng tưởng tượng cũng quan niệm được rằng mọi vật thể thoạt tiên ắt phải xuất phát từ một vật chất bản sơ nào đó, và tùy theo những bài học của thiên văn học, địa chất học và vật lý học, vật chất này ắt phải là mt lưu chất. Tại sao vàng – các nhà khoa học của ta biết rất ít về khởi nguyên của vàng – lại thoạt tiên là ̣t vật chất bản sơ của vàng, là mt lưu chất nặng nề mà Van Helmont có nói rằng “do bản chất của chính mình tức là do có sự cố kết mạnh mẽ giữa các hạt, nó theo được một dạng rắn chắc sau đó”?

Dường như có rất ít sự phi lý khi tin vào một “nguyên thể vạn năng làm tan hòa được mọi vật thể thành ra nguyên tử sinh hóa của mình”. Van Helmont gọi đó là “chất muối cao siêu nhất và thành công nhất trong mọi chất muối; nhờ đã đạt được mức độ tối cao v đơn giản, thuần khiết và tinh vi, chất muối ấy chỉ nếm trải được khả năng vẫn còn bất biến và không bị hao mòn do những đối tượng mà nó tác động lên đó và làm tan hòa được những vật thể khó điều chế và khó xử lý nhất; cũng giống như đá, đá quí, thủy tinh, đất, lưu huỳnh, kim loại v.v. . . tan hòa thành muối đỏ có trọng lượng bằng trọng lượng của chất bị hòa tan, và điều này cũng dễ dàng như việc nước nóng làm cho tuyết tan chảy ra”.

Những người chế tạo loại thủy tinh dễ dát mỏng đã khẳng định và giờ đây đã khẳng định rằng họ nhúng thủy tinh thông thường vào lưu chất này trong nhiều tiếng đồng hồ để có được tính chất dễ dát mỏng.

Chúng ta có một bằng chứng sờ sờ ra trước mắt và sẵn có về những khả năng ấy. Một thông tín viên nguyên người nước ngoài thuộc Hội Thông Thiên Hc, một nhà hành nghề y nổi tiếng, một người đã nghiên cứu khoa học huyền bí tới tận 30 năm, đã thành công trong việc thu lượm điều mà ông gọi là “chất dầu chân chính của vàng” nghĩa là nguyên tố bản sơ. Các nhà hóa học và vật lý  học đã nhìn thấy và đã khảo sát nó, và bắt buộc phải thú nhận rằng họ cũng chẳng biết bằng cách nào mà thu hoạch được nó và họ cũng không làm được như thế. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi ông muốn giấu kín tên tuổi của mình; đôi khi sự chế nhạo và thành kiến của công luận còn nguy hiểm hơn tòa án tôn giáo thời xưa. “Chất đất của Adam” này cận kề ngay sát nách chất dung môi vạn năng, và là một trong những bí mật quan trọng nhất của các nhà luyện kim đan. Không một môn đồ Kabala nào tiết lộ nó cho thế giới vì ông có diễn tả nó trong câu nói lóng nổi tiếng sau đây: “Nó sẽ giải thích được những con chim ưng của các nhà luyện kim đan, và cách ‘cắt cụt cánh’ những con chim ưng ấy”; đây là mt bí mật mà Thomas Vaughan (Engenius Philalethes) phải mất 20 năm mới học được.

Giống như buổi bình minh của khoa học vật lý bung ra thành ánh sáng thanh thiên bạch nhật chói lòa, cũng vậy các khoa học tâm linh hòa lẫn càng ngày càng sâu hơn vào đêm tối và đến lượt chúng lại bị chối bỏ. Cũng vậy, ngày nay các bậc thầy vĩ đại nhất về tâm lý học lại bị coi là “những vị̉ tiên dốt nát và mê tín dị đoan” chẳng khác nào những kẻ leo dây gây ám thị và những nhà ảo thuật vì thế đấy mặt trời học thức hiện đại ngày nay chiếu sáng lòa đến nỗi có một công lý tiên đề theo đó các triết gia và nhà khoa học thời xưa chẳng biết điều gì, và sống trong đêm đen mê tín dị đoan. Nhưng những kẻ vu khống quên mất rằng mặt trời ngày nay dường như tối đen so với cũng tinh cầu đó ngày mai cho dù điều đó có đúng hay chăng; và cũng như những người thuộc thế kỷ chúng ta nghĩ rằng tổ tiên của mình là dốt nát; cũng vậy hậu duệ của họ có lẽ sẽ coi họ là chẳng biết điều gì. Thế giới đang vận động theo chu kỳ. Các giống dân sắp tới chẳng qua chỉ là mô phỏng lại các giống dân đã biến mất từ lâu rồi; cũng như có lẽ chúng ta là hình ảnh của những giống dân đã sống cách đây hằng trăm thế kỷ. Sẽ có lúc mà nhng kẻ giờ đây đang công khai nói xấu các môn đồ phái Hermes, nhưng lại âm thầm suy gẫm những quyển sách phủ đầy bụi của họ, để rồi đạo văn các ý tưởng của họ, đồng hóa chúng và biến các ý tưởng ấy thành ý tưởng của chính mình – những kẻ ấy rồi ra sẽ phải trả nợ. Pfaff đã thẳng thắn kêu lên “ai đâu đã từng được coi là có những quan điểm bao quát về thiên nhiên nhiều hơn Paracelsus? Ông là người dũng cảm sáng tạo ra các loại hóa dược, sáng lập nên những phe phái can đảm; chiến thắng những cuộc tranh cãi, thuộc về những đầu óc đã sáng tạo ra trong chúng ta mt cách suy tư mới về sự tồn tại tự nhiên của các sự̣t. Điều mà ông truyền bá qua những tác phẩm của mình bàn về điểm kim thạch, người lùn và các tinh linh trong hầm mỏ; bàn về các cung hoàng đạo, những người tí hon và thuốc trường sinh. Nhiều người đã dùng chúng để đánh giá thấp v ông; nhưng những điều đó không làm nhụt đi ḷng biết ơn nhớ tưởng của chúng ta đối với các công trình của ông nói chung, cũng như lòng hâm mộ của chúng ta đối với những nỗ lực táo bạo, phóng khoáng của ông và sinh hoạt trí thức cao cả của ông” [[59]] .

Có nhiều nhà bệnh lý học, nhà hóa học, nhà chữa bệnh vi lượng đồng căn, và nhà từ điển đã làm nguôi ngoai nỗi khát khao kiến thức của mình qua những sách vở của Paracelsus. Frederick Hufeland có được những học thuyết lý thuyết bàn về bệnh truyền nhiễm từ viên “lang băm” người trung cổ này (Sprengel đã hả hê gọi nhựy cái người cao siêu hơn chính mình như thế đấy). Hemman (ông ra sức biện minh cho triết gia vĩ đại này và cố gắng chỉnh đốn lại kỷ niệm vì việc ông bị nói xấu) gọi ông là “nhà hóa học vĩ đại nhất đương thời” [[60]] . Giáo sư Molitor [[61]] và Tiến sĩ Ennemoser, nhà tâm lý học lỗi lạc người Đức [[62]] cũng nhựy. Theo lời phê phán của họ v nhng công trình lao động của môn đồ phái Hermes này, Paracelsus là nhà trí thức “xuất sắc nhất đương thời”, một “thiên tài cao cả”. Nhưng ánh sáng hiện đại của ta giả định rằng mình còn biết nhiều hơn và những ý tưởng của môn đồ phái Hoa hồng Thập tự v các tinh linh ngũ hành, yêu tinh và quỉ lùn đã chìm vào cõi “u linh của pháp thuật” và chuyện thần tiên trong buổi thiếu thời [[63]] .

Chúng ta đã hoàn toàn sẵn sàng thừa nhận cùng với kẻ đa nghi rằng một nửa (thậm chí còn hơn nữa) những điều dường như là hiện tượng phép lạ này chẳng qua chỉ là những trò lừa phỉnh ít nhiều tinh xảo. Những chuyện lật tẩy gần đây, nhất là về nhng đồng cốt “hiện hình” cũng đủ chứng tỏ quá nhiều sự kiện ấy. Chắc chắn là nhiều chuyện khác vẫn còn được dành sẵn và điều này sẽ tiếp tục cho đến khi nhng cuộc trắc nghiệm đã trở nên hoàn hảo và các nhà thần linh học đã trở nên có lý trí đến mức không còn cung cấp cợi cho những người đồng cốt hoặc cung cấp vũ khí cho các địch thủ.

Liệu những nhà thần linh học biết điu nghĩ gì về tính cách của những thiên thần hướng dẫn sau khi độc quyền chiếm dụng thời gian, sức khỏe và phương tiện của một người đồng cốt khốn khổ có lẽ trong nhiều năm lại thình lình bỏ rơi y khi y cần tới sự giúp đỡ của họ nhiều nhất? Chẳng có gì ngoại trừ đó là nhng tạo vật không có linh hồn hoặc tán tận lương tâm cho nên mới phạm tội bất công như thế. Tình huống ư? Chỉ là ngụy biện thôi. Họ ắt là cái loại vong linh nào khi cần thiết mà lại không triệu tập được một đội quân vong linh bè bạn của mình (nếu có được nhựy) để lôi kéo người đồng cốt vô tội ra khỏi cái hố sâu được đào sẵn dưới chân y? Những điều đó đã xảy ra vào thời xưa và những điều đó cũng có thể xảy ra bây giờ. Trước thời thần linh học hiện đại cũng đã có những chuyện hiện hình và trong mọi thời đại trước kia đều có những hiện tượng phép lạ giống như thời đại chúng ta. Nếu những sự biểu lộ hiện đại là mt thực tại và những sự kiện rành rành ra đó thì cái gọi là “các phép lạ” và chiến tích thần thông của thời xưa ắt cũng phải nhựy; hoặc nếu phép lạ chẳng qua chỉ là chuyện hư cấu mê tín dị đoan thì những sự biểu diễn thời nay ắt cũng phải như thế vì chúng đâu có dựa vào chứng cớ nào tốt hơn.

Nhưng trong cái dòng thác ngày càng gia tăng các hiện tượng huyền bí đổ xô từ đầu mút này tới đầu mút kia của quả địa cầu thì mặc dù 2/3 của những sự biểu diễn đều được chứng tỏ là giả mạo thế thì những cuộc biểu diễn được chứng tỏ là chân thực không thể nghi ngờ hoặc cãi bướng được sẽ ra sao? Trong số đó ta có thể thấy những sự giao tiếp thông qua các đồng cốt không chuyên nghiệp cũng như chuyên nghiệp, họ vốn cao thượng và vĩ đại một cách thánh thiện. Thường thường thì thông qua lũ trẻ con ngây thơ và những người dốt nát ngớ ngẩn, chúng tôi nhận được những giáo huấn và huấn điều triết học, những bài diễn thuyết linh hứng, và thi ca, âm nhạc và hội họa vốn hoàn toàn xứng đáng với tên tuổi mà người ta gán cho tác giả của chúng. Những lời tiên tri của họ thường được nghiệm đúng và nhng khảo nghiệm của họ mang đầy hảo ý mặc dù về mặt đạo đức diễn ra hiếm hơn. Đâu là những vong linh, những quyền năng hoặc sinh linh thông tuệ hiển nhiên là ở bên ngoài người đồng cốt chính hiệu và là các thực thể tự thân? Những sinh linh thông tuệ này đáng được gọi như thế; và chúng khác xa đa số âm ma và yêu tinh lởn vởn xung quanh phòng lên đồng biểu diễn trên cõi trần, khác xa như ngày khác đêm.

Chúng tôi phải thú nhận rằng tình hình dường như rất nghiêm trọng. Việc các “vong linh” dối trá và vô luân như thế thường xuyên kiểm soát các đồng cốt càng ngày càng trở nên phổ biến hơn; và những tác dụng độc hại của điều dường như là ma thuật thường xuyên tăng trưởng. Một số những đồng cốt tốt nhất đang từ bỏ diễn đàn công luận và rút lui khỏi ảnh hưởng của nó; phong trào thần linh học đang trôi dật dờ v hướng nhà thờ. Chúng tôi đánh bạo tiên đoán rằng nếu các nhà thần linh học không khởi sự nghiên cứu triết học cổ truyền để học cách phân biệt các vong linh và ngăn ngừa các vong linh tồi tệ thì chỉ trong vòng 25 năm tới họ phải nhảy bổ tới nhóm đạo thánh thể của Công giáo La Mã để trốn tránh những vong linh “hướng dẫn” và “kiểm soát” mà họ đã si mê từ biết bao lâu nay. Những dấu hiệu của thảm họa này đã phơi bày ra rồi đấy. Trong một hội nghị gần đây ở Philadelphia người ta đã nghiêm túc đề nghị̉ chức một giáo phái Thần linh học Ki Tô giáo. Đó là vì sau khi đă triệt thoái ra khỏi nhà thờ và chẳng học được gì v triết lý của các hiện tượng phép lạ tức là bản chất của các vong linh, họ đang trôi nổi trên một biển cả bấp bênh giống như con tàu không có la bàn hoặc bánh lái. Họ không thể thoát khỏi thế tiến thoái lưỡng nan; họ phải chọn giữa Porphyry và Pio Nono.

Trong khi các nhà khoa học học chân chính như Wallace, Crookes, Wagner, Butlerof, Varley, Buchanan, Hare, Reichenbach, Thury, Perty, de Morgan, Hoffmann, Goldschmidt, W. Gregory, Flammarion, Sergeant Cox và nhiều người khác tin chắc vào nhiều phép lạ hiện hành thì nhiều người được nêu tên trên đây lại bác bỏ thuyết vong linh của người quá cố. Do đó, dường như cũng hợp lý thôi khi nghĩ rằng nếu “Katie King” ở Luân Đôn – ̣t điều nào đó duy nhất đã hiện hình mà công chúng bắt buộc ít nhiều đã tin tưởng do tôn trọng khoa học – không phải là vong linh của một người đã chết thì đó ắt phải là hình bóng tinh anh đã được cô đặc lại của một trong các âm ma của phái Hoa hồng Thập tự (chỉ là điều hoang tưởng do mê tín dị đoan) hoặc là của một lực nào đó trong thiên nhiên cho đến nay chưa ai giải thích được. Tuy nhiên cho dù nó là “vong linh còn khỏe mạnh hay yêu quỉ bị nguyền rủa” thì cũng chẳng quan trọng bao nhiêu; vì một khi người ta đã chứng tỏ được rằng cơ thể của nó không phải làm bằng chất đặc th́ nó ắt phải và nhất định là một “vong linh”, một sự hiện hình, một thần khí. Đó là mt sinh linh thông tuệ hoạt động bên ngoài cơ thể ta và do đó nó phải thuộc về một giống sinh linh nào đó đang tồn tại cho dù chưa ai nhìn thấy. Nhưng nó là cái gì vậy? Cái điu gì đó vốn biết suy nghĩ và thậm chí nói năng nữa, thế nhưng không phải là con người; chẳng ai sờ mó thấy nó thế nhưng đó không phải là một vong linh đã thoát xác; nó giả vờ yêu thương, đam mê, hối hận, sợ̣t, vui mừng nhưng thật ra có xúc cảm chi đâu; nó là cái gì vậy? Cái tạo vật giả nhân giả nghĩa vốn lấy làm thích thú khi lừa gạt được người điu tra trung thực và chế nhạo xúc cảm thiêng liêng của con người, nó là cái gì vậy? Đó là v́ nếu không có Katie King của ông Crookes thì những tạo vật tương tự cũng làm được chỉ chuyện như thế. Ai có thể thăm dò được điều bí mật này? Chỉ có nhà tâm lý học chân chính thôi. Và liệu y phải đi tìm những quyển sách giáo khoa của mình ở đâu nếu không phải là ở những hốc xó xỉnh bị bỏ lơ trong tủ sách nơi mà tác phẩm bị khinh bỉ của các môn đồ Hermes và nhà thông thần đã bị phủ bụi trong nhiều năm nay.

Khi trả lời một câu đả kích của một kẻ đa nghi thời đó tên là Webster nhằm vào những người tin tưởng các hiện tượng tâm linh và pháp thuật, Henry More (môn đồ phái Plato được kính trọng, người Anh) có nói rằng [[64]] : “Con v phần cái ý kiến khác mà đa số nhng nhà cải cách thiêng liêng chủ trương theo đó chính Ma quỉ xuất hiện dưới dạng Samuel th́ người ta không buồn khinh thường ý kiến ấy. Đó là vì mặc dù tôi không hoài nghi nhiều sự xuất hiện trong các buổi chiêu hồn này, coi đó là những vong linh đùa nghịch chứ không phải vong hồn của người quá cố trở lại, song tôi tin chắc rằng linh hồn của Samuel có xuất hiện cũng xác tín như trong những buổi chiêu hồn khác; theo như Porpyrius mô tả trên kia, có thể các loại vong linh ấy biến đổi thành ra thiên hình vạn trạng, ba hồi thì đóng vai ma quỉ, ba hồi thì đóng vai thiên thần hoặc chư thiên và ba hồi đóng vai vong linh của người quá cố. Và tôi thú nhận rằng một vong linh như thế có thể là hiện thân của Samuel ở đây v́ bất chấp mọi thứ mà Webster viện dẫn ngược lại, lập luận của ông thật ra hết sức yếu ớt và lúng túng”.

Khi nhà siêu hình học và triết gia tầm cỡ như Henry More mà đưa ra chứng cớ như thế thì chúng tôi có thể yên tâm giả sử rằng người ta đã nghiêm chỉnh cứu xét quan điểm của chúng tôi. Các nhà bác học khảo cứu vốn nói chung là rất nghi ngờ v các vong linh và nói riêng là nghi ngờ “vong hồn của người đã quá cố” th́ trong vòng 20 năm vừa qua đã moi óc chế ra những tên gọi mới dành cho một sự̣t xưa cũ. Nhựy đối với ông Crookes và Sergeant Cox th́ đó là “lực tâm linh”. Giáo sư Thury ở Geneva gọi nó là chất “psychode” tức lực ngoại lai; Giáo sư Balfour Stewart gọi nó là “năng lượng điện sinh học”; Faraday, “bậc thầy vĩ đại về triết lý thực nghiệm trong vật lý học”, nhưng xét theo biểu kiến là một kẻ sơ cơ về tâm lý học ngạo mạn gọi nó là một “tác động cơ bắp vô ý thức”, “một tác động trí não vô ý thức” và còn gì nữa? Ngài William Hamilton gọi nó là một “tư tưởng tiềm tàng”; Tiến sĩ Carpenter gọi nó là “nguyên lý động cơ thúc đẩy của ý tưởng” v.v. . . Có bao nhiêu nhà khoa học thì có bấy nhiêu tên gọi.

Cách đây nhiều năm, triết gia của nước Đức cổ xưa, Schopenhauer đã giải quyết lực và vật chất cùng một lúc; và từ khi ông Wallace cải đạo th́ nhà nhân loại học vĩ đại hiển nhiên đã chọn theo các ư tưởng đó. Theo học thuyết của Schopenhauer thì vũ trụ chẳng qua chỉ là s biểu lộ của ý chí. Mọi lực trong thiên nhiên cũng chỉ là mt tác dụng của ư chí, biểu diễn một mức độ cao hoặc thấp tính cách ngoại giới của ý chí. Đó là giáo huấn của Plato (ông nêu rõ rằng mọi vật hữu hình đều được sáng tạo hoặc tiến hóa ra từ ý chí vĩnh hằng và vô hình, theo dạng thức của ý chí). Cõi Trời của ta, theo ông được tạo ra dựa vào khuôn mẫu vĩnh hằng của “Thế gii Ý niệm” vốn được bao hàm trong hình khối 12 mặt (mô hình kỷ hà của Đấng thiêng liêng sử dụng) giống như mọi thứ khác nữa [[65]] . Theo Plato, Bản thể Nguyên sơ là phân thân của Trí tuệ Hóa công (Nous) vốn chứa đựng từ thời gian vĩnh hằng cái “ý tưởng” về “thế giới được tạo tác” ra và ngài tạo ra ư tưởng đó từ bản thân mình [[66]] . Những định luật của thiên nhiên là những hệ thức đã được xác lập của ý niệm này đối với những hình thức biểu lộ của nó. Schopenhauer có nói: “Những hình thức này là thời gian, không gian và tính nhân quả. Trải qua thời gian và không gian, ý niệm biến thiên với vô vàn biểu lộ”.

Những ý niệm này đâu có gì là mới và ngay cả đối với Plato thì chúng cũng chẳng hề tân kỳ. Chúng ta đọc thấy điều sau đây trong tác phẩm Sấm truyền của người Chaldea [[67]] : “Những công trình của thiên nhiên cùng tồn tại với Ánh sáng tri thức, tâm linh của ngôi Cha. Đó là v́ chính linh hồn tô điểm cho cõi trời vĩ đại và tô đ̉m nó theo Cha trời”.

Philo có nói [[68]] (người ta đã sai lầm khi buộc tội ông là rút ra triết lý mình từ triết lý của Plato): “Vậy thì thế giới vô hình đã được hoàn tất và được đặt vào trong Lý trí của Thượng Đế

Trong Thần phổ của Mochus, chúng ta thấy trước hết là Hậu thiên khí (Æther) rồi tới phong (air) Ulom – Thượng Đế mà ta có thể hiểu được tức là vũ trụ̣t chất hữu hình sinh ra từ hai nguyên khí nêu trên [[69]] .

Trong các bài thánh ca của phái Orpheus, Eros Phanes tiến hóa ra từ Trứng Tâm linh, có thấm nhuần Gió tinh anh Hậu thiên khí, Gió [[70]] là “thần khí của Thượng Đế”, nghe nói Ngài vận động trong Hậu thiên khí, “ưu tư bên trên Hỗn mang” tức là “Ý chí” Thiêng liêng. Trong Katakopanisād của Ấn Độ, Purusha tức Tinh thần Thiêng liêng đã đứng trước vật chất nguyên thủy rồi, từ sự hợp nhất này mới nảy sinh ra đại Hồn của Thế giới, “Maha=Atma, Brahm, Chơn linh Nguồn sống” [[71]] , các tên gọi ấy đồng nhất với tên gọi Hồn Vũ Trụ tức Anima Mundi và Ánh sáng Tinh tú của các nhà thông thần và môn đồ kinh Kabala.

Pythagoras tiếp nhận học thuyết của mình từ các thánh điện Đông phương, còn Plato biên soạn chúng ra một dạng dễ hiểu hơn thành ra những con số thần bí của bậc hiền triết (ông đã hoàn toàn chọn theo học thuyết của Pythagoras) đối với đầu óc của kẻ chưa được điểm đạo. Nhựy đối với Plato, Càn Khôn chính là “Ngôi Con” mà cha mẹ của nó là Tư Tưởng Thiêng Liêng và Vật Chất Thiêng Liêng[[72]] .

Dunlap có nói [[73]] : “Người Ai Cập phân biệt Horus già với Horus trẻ, Horus già là anh em của Osiris, còn Horus trẻ là con trai của Osiris và Isis”. Horus già là Ý niệm v thế giới vẫn còn lại trong Tâm trí của đấng Hóa công, “được sinh ra trong đêm tối trước khi thế giới được sáng tạo ra”. Horus thứ nhì là “Ý niệm” này xuất phát từ Ngôi Lời và đã khoác lấy vật chất, có được sự tồn tại đúng thực [[74]] .

Sấm truyền của người Chaldea có nói: “Thượng Đế trần tục, vĩnh hằng, vô biên, trẻ và già, có dạng uốn éo” [[75]] .

“Dạng uốn éo” này là một hình thái tu từ để diễn tả sự rung động của Ánh sáng Tinh tú mà các lễ sư ngày xưa hết sức quen thuộc, mặc dù họ có quan niệm khác với chất ether của các nhà khoa học hiện đại; đó là v́ họ đặt vào Hậu thiên khí ấy cái Ý niệm Vĩnh hằng vốn thấm nhuần Vũ trụ tức là Ý chí trở thành Lực và sáng tạo ra hoặc tổ chức ̣t chất.

Van Helmont có nói: “Ý chí là quyền năng đầu tiên trong mọi quyền năng. Đó là v́ thông qua ý chí của đấng Sáng tạo, người ta tạo ra vạn vật và làm cho chúng chuyển động . . . Ý chí là thuộc tính của mọi sinh linh tâm linh và càng bộc lộ tích cực nơi những sinh linh này khi sinh linh ấy giải thoát ra khỏi vật chất”. Paracelsus – ông được gọi là “đấng thiêng liêng” – có nói thêm với cùng một giọng điệu: “Đức tin” phải xác nhận óc tưởng tượng v́ đức tin xác lập ý chí . . .Ý chí quyết tâm là khởi đầu của mọi thao tác pháp thuật . . . Vì người ta không tưởng tượng được hoàn chỉnh và tin tưởng hết mình vào kết quả cho nên pháp thuật mới bấp bênh trong khi lẽ ra thì chúng phải hoàn toàn chắc chắn”.

Chỉ cần một năng lực đối kháng là không tin và đa nghi, nếu được phóng chiếu thành một dòng có cường độ lực tương đương thì có thể kềm chế được dòng năng lượng kia và đôi khi hoàn toàn hóa giải được nó. Tại sao các nhà thần linh học lại lấy làm lạ khi sự hiện diện của một số kẻ đa nghi hoặc những người cảm thấy cay đắng chống lại hiện tượng phép lạ, vô ý thức vận dụng quyền năng ư chí của mình chống lại nó, ắt cản trở và thường chận đứng hoàn toàn được những pha trình diễn? Nếu không có một quyền năng hữu thức nào trên trần thế đôi khi thy một quyền năng khác can thiệp vào hoặc thậm chí hóa giải được mình thì tại sao ta phải lấy làm lạ khi quyền năng thụ động vô ý thức của một người đồng cốt lại thình lình có những tác dụng bị tê liệt do mt quyền năng chống đối khác, mặc dù nó cũng được vận dụng một cách vô ý thức? Các giáo sư Faraday và Tyndall khoe khoang rằng sự hiện diện của họ ợ̉t buổi lên đồng chận đứng ngay tức khắc mọi pha trình diễn. Chị̉i sự kiện này không thôi cũng chứng tỏ cho các nhà khoa học lỗi lạc thấy rằng trong những hiện tượng phép lạ này có một lực nào đó đáng cho họ quan tâm. Với vai trò là một nhà khoa học, giáo sư Tyndall có lẽ nổi bật lên trong nhóm người lên đồng; với vai trò là mt nhà quan sát sáng trí, một người chẳng dễ gì bị lừa gạt bởi một người đồng cốt đầy thủ đoạn, cho dù có khéo léo thì có lẽ y chẳng hay ho gì hơn những người khác có mặt trong phòng và nếu những pha trình diễn chẳng qua chỉ là trò lừa bịp khéo léo đến nỗi gạt gẫm được người khác th́ những pha đó việc gì phải dừng lại cho dù có vì lợi ích của ông đi chăng nữa. Có người đồng cốt nào dám khoe khoang những hiện tượng phép lạ mà Chúa Giê su (và sau này là thánh tông đồ Paul) đã tạo ra? Thế nhưng ngay cả Chúa Giê su cũng gặp những trường hợp lực chống đối vô ý thức đã thắng được ngay cả dòng ý chí được điều khiển rất khéo léo của chính ngài. “Và ngài không làm được nhiều công trình vĩ đại ở đó chỉ v́ họ không tin”.

Người ta có suy gẫm về mọi quan điểm này trong triết lý của Schopenhauer. Các nhà khoa học “khảo cứu” có thể tham khảo tác phẩm của ông rất có ích lợi. Họ ắt thấy trong đó có nhiều giả thuyết kỳ lạ dựa vào các ý tưởng cổ xưa, các suy đoán về những hiện tượng “mới” vốn có thể tỏ ra là hợp lý như bất kỳ hiện tượng nào khác khiến cho họ đỡ mất công vô ích sáng chế ra những thuyết mới. Các lực thông linh và lực ngoại lai, các quyền năng “động cơ thúc đẩy ý niệm” và “năng lượng điện sinh học”, các thuyết về “tư tưởng tiềm tàng” và ngay cả “tác động trí não vô ý thức” đều có thể cô đọng trong từ ngữ: ánh sáng tinh tú của môn đồ kinh Kabala.

Trong tác phẩm của Schopenhauer có trình bày các ý kiến và thuyết táo bạo khác xa ý kiến của đa số nhà khoa học chính thống. Nhà suy đoán liều mạng này nhận xét; “thực ra chẳng có ̣t chất mà cũng chẳng có tinh thần. Việc hòn đá có khuynh hướng rớt xuống theo luật trọng trường cũng giống như tư tưởng trong óc người . . . Nếu vật chất có thể – có ai biết tại sao đâu – rơi xuống đất thì nó cũng có thể – có ai biết tại sao không – suy nghĩ . . . Ngay cả trong cơ học, ngay khi ta vượt quá mức toán học thuần túy, ngay khi ta đạt tới sức kết dính và lực trọng trường khôn dò v.v. . . th́ ta cũng giáp mặt với những hiện tượng mà các giác quan của ta cho là bí nhiệm giống như ý chí và TƯ TƯỞNG nơi con người – ta thấy mình đương đầu với điều không thể hiểu nổi vì mọi lực trong thiên nhiên đều không thể hiểu nổi. Thế thì cái ̣t chất mà bạn cứ giả vờ cho rằng mình biết rất rõ và do đó vì quá quen thuộc với nó cho nên bạn rút ra đủ mọi kết luận và lời giải thích, gán đủ chuyện cho vật chất ấy, cái vật chất ấy là như thế nào nhỉ? Điều mà bạn có thể nhận thức trọn vẹn bằng lý trí và các giác quan thì chẳng qua hời hợt thôi, giác quan và lý trí chẳng bao giờ đạt tới được bản chất chân thực ở bên trong của vạn vật. Kant có ý kiến như thế. Nếu bạn cho rằng trong đầu người có một loại ý thức tinh thần nào đó thì bạn cũng bắt buộc phải thừa nhận điều đó đối với một tảng đá. Nếu cái vật chất cực kỳ thụ động và chết lặng của bạn mà có thể biểu lộ được khuynh hướng hấp dẫn trọng trường hoặc hút và đẩy giống như điện rồi phóng ra các tia lửa điện thì nó cũng có thể suy nghĩ giống nhự óc vậy.

Tóm lại ta cũng có thể thay thế mọi hạt ca cái gọi là tinh thần bằng một hạt vật chất tương đương và thay thế mọi hạt vật chất bằng một hạt tinh thần tương đương . . . Nhựy Descartes phân chia vạn vật ra thành vật chất và tinh thần chẳng bao giờ tỏ ra là chính xác về mặt triết học; nhưng nếu chúng ta chia chúng thành ra ý chí và sự biểu lộ (cách phân chia này không dính dáng gì cách phân chia thành vật chất và tinh thần) vì nó làm cho vạn vật trở nên tâm linh hóa: mọi thứ thoạt tiên là có thực thuộc ngoại giới – tức là vật thể và vật chất – bị nó biến hóa thành ra một biểu diễn và mọi sự biểu lộ biến thành ý chí” [[76]] .

Quan niệm này bổ chứng cho điều mà ta đã diễn tả v đủ thứ tên gọi dành cho cùng một sự̣t. Những kẻ tranh cãi chỉ khẩu chiến v ngôn từ thôi. Cho dù người ta gọi các hiện tượng phép lạ ấy là lực, năng lượng, điện hoặc từ, ý chí hoặc quyền năng tinh thần, th́ nó bao giờ cũng là s biểu lộ riêng phần của linh hồn, cho dù đã thoát xác hay bị giam cầm trong cơ thệ̉t lúc nào đó – đó là một bộ phận của cái ý chí thông tuệ cá biệt và toàn năng, thấm nhuần trọn cả thiên nhiên được ta biết là THƯỢNG ĐẾ do ngôn ngữ của loài người còn thiếu sót nên không diễn tả chính xác được các ảnh tượng tâm lý.

Ý niệm của một số nhà triết học kinh viện ṿt chất ắt sai lầm nhiều mặt khi xét theo quan điểm của môn đồ kinh Kabala. Hartmann gọi quan niệm của họ là một “thành kiến theo bản năng”. Hơn nữa, ông chứng tỏ được rằng không một nhà thực nghiệm nào có thể làm được gì dính dáng tới vật chất chính hiệu mà chỉ giao tiếp với các lực do vật chất phân chia thành. Tác dụng hữu hình của vật chất chẳng qua chỉ là tác dụng của lực. Do đó ông kết luận rằng điều mà giờ đây ta gọi là vật chất chẳng qua chỉ là khối tập hợp các lực nguyên tử mà người ta dùng từ ̣t chất để diễn đạt: ngoài điều đó ra thì vật chất chẳng qua chỉ là mt từ vô nghĩa đối với khoa học. Mặc dù có nhiều lời thú nhận thẳng thắn của các chuyên gia – nhà vật lý học, sinh lý học và hóa học – theo đó họ chẳng biết tí gì về vật chất [[77]] , song họ vẫn thần thánh hóa vật chất. Mọi hiện tượng mới mà họ thấy mình không thể giải thích được đều bị nghiền nát ra, vo viên chế thành nhang để đốt trên bàn thờ của nữ thần bảo trợ cho các nhà khoa học hiện đại.

Chẳng ai bàn về đề tài này hay ho hơn Schopenhauer trong tác phẩm Parerga. Trong tác phẩm này ông bàn dông dài về từ khí động vật, thần nhãn, phép chữa bệnh đồng cảm, thuật thấu thị, pháp thuật, những điềm báo trước, thấy ma và những vấn đề tâm linh khác. Ông bảo rằng: “Tất cả mọi biểu hiện này đu là nhánh nhóc của cùng một cái cây và cung cấp cho ta những bằng chứng không chối bỏ được về sự tồn tại của một chuỗi sinh linh vốn dựa trên một trật tự tạo vật khác hẳn so với thiên nhiên đặt nền tảng trên các định luật về không gian, thời gian và sự thích ứng. Trật tự sự̣t khác biệt này vốn sâu sắc hơn nhiều vì đó là trật tự nguyên thủy và trực tiếp; khi nó có mặt thì những định luật thông thường của thiên nhiên (vốn chỉ là hình thức) đâm ra vô hiệu lực; do đó khi nó tác động trực tiếp thì thời gian và không gian chẳng còn có th ngăn cách được bất kỳ cá thể nào nữa và sự ngăn cách cố hữu nơi các hình tướng ấy không còn tạo ra những hàng rào không vượt qua nổi đối với sự giao tiếp bằng tư tưởng và tác động trực tiếp của ý chí. Bằng cách này người ta có thể tạo ra mọi thay đổi theo một lộ trình khác hẳn lộ trình của tính nhân quạ̉t lý nghĩa là tác động qua sự biểu lộ ý chí thể hiện một cách đặc thù bên ngoài chính cá thể. Vì vậy tính cách đặc thù của mọi sự trình diễn nêu trên chính là việc nhìn thấy và tác động từ xa trong quan hệ với thời gian cũng như quan hệ với không gian. Một tác động từ xa như thế chính là điều tạo thành tính cách căn bản của cái gọi là pháp thuật; vì đó chính là tác động trực tiếp của ý chí ta, một tác động thoát khỏi quan hệ nhân quả qua tác động vật lý nghĩa là do tiếp xúc”.

Schopenhauer tiếp tục: “Ngoài điều đó ra, những pha trình diễn ấy còn cung cấp cho ta một cơ sở xác thực và hoàn toàn hợp lý đ chống lại thuyết duy vật và ngay cả thuyết tự nhiên nữa vì theo sự minh giải của pha trình diễn ấy thì cái trật tự sự̣t trong thiên nhiên (mà cả hai triết lý nêu trên đều tìm cách trình bày là tuyệt đối chân thực duy nhất) hiện ra trước mắt ta trái lại chỉ thuần túy mang tính hiện tượng và hời hợt, nó chứa đựng ngay dưới đáy của mình một bản thể sự̣t riêng rẽ và hoàn toàn độc lập với những định luật của chính nó. Chính vì thế mà tại sao những pha trình diễn này – ít ra thì cũng theo một quan điểm thuần túy triết học – là vượt ngoài tầm bất kỳ sự so sánh quan trọng nhất nào trong số mọi sự kiện được trình bày cho ta trong địa hạt thực nghiệm. Vì vậy bổn phận của mọi nhà khoa học là phải làm quen với những pha trình diễn ấy”.

***********

Nếu các nhà thần linh học bồn chồn muốn theo sát giáo điều trong quan niệm về “thế giới tâm linh” th́ họ đừng có bảo các nhà khoa học này hãy nghiên cứu các hiện tượng của mình với tinh thần thực nghiệm chân chính. Toan tính ấy chắc sẽ là có kết quả phần nào tái phát hiện được pháp thuật thời xưa của Moses và Paracelsus. Bên dưới vẻ đẹp gạt gẫm của một số những pha hiện hình thì mt ngày kia họ có th tìm thấy những vị phong thần và thủy thần đẹp đẽ của môn đồ Hoa hồng Thập tự đùa giỡn trong dòng thần lực oath và lực thông linh.

Ông Crookes vốn tin chắc vào những sinh linh ấy; đã cảm thấy rằng bên dưới lớp da nõn nà của Katie có che phụ̉t tâm hồn được ngụy trang phần nào vay mượn từ người đồng cốt và nhng người lên đồng chứ chẳng có linh hồn gì hết! Và những nhà bác học tác giả của quyển Vũ trụ Vô hình khi từ bỏ thuyết “điện sinh học” của mình bắt đầu nhận thấy trong chất ether vũ trụ có khả năng đó là một tập ảnh của đấng Vô biên, en-soph.

Chúng ta đâu có tin rằng mọi vong linh giao tiếp ở những buổi lên đồng đều thuộc lớp sinh linh tên là “Tinh linh ngũ hành” và “Âm ma”. Nhiều vong linh đó – nhất là trong số những sinh linh kiểm soát người đồng cốt trong nội giới nói, viết và hành động khác nữa theo nhiều kiểu khác nhau – đều là các vong linh của người đã thoát xác. Liệu các vong linh ấy là tốt hay xấu đều phần lớn tùy thuộc vào đạo đức riêng tư của người đồng cốt, cũng tùy thuộc nhiều vào đám người lên đồng có mặt và tùy thuộc phần lớn vào cường độ và mục tiêu trong chủ đích của họ. Nếu mục tiêu ấy chỉ là thỏa mãn óc tò mò và mua vui một vài trống canh thì cũng hoài công khi trông mong có một điều ǵ đó nghiêm chỉnh. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào thì vong linh con người cũng chẳng bao giờ hiện hình ra được đúng như con người ấy. Chúng chẳng bao giờ xuất hiện trước nhà khảo cứu mà khoác lấy da thịt rắn chắc ấm áp với bàn tay rịn mồ hôi và nhng khuôn mặt trên cơ thể với vật liệu thô trược. Cùng lắm thì họ cũng chỉ có thể phóng chiếu sự phản ánh tinh anh của mình lên những làn sóng trong khí quyển và nếu trong những dịp hãn hữu mà giác quan của người phàm tục còn sống trên cõi ngoại giới có thể sờ vào được tay chân và quần áo của họ, thì người ta cũng chỉ cảm thấy giống như gió hiu hiu thoảng qua quét nhẹ lên cái chỗ bị sờ mó chứ đâu giống như bàn tay của một người hoặc cơ thể làm bằng vật chất. Thật hoài công khi biện hộ rằng “các vong linh hiện hình” đã phô trương ra với những quả tim đập thình thịch và những giọng nói oang oang (có hoặc không kèn không trống) là các vong linh của con người. Những giọng nói – nếu ta có thể gọi một âm thanh như thế là giọng nói – của một sự hiện hình vong linh một khi mà ta đă nghe thấy rồi th́ khó lòng có thể quên được. Giọng nói của một vong linh thuần túy giống như tiếng thì thào rung rẩy của một cây hạc cầm văng vẳng từ xa; giọng nói của một vong linh đau khổ vì thế cho nên không thuần túy nếu không phải là cực kỳ tồi tệ, có thể được đồng hóa với tiếng người phát ta từ một cái thùng rỗng.

Đây không phải là triết lý của chúng tôi mà là ca vô số thế hệ các nhà thông thần và pháp sư dựa vào kinh nghiệm thực tiễn. Cổ nhân cũng chứng minh khẳng định về đề tài này [[78]]. Tiếng nói của vong linh không hề được phát âm ra. Tiếng nói của vong linh bao gồm một loạt các âm thanh tạo cho ta cảm tưởng là mt cột không khí nén từ bên dưới bay vút lên trên và tỏa lan ra xung quanh người còn sống đang đối thoại. Nhiều người tận mắt chứng kiến chứng nhận rằng trường hợp Elizabeth Eslinger nghĩa là [[79]] : phó quản đốc của nhà tù Weinsberg, Mayer, Eckhart, Theurer và Knorr (bằng chứng có tuyên thệ), Düttenhöfer và nhà toán học Kapff chứng nhận rằng họ thấy sự hiện hình giống nhựt cột mây. Trong thời khoảng 11 tuần lễ, bác sĩ Kerner và các con, nhiều vị mục sư Tin lành, luật sư Fraas, nhà chạm trỗ Düttenhöfer, hai y sĩ Siefer và Sicherer, thẩm phán Heyd và Nam tước Von Hugel cùng với nhiều người khác nữa đã theo dõi sự hiện hình này hằng ngày. Trong thời gian nó xảy ra, tù nhân Elizabeth cầu nguyện bằng một giọng vang vang không ngừng nghỉ; do đó vì “vong linh” cũng đồng thời đang nói chuyện cho nên đây không thể nào là thuật truyền âm nhập mật, và họ bảo rằng cái giọng ấy “chẳng có chút nào giống như con người; không ai có thể bắt chước được âm thanh của nó”.

Chúng tôi sẽ trình bày thêm nữa nhiều bằng chứng của các tác giả thời xưa liên quan tới sự thật hiển nhiên bị bỏ lơ này. Giờ đây chúng tôi chỉ quả quyết khẳng định lại rằng không một vong linh nào mà các nhà thần linh học cho rằng thuộc về con người lại đã từng được chứng minh với đầy đủ chứng cớ như thế. Những người nhạy cảm có th cảm thấy ảnh hưởng ca các vong linh đã thoát xác truyền cho họ trong nội giới. Những vong linh ấy có thể tạo ra những sự hiện hình nơi ngoại giới nhưng chúng không thể làm được gì khác hơn mức đã được mô tả trên kia. Chúng có thể kiểm soát cơ thể của người đồng cốt, bộc lộ ham muốn và ý tưởng của mình theo nhiều cách khác nhau mà các nhà thần linh học thừa biết, nhưng chúng không làm hiện hình được điều vốn phi vật chất và thuần túy tâm lnh tức là bản thể thiêng liêng của mình. Nhựy một khi đúng đắn thì mọi cái gọi là “sự hiện hình” đều (có lẽ) được tạo ra do ý chí của cái vong linh mà “sự xuất hiện” chẳng qua chỉ có th cùng lắm là thể hiện phàm nhơn, hoặc là do chính những yêu tinh âm ma vốn thường quá ngu đần cho nên không đáng được vinh danh gọi là ma quỉ. Trong những dịp hiếm hoi thì các vong linh có thể khống chế và kiểm soát được những sinh vật mất linh hồn, họ thường sẵn sàng vỗ ngực xưng tên nếu được bọ̉c cho lộng hành, sao cho cái vong linh đầy ác ý “trong không trung” uốn nắn theo hình hài thực của một vong linh con người ắt bị vong linh con người điều động nhựt con rối và không thể hành động hoặc thốt nên lời nào khác hơn những thứ mà “linh hồn bất tử” áp đặt lên y. Nhưng điều này đòi hỏi nhiều điều kiện mà giới lên đồng nói chung (thậm chí cả các nhà thần linh học nữa) đều không biết mặc dù có thói quen đều đặn tham dự các buổi lên đồng. Đâu phải ai cũng có th thu hút được các vong linh con người mà ḿnh muốn. Một trong những điều thu hút mạnh mẽ nhất đối với những người quá cố là sự luyến ái tha thiết của họ đối với những người còn bị bỏ lại trên trần thế. Nó từng bước lôi cuốn họ̣t cách không chống cự̉i vào trong dòng TINH TÚ QUANG rung động giữa người có thiện cảm với họ và linh hồn Vũ trụ. Có một điều kiện rất quan trọng nữa là sự hài hòa và sự thanh khiết v từ điện của người có mặt.

Nếu triết lý này là sai lầm, nếu mọi hình thể được “hiện hình” xuất lộ trong những phòng tối đen từ những buồng kín còn tối đen hơn nữa lại là vong linh của những người đã từng mt thời sống trên trần thế, th́ tại sao có một sự khác nhau như thế giữa chúng và nhng bóng ma đột nhiên xuất hiện mà chẳng cần tới phòng kín hoặc người đồng cốt? Có ai đă từng nghe nói tới những sự hiện hình, những “vong hồn” quậy phá lẩn quẩn ở nơi chốn mà họ bị sát hại hoặc trở về vì một lý do bí mật nào đó của riêng mình, “thò tay ra sờ thấy ấm áp” như da thịt người sống thế mà người ta biết rằng họ đã chết và bị đem chôn rồi, làm sao phân biệt họ được với kẻ phàm phu còn sống? Chúng tôi có những sự kiện được kiểm chứng kỹ lưỡng về những sự hiện hình như thế đột nhiên trở nên nhìn thy được, nhưng chưa bao giờ xảy ra cho đến khi bắt đầu kỷ nguyên “hiện hình” th́ chúng tôi mới thấy có một điều gì đó giống nhựy. Trong tác phẩm Người đồng cốt và Buổi rạng đông, số ra mùng 8 tháng 9 năm 1876, chúng tôi đọc thấy một bức thư của “một mệnh phụ du hành khắp lục địa”, kể lại một trường hợp xảy ra trong một căn nhà bị ma ám. Bà nói: “Một âm thanh kỳ lạ vang lên từ một góc tối om của phòng đọc sách . . . khi nhìn vào thì bà thấy có ̣t đám mây hoặc một cột hơi nước chói sáng . . . vong linh vướng vòng tục lụy đang lởn vởn ở chỗ bị nguyền rủa do hành vi tà vạy của mình . . .”. Vì vong linh này chắc chắn là sự hiện hình đích thực của một âm ma, nó tự ý hiện ra cho người khác thấy – tóm lại là một u hồn – cho nên cũng giống như mọi hồn ma khả kính khác, nó có thể trông thấy được nhưng không thể sờ thấy được, hoặc nếu ta sờ vào nó thì nó truyền cho ta cái cảm giác là một khối nước bị bàn tay nắm chặt lại giống như hơi nước lạnh bị ngưng đọng lại. Nó chói sáng và trông giống như hơi nước; trong chừng mực mà ta có thể nói được thì đó có lẽ là u hồn thật sự của phàm nhơn thuộc “vong linh” bị hành hạ và còn vướng vòng tục lụy do chính nó đă hối hận vì những tội ác của mình hoặc của những người khác hoặc vong linh khác. Những điều bí mật ở bên kia cửa tử có rất nhiều và những “sự hiện hình” thời nay chỉ khiến cho chúng trở nên rẻ tiền và lố bịch trước mắt kẻ thờ ơ.

Người ta có thể phản đối những điều quả quyết nêu trên bằng một sự kiện mà các nhà thần linh học đều thừa biết: Tác giả đã từng công khai chứng nhận mình có thấy những hình dáng được hiện hình như thế. Chắc chắn là chúng tôi đã làm như thế và sẵn sàng lập lại lời chứng nhận. Chúng tôi đã ṇn ra những hình thù ấy là những biểu diễn hữu hình của những người quen biết, thậm chí của những thân bằng quyến thuộc. Cùng với nhiều khán giả khác, chúng tôi đã nghe chúng thốt ra những lời lẽ bằng những ngôn ngữ không quen thuộc chẳng những đối với người đồng cốt và mọi người khác trong phòng (ngoại trừ chúng tôi), mà trong một số trường hợp còn không quen thuộc với hầu hết nếu không phải là tất cả mọi đồng cốt ở Âu Mỹ, vì đó là ngôn ngữ của các bộ̣c và dân tộc Đông phương. Vào thời ấy, những trường hợp này được coi đúng đắn là bằng chứng thuyết phục về thuật đồng cốt chân thực của người nông dân không có học thức ở Vermont ngồi trong một “buồng kín”. Tuy nhiên những hình thù này không phải là hình dáng của những người mà chúng hiện hình ra như thế. Đó chỉ là nhng pho tượng chân dung của họ được đám âm ma kiến tạo, làm linh hoạt, giựt dây thao tác. Nếu trước kia chúng tôi chưa minh giải điều này th́ đó chỉ là v́ lúc ấy công luận trong giới thần linh học thậm chí chưa sẵn sàng lắng nghe luận đề căn bản theo đó có các tinh linh ngũ hành và âm ma. Từ đó trở đi thì người ta đă nêu ra và ít nhiều bàn luận rộng rãi về đề tài này. Giờ đây có ít nguy cơ toan tính phóng lên cái biển gợn sóng lăn tăn những lời chỉ trích cái triết lý cổ kính ca các bậc thánh hiền thời xưa, vì công luận đă được chuẩn bị phần nào để cứu xét nó, cân nhắc một cách vô tư. Hai năm xáo động đã có kết quả là có thay đổi tốt hơn.

Pausanias có viết rằng bốn trăm năm sau trận chiến Marathon, ở nơi chiến trường người ta vẫn còn nghe thấy tiếng ngựa hí và tiếng hò reo của những chiến sĩ mờ mờ nhân ảnh. Giả sử rằng bóng ma của những chiến sĩ trận vong đúng là vong linh thực của họ thì chúng trông giống như những hình bóng “mờ mờ nhân ảnh” chứ không phải là nhng con người ḥn hình ra. Thế thì ai hoặc cái gì tạo ra tiếng ngựa hí? Chẳng lẽ là “vong hồn” của loài ngựa chăng? Và nếu rõ rệt là sai lầm khi cho rằng loài ngựa có vong hồn – điều này không một ai trong đám  nhà động vật học, sinh lý học hoặc tâm lý học hoặc ngay cả thần linh học có th chứng minh hoặc bác bỏ được – th́ chúng ta phi coi như đương nhiên là chính “linh hồn bất tử” của con người đã tạo ra tiếng ngựa hí ở Marathon để làm cho phong cảnh của trận đánh lịch sử trở nên sống động và đầy kịch tính hơn. Người ta đă thấy đi thấy lại hồn ma của những con chó, con mèo và đủ thứ con vật khác; về vấn đề này sự chứng nhận trên khắp thế giới cũng đáng tin cậy như sự chứng nhận đối với việc hồn ma con người hiện hình. Nếu ta được phép tạm diễn tả nhựy thì ai hoặc cái gì làm nhân cách hóa được hồn ma của những con thú đã quá cố? Phải chăng lại là vong linh của con người? Khi đặt vấn đề ra như thế thì chẳng còn gì mà nói chuyện lòng vòng: hoặc là ta phải thừa nhận rằng loài thú cũng có vong hồn và vong linh sống còn như chính chúng ta hoặc là ta phải chủ trương theo Porphyry rằng trong thế gii vô hình có một loài ma quỉ đầy ác ý và nhiều thủ đoạn là nhng sinh linh trung gian giữa người còn sống và chư “thần linh”; các tinh linh này rất khoái chí khi hiện hình dưới bất cứ hình thù nào mà nó có thể tưởng tượng ra được, bắt đầu bằng hình người và chấm dứt bằng hình thú của vô số loài thú [[80]] .

Trước khi dám đánh bạo quyết định vấn đề liệu hồn ma của loài thú có thường được nhìn thấy và chứng nhận là vonh hồn của những con thú đã chết trở lại hay chăng, thì ta phải cẩn thận xem xét cách ứng xử mà người ta tường trình về chúng. Liệu những hồn ma này có hành động theo những thói quen và phô diễn những bản năng giống như con thú trong buổi sinh thời hay chăng? Liệu hồn ma của những con thú săn mồi có nằm chờ nạn nhân hoặc hồn ma của những con thú nhút nhát có cao chạy xa bay khi thấy mặt con người hay chăng; hoặc những con thú nhút nhát lại có hồn ma tỏ ra đầy ác ý với bẩm tính quậy phá hoàn toàn xa lạ bản chất của mình? Nhiều nạn nhân của vụ ma nhập – nhất là nhng người chịu nạn ở Salem và những thuật phù thủy khác trong lịch sử – chứng nhận là đã thấy những con chó, mèo, heo và những con thú khác chui vào buồng mình, cắn xé mình và chà đạp lên cơ thể đang thiu ngủ của mình và còn nói chuyện với ḿnh nữa, thường thường thì xúi giục mình tự tử hoặc phạm những tội ác khác. Trong trường hợp đã được kiểm chứng kỹ lưỡng của nạn nhân Elizabeth Eslinger mà Bác sĩ Kerner có đề cập tới thì sự hiện hình của vị linh mục thời xưa ở Wimmenthal [[81]] có kèm theo một con chó lớn màu đen mà linh mục gọi là cha của mình, khi có mặt nhiều nhân chứng con chó này vẫn leo lên giường của các tù nhân. Và một dịp khác vị linh mục xuất hiện với một con chiên và đôi khi với hai con chiên. Hầu hết những người bị kết án ở Salem đều bị các nhà nữ thấu thị buộc tội là đã tham vấn những con chim màu vàng với âm mưu đầy ác ý, những con chim vàng đó đậu trên vai của họ hoặc trên xà nhà phía ngay trên đầu [[82]] . Và trừ phi ta không tin lời chứng nhận của hàng ngàn nhân chứng ở khắp nơi trên thế gii và trong mọi thời đại để cho chỉ có các nhà đồng cốt thời nay mới độc quyền có thuật thấu thị th́ hồn ma của loài thú vẫn xuất hiện và bộc lộ đủ mọi đặc điểm tồi tệ nhất trong bản chất bại hoại của con người mà bản thân hồn ma đó lại không mang hình người. Thế thì liệu chúng có th là cái gì nếu không phải là tinh linh ngũ hành?

Descartes là mt trong số ít người tin tưởng và dám bảo rằng môn y học huyền bí mà chúng ta còn chịu ơn nhiều phát kiến “có định mệnh là mợ̉ng phạm vi của triết học”; còn Brierre de Boismont chẳng những chia xẻ những hi vọng ấy mà còn công khai thừa nhận mình có thiện cảm với “thuyết siêu tự nhiên” mà ông coi là “tín điều vĩ đại” phổ biến khắp thế gii . . . Ông bảo rằng: “Chúng tôi đồng ý với Guizot khi cho rằng sự tồn tại của xã hội vốn được gói ghém trong đó. Lý trí hiện đại mặc dù theo chủ nghĩa thực chứng vẫn không thể nào giải thích được nguyên nhân sâu xa của bất kỳ hiện tượng phép lạ nào cho nên thật là hoài công mà bác bỏ thuyết siêu tự nhiên, nó vốn phổ biến trên khắp thế gii và ngự trong tâm khảm con người. Những đầu óc cao siêu nhất thường là những môn đồ nhiệt thành nhất của nó” [[83]] .

Christopher Columbus đã khám ra Châu Mỹ, còn Americus Vespecius lại gặt hái được vinh quang và tiếm quyền của người phát hiện. Theophrastus Paracelsus đã tái phát hiện được những tính chất huyền bí của nam châm – “cục xương của Horus” mà 12 thế kỷ trước thời ông đã đóng một vai trò quan trọng xiết bao trong các bí pháp thần thông – và tự nhiên là ông trở thành người sáng lập ra trường phái từ điển và thuật thông thần pháp thuật thời trung cổ. Nhưng Mesmer sinh trưởng gần 300 năm sau ông với tư cách là môn đồ thuộc trường phái của ông đã đưa những phép lạ của từ điển ra trước công chúng, gặt hái được vinh quang lẽ ra thuộc về nhà triết gia bái hỏa, còn bậc thầy vĩ đại lại chết trong nhà thương!

Trò đời vẫn như thế: những khám phá mới bắt nguồn từ những khoa học cổ xưa; những con người mới bắt nguồn cũng từ cái thiên nhiên xưa cũ!

 

 

QUYỂN I – KHOA HỌC

Tác giả xin kính dâng bộ sách này cho Hội Thông Thiên Học, được sáng lập ở New York, năm 1875 sau Công nguyên, ĐỂ HỘI NGHIÊN CỨU NHỮNG ĐỀ TÀI MÀ BỘ SÁCH BÀN TỚI

CHƯƠNG III

KẺ MÙ DẮT NGƯỜI ĐUI

- Sự trích dẫn của Huxley phái sinh từ Orohippus.

- Hệ thống của Comte và các môn đồ.

- Các nhà duy vật Luân Đôn.

- Những bộ áo thầy tu đi vay mượn.

- Vũ trụ ngoại giới là phân thân của vũ trụ nội giới.

“Mảnh gương linh hồn không thể phản chiếu được cả trời lẫn đất; và một đằng biến mất ra khỏi bề mặt của gương, còn một đằng phải được phàn chiếu vào sâu thẳm bên trong nó”.

 ZANONI

 

“Vậy th́ ai đã ban cho ngươi sứ mệnh loan báo cho nhân dân rằng đấng thiêng liêng không tồn tại – người thấy có được lợi ích gì khi thuyết phục thiên hạ rằng một lực mù quáng chủ trì vận mệnh của họ và ngạc nhiên giáng xuống kẻ phạm tội ác cũng như kẻ đức hạnh.”

 ROBESPIERRE (Bài diễn thuyết, ngày 7 tháng 5 năm 1794).

***************

Nhưng các kẻ thù thâm căn cố đế và ít thỏa hiệp nhất của Thần linh học chính là một tầng lớp rất may chỉ bao gồm một ít thành viên, tuy nhiên họ kịch liệt phản đối lớn tiếng hơn và khẳng định quan điểm của mình bằng cách hò hét xứng đáng cho một chính nghĩa tốt hơn. Đây là những kẻ tự xưng mình làm khoa học đối với nước Mỹ còn non trẻ; một tầng lớp lai căng những kẻ ngụy triết gia mà đầu chương này có nhắc tới đôi khi không có quyền được coi là học giả nhiều hơn mức sở hữu một cái máy điện hoặc đọc một bài thuyết trình ấu trĩ về bệnh điên và bệnh cuồng ám trung bình chủ nghĩa. Nếu tin vào họ thì những người ấy toàn là các tư tưởng gia thâm thúy và các nhà sinh lý học, bạn chắc khỏi cần phải nói chuyện tào lao về siêu hình học với họ; họ đều là những kẻ thuộc thuyết Thực chứng, là những kẻ đầu óc vẫn còn ấu trĩ miệng còn hôi sữa của Auguste Comte, họ hí hửng khi nghĩ rằng mình lôi kéo được nhân loại lầm lạc ra khỏi cái vực sâu đen tối của sự mê tín dị đoan và để tái lại càn khôn dựa vào những nguyên tắc đã được cải tiến. Vốn là những kẻ ghê sợ tâm linh và ưa nổi giận, họ không thể chịu nổi sự sỉ nhục cay độc hơn mức khi người ta gợi ý với họ rằng thiên phú cho họ tinh thần bất tử. Nếu nghe theo họ thì người ta ắt tưởng tượng rằng nơi những người nam nữ chẳng có phần hồn nào khác hơn là phần hồn theo “khoa học” hoặc “phần hồn không theo khoa học” cho dù cái loại phần hồn đó có thể ra sao đi chăng nữa [[84]] .

Cách đây chừng 30 – 40 năm, ở nước Pháp, Auguste Comte – một sinh viên trường Bách Khoa đã ở lại nhiều năm tại cơ sở ấy đóng vai thầy ôn tập về môn Giải tích số Siêu việt và Cơ học Thuần lý – một buổi sáng đẹp trời bừng mắt dậy với một ý tưởng phi lý là ḿnh trở thành một bậc đạo sư. Ở nước Mỹ thì người ta có thể gặp các vị đạo sư ở bất cứ góc đường nào; còn ở Âu Châu thì họ hiếm như những con chim thiên nga đen. Nhưng nước Pháp là xứ sở của những điều mới lạ. Auguste Comte đã trở thành một bậc đạo sư và cái mốt thời thượng ấy đôi khi lây nhiễm nhiều đến nỗi ở xứ Anh mực thước th́ trong một thời gian nào đó ông cũng được coi là Newton của thế kỷ thứ 19.

Bệnh dịch ấy lan tràn và chỉ trong một thời gian nó đã lan nhanh như chớp sang nước Đức, nước Anh và nước Mỹ. Nó có được các bậc Cao đồ ở nước Pháp, nhưng cơn kích động ấy chẳng kéo dài được lâu. Bậc đạo sư thì cần tiền mà các môn đồ thì không sẵn ḷng mở hầu bao ra. Cơn sốt hâm mộ một tôn giáo không có Thượng Đế nguội lạnh cũng nhanh khi nó bùng cháy. Trong số mọi vị tông đồ nhiệt thành của bậc đạo sư th́ chỉ còn sót lại đúng một vị là đáng cho ta chú ý. Đó là nhà ngôn ngữ học trứ danh Littré, thành viên của Bác học viện Pháp và rắp ranh làm thành viên của Hàn lâm viện Khoa học Pháp quốc, nhưng bị Tổng Giám mục Orleans có ác tâm cản trở ông thành một “Hàn lâm viện sĩ Pháp” [[85]] .

Nhà triết học toán học – bậc cao đạo của “tôn giáo tương lai” – giảng dạy giáo lý của ḿnh cũng chẳng khác gì mọi bậc đạo sư huynh đệ của thời hiện đại. Ông thần thánh hóa “phụ nữ” và dựng lên bàn thờ cho phụ nữ, nhưng vị nữ thần phải trả tiền th́ mới sử dụng được bàn thờ. Những kẻ duy lý đã cười nhạo cơn loạn trí của Fourier; họ đã cười nhạo thánh Simonist; và tha hồ chế nhạo Thần linh học. Cũng như kẻ duy lý và duy vật ấy bị thuật tu từ hùng biện của bậc đạo sư mới hớp hồn chẳng khác gì biết bao nhiêu con chim sẻ đầu óc rỗng tuếch bị nhựa bẫy chim bắt dính. Việc mơ ước một loại thiên tính nào đó, việc theo các điều “chưa ai biết” là một xúc cảm bẩm sinh nơi con người; vì thế cho nên kẻ vô thần tồi bại nhất dường như cũng không miễn nhiễm được xúc cảm ấy. Bị lừa gạt bởi cái vẻ bề ngoài óng ả của con ma trơi thả mồi bắt bóng ấy, các môn đồ cứ cắm đầu đi theo nó cho tới khi họ phát hiện ra mình đang lội bì bõm trong một vũng lầy không có đáy.

Núp dưới chiêu bài tự xưng là bác học, những kẻ Thực chứng của xứ sở này đã được tổ chức thành ra các câu lạc bộ và ủy ban rắp tâm nhổ bật tận rễ Thần linh học trong khi tự cho là mình khảo cứu thần linh học một cách vô tư.

Vì quá nhút nhát không dám thách thức giáo hội và giáo lý Ki Tô cho nên họ ra sức làm hao mòn cái điều mà mọi tôn giáo đều dựa vào đấy - đức tin của con người nơi Thượng Đế và tính bất tử của chính mình. Chính sách của họ là chế nhạo điều cung cấp một cơ sở không thông dụng cho một đức tin như thế – Thần linh học với phép lạ. Khi tấn công vào chỗ yếu nhất của nó, họ đã bộc lộ ra sự yếu kém về phương pháp qui nạp của nó và những sự ngoa ngoắc mà ta thấy trong những học thuyết siêu việt của những kẻ tuyên truyền cho nó. Lợi dụng việc nó không được lòng người và phô bày một lòng can đảm vừa giận dữ vừa không đúng chỗ như lòng can đảm của hiệp sĩ lang thang ở La Mancha, họ đòi hỏi người ta phải công nhận ḿnh là những nhà nhân ái và làm phước đang đè bẹp một sự mê tín di đoan quái gở.

Ta hãy xem tôn giáo tương lai mà Comte khoe khoang cao siêu hơn Thần linh học được bao lăm, và liệu các môn đồ của nó ít cần tới nơi nương náu là những nhà thương điên bao nhiêu khi họ ân cần khuyên các đồng cốt mà họ quan tâm xiết bao hãy đi tị nạn ở các nhà thương điên ấy. Trước khi bắt đầu, chúng tôi xin mọi người lưu ý cho sự thật là ¾ những đặc điểm ô nhục được phô bày trong phong trào Thần linh học hiện đại có thể được trực tiếp truy nguyên tới tận những kẻ duy vật phiêu lưu mà dám tự cho mình là nhà thần linh học. Comte đã sỗ sàng miêu tả người phụ nữ tương lai được “thụ thai nhân tạo”. Bà chẳng qua chỉ là chị cả của cái lý tưởng Đa tình tự do luyến ái. Sự miễn nhiễm đối với tương lai mà giáo huấn của các môn đồ ngớ ngẩn của ông nêu ra đã tiêm nhiễm vào một số những kẻ ngụy thần linh học đến mức khiến cho họ tạo ra những hiệp hội sống cộng đồng. Tuy nhiên chẳng hiệp hội nào sống được dài lâu. Đặc điểm nổi bật của chúng thường là thú tính duy vật, được sơn son thếp vàng bằng một lá mỏng là triết lý kim loại Hòa Lan, nhưng vẫn lòi đuôi ra là một tổ hợp những lời thô tục tiếng Hi Lạp cho nên cộng đồng ấy chẳng thể nào khá hơn được là phải thất bại.

Trong quyển thứ 5 của bộ sách Nước Cộng Hòa, Plato có gợi ra một phương pháp cải tiến giống người bằng cách loại bỏ những cá nhân không khỏe mạnh hoặc dị dạng và ghép đôi những mẩu ưu tú của cả hai giới tính. Ta không thể trông mong rằng vị “thiên tài của thế kỷ” cho dẫu là một bậc đạo sư lại có thể moi óc ra được một điều ǵ khác mới tinh.

Comte là một nhà toán học. Sau khi đã khéo léo tổ hợp nhiều chuyện không tưởng xưa cũ thì ông bèn tô điểm cho tổng thể và cải tiến ý niệm của Plato, vật chất hóa nó để rồi trình bày cho thế giới cái quái thai vĩ đại nhất đã từng xuất phát từ đầu óc của một con người!

Chúng tôi xin bạn đọc nhớ cho rằng chúng tôi không đả kích Comte trên cương vị là một triết gia mà với vai trò là kẻ tự xưng là nhà cải cách. Trong cái sự âm u hết thuốc chữa về những quan điểm chính trị, triết học và tôn giáo của ông, chúng tôi cũng thường bắt gặp lẻ tẻ những quan sát và nhận xét trong đó cách lập luận sâu sắc và tư tưởng đúng đắn sánh ngang với việc giải trình xuất sắc. Nhưng thế rồi những thứ đó làm lóa mắt bạn chẳng khác nào những tia chớp trong đêm tối âm u để rồi một lúc sau nhấn chìm bạn vào trong một sự tối tăm hơn bao giờ hết. Nếu được cô đọng và chấm câu trở lại cho đúng th́ xét chung nhiều tác phẩm của ông có thể gộp lại thành một bộ sách với nhiều câu kinh rất tân kỳ, định nghĩa rất sáng tỏ và thật sự tài tình được hầu hết những tật xấu của xã hội ta. Nhưng thật hoài công khi tìm kiếm – hoặc là qua những lời quanh co tẻ nhạt trong 6 quyển Giáo trìnhTriết học Thực chứng của ông hoặc nhái theo giới giáo sĩ dưới dạng đối thoại: Vấn đáp về Tôn giáo Thực chứng – bất kỳ ý tưởng nào đề nghị ngay cả những phương thuốc tạm thời cho các tật xấu ấy. Môn đồ của ông gợi ý rằng giáo lý cao siêu của bậc đạo sư đâu có dự tính dành cho điều dung tục. Khi so sánh những giáo điều mà thuyết Thực chứng rao giảng với những phép thực hành nêu gương của các tông đồ thì chúng tôi ắt phải thú nhận rằng trong thâm căn cố đế của nó có khả năng là một học thuyết nào đó rất bình bình. Trong khi bậc “cao đạo” rao giảng rằng “phụ nữ không còn là phụ nữ đối với đàn ông [[86]] ; trong khi lý thuyết của các nhà lập pháp thực chứng bàn về hôn nhân và gia đình chủ yếu cốt ở việc khiến cho người phụ nữ “chỉ là bạn đồng hành của đàn ông bằng cách tước bỏ mọi chức năng làm mẹ của người phụ nữ”[[87]]; và trong khi học chuẩn bị cho tương lai thay thế chức năng ấy bằng cách áp sát “một lực tiềm tàng” vào “người phụ nữ trinh khiết[[88]] th́ một số bậc tu cư sĩ lại công khai rao giảng thuật đa hôn còn những người khác quả quyết rằng giáo lý của mình là tinh hoa của triết học tâm linh.

Theo ý kiến của giới giáo sĩ La Mã – họ lao động vất vả trong cơn ác mộng mãn tính về ma quỉ – thì Comte đã hiến dâng người “phụ nữ tương lai” của mình cho con “yêu râu xanh” nhập vào [[89]] . Theo ý kiến của những người phàm tục hơn thì từ nay trở đi ta phải coi Thiên tính của thuyết Thực chứng là một con ngựa cái giống hai chân. Ngay cả Littré cũng phải đưa ra những điều hạn chế thận trọng khi chấp nhận vai trò tông đồ của tôn giáo mầu nhiệm này. Ông viết vào năm 1859 như sau:

“Ông Comte chẳng những nghĩ rằng mình đã tìm thấy các nguyên lý, đã vạch ra các phác họa và đã cung cấp phương pháp mà còn suy diễn ra các kết quả và dựng nên được kiến trúc xã hội và tôn giáo của tương lai. Chúng tôi xin được dè dặt về phần thứ nhì này, đồng thời tuyên bố rằng chúng tôi xin chấp nhận trọn cả phần thứ nhất là sự kế thừa” [[90]] .

Ông còn nói thêm rằng: “Trong một tác phẩm vĩ đại nhan đề Hệ thống Triết lý Thực chứng, ông Comte đã đặt nền tảng cho một triết lý [?] rốt cuộc phải thay thế cho mọi thần học và trọn cả siêu hình học. Một tác phẩm như thế tất nhiên phải bao gồm việc trực tiếp ứng dụng vào sự quản trị xã hội; và vì trong đó chẳng có chi là tùy tiện và v́ chúng tôi thấy trong đó có một khoa học chân thực [?] cho nên việc tôi gắn bó với những nguyên lý khiến tôi cũng phải gắn bó với những hậu quả cốt yếu”.

Ông Littré đã tỏ ra xứng đáng là đứa con chân thực của vị đạo sư. Thật ra thì trọn cả hệ thống của Comte đối với chúng tôi được xây dựng trên một trò chơi chữ. Khi họ bảo rằng “thuyết Thực chứng” thì bạn nên hiểu đó là Chủ nghĩa Hư vô; khi bạn nghe từ ngữ trinh khiết thì bạn nên nghĩ nó là từ ngữ dâm ô v.v. . . Vì là một tôn giáo dựa trên thuyết phủ định cho nên các tín đồ của nó khó lòng thực hiện được nó mà hầu như không phải nói trắng khi đang ngụ ý là đen!

Littré tiếp tục: “Triết lý Thực chứng không chấp nhận thuyết vô thần vì kẻ vô thần không phải là một đầu óc thực sự giải thoát mà còn là một nhà thần học theo kiểu riêng mình; y giải thích về bản thể của sự vật, y biết sự vật bắt đầu như thế nào! . . .  Thuyết vô thần chỉ là thuyết Phiếm thần và hệ thống này vẫn hoàn toàn thuộc về thần học do đó thuộc về bè phái thủ cựu” [[91]].

Quả thật là mất thời giờ nếu cứ trích dẫn thêm nữa những lời biện luận nghịch lý này. Comte đã đạt tới tột đỉnh của sự phi lý và tiền hậu bất nhất vì sau khi phát kiến ra triết lý của mình ông lại gọi nó là một “Tôn giáo”. Và như thường lệ, các môn đồ lại vượt quá cả nhà cải cách về mặt phi lý. Vốn là các triết gia giả định nổi bật lên trong Hàn lâm viện Mỹ của Comte, giống như con đom đóm chiếu sáng ban đêm ở bên cạnh một hành tinh, họ khiến cho ta không còn nghi ngờ gì nữa về đức tin của họ và đối chiếu “cái hệ thống sinh hoạt” ấy do bậc tông đồ người Pháp soạn thảo nên sánh với sự “đần độn” của Thần linh học; dĩ nhiên là thiên vị có lợi cho thuyết Thực chứng. Nhân tiện khi trích dẫn Cassaudiere mà không gán cho ông ta tư tưởng này, tác giả quyển Vấn đáp Tôn giáo Thực chứng hò hét: “Muốn hủy diệt thì bạn phải thay thế”; và các môn đồ của ông hăm hở chứng tỏ họ đang nôn nóng muốn thay thế Ki Tô giáo, Thần linh học và ngay cả Khoa học nữa bằng cái loại hệ thống ghê tởm nào đó.

Một trong các môn đồ ấy ba hoa chích chòe như sau: “Thuyết Thực chứng là một giáo lý tích hợp. Nó bác bỏ hoàn toàn mọi dạng đức tin thần học và siêu hình học; mọi dạng thuyết siêu tự nhiên và do đó cả Thần linh học nữa. Tinh thần thực chứng chân chính cốt ở việc thay vì nghiên cứu các định luật bất di bất dịch của mọi hiện tượng th́ hãy nghiên cứu cái gọi là các nguyên nhân của hiện tượng cho dù là nguyên nhân gần hay nguyên nhân xa. Dựa vào cơ sở đó, nó cũng bác bỏ thuyết vô thần; y còn nói thêm khi đạo văn những câu trong tác phẩm của Littré: “Vì kẻ vô thần trong thâm tâm là một nhà thần học, kẻ vô thần không bác bỏ các vấn đề mà thần học nêu ra, chỉ bác bỏ các giải pháp của thần học đối với những vấn đề này, do đó y thật là phi lý. Đến lượt chúng tôi, những nhà Thực chứng bác bỏ vấn đề ấy dựa trên cơ sở là trí năng hoàn toàn không hiểu nổi nó và chúng ta chỉ phí sức khi hoài công mưu tìm những nguyên nhân đầu tiên và cuối cùng. Bạn thấy đấy, thuyết Thực chứng hoàn toàn giải thích [?] được thế giới, con người, bổn phận và số phận của y” [[92]] .

Điều này rất xuất sắc và giờ đây bằng cách đối chiếu, chúng tôi sẽ trích dẫn điều mà nhà khoa học thật sự vĩ đại, Giáo sư Hare, suy nghĩ về hệ thống này. Ông bảo rằng: “Xét cho cùng thì triết lý Thực chứng của Comte chỉ là tiêu cực. Comte thừa nhận rằng ông chẳng biết gì về nguồn gốc và nguyên nhân của các định luật thiên nhiên; khởi nguyên của chúng hoàn toàn khôn dò đến nỗi mà ta chẳng hoài công bỏ ra thời gian xem xét tỉ mỉ mục đích ấy. . . Cố nhiên học thuyết của ông khiến ông rành rành là một kẻ dốt đặc cán mai về  nguyên nhân của các định luật hoặc những phương tiện giúp xác lập chúng; và học thuyết ấy chẳng có cơ sở nào ngoại trừ lập luận tiêu cực nêu trên nhằm phản đối những sự kiện được nhận biết liên quan tới sự sáng tạo tâm linh. Như vậy trong khi để cho nhà vô thần chịu sự khống chế duy vật thì Thần linh học sẽ dựng nên bên trong và bên trên cũng không gian ấy một sự khống chế có tầm quan trọng cũng như lớn lao như thời gian vĩnh hằng đối với thời gian trung bình của kiếp người và cũng giống như các cõi vô biên của các định tinh đối với vùng diện tích có thể ở được trên quả địa cầu [[93]] .

Tóm lại, thuyết Thực chứng dự tính tiêu diệt Thần học, Siêu hình học, Thần linh học, thuyết Vô thần, thuyết Duy vật, thuyết Phiếm thần và Khoa học; và rốt cuộc nó phải kết liễu bằng cách tự hủy diệt mình. De Mirville nghĩ rằng theo thuyết Thực chứng thì “trật tự chỉ bắt đầu ngự trị trong tâm trí con người vào lúc mà tâm lý học sẽ trở thành một loại vật lý học trí não, còn lịch sử trở thành một loại vật lý học xã hội”. Mohammed hiện đại trước hết phải giúp cho thiện nam tín nữ trút được gánh nặng về Thượng Đế và linh hồn của chính mình; nhiên hậu mới vô hình trung moi bụng học thuyết của chính mình bằng lưỡi gươm quá sắc bén là siêu hình học, lúc nào ông cũng nghĩ rằng mình đang né tránh siêu hình học, vậy là hé lộ ra mọi vết tích của triết học.

Vào năm 1864, M. Paul Janet, một thành viên của Bác học viện đã đọc một bài thuyết trình về thuyết Thực chứng trong đó có những lời lẽ đáng chú ý sau đây:

“Có một số tâm trí được nuôi dưỡng và cấp dưỡng dựa vào khoa học chính xác và thực chứng, tuy nhiên họ lại cảm thấy có một loại xung lực bản năng hướng về triết học. Họ có thể thỏa mãn được bản năng này chỉ dựa vào những yếu tố mà họ đã có sẵn trong tầm tay. Tuy nhiên, vì họ không biết gì về khoa học tâm lý và chỉ nghiên cứu sơ sơ về siêu hình học cho nên họ quyết tâm chiến đấu chống lại cái môn siêu hình học cũng như tâm lý học ấy mà họ biết về môn này cũng ít như môn kia. Sau khi đã làm như thế họ cứ tưởng ḿnh đã sáng lập nên một Khoa học Thực chứng trong khi sự thật là họ chỉ kiến tạo nên một thuyết siêu hình mới mẻ bất toàn và què quặt. Họ nhận vơ mình có thẩm quyền và không thể sai lầm vốn chỉ là thuộc tính của các khoa học chân chính thôi, những khoa học dựa vào kinh nghiệm và tính toán; nhưng họ thiếu một thẩm quyền như thế vì các ý tưởng của họ đã khiếm khuyết thì chớ, song le lại còn thuộc về cùng một lớp như những ý tưởng mà họ đả kích. Vì thế cho nên địa vị của họ rất yếu kém, các ý tưởng của họ rốt cuộc sẽ sụp đổ và chẳng bao lâu sau sẽ bị tản mác đi bốn phương” [[94]] .

Các nhà Thực chứng ở Châu Mỹ đã liên kết với nhau trong nỗ lực không mệt mỏi để lật đổ Thần linh học. Mặc dù vậy, để chứng tỏ là mình vô tư, họ nêu ra những thắc mắc mới mẻ như sau: “Liệu là trong các giáo điều về sự Hoài thai Vô nhiễm, Tam vị Nhất thể và sự Biến thể có bao nhiêu điều là hợp lý, nếu chúng phải chịu cuộc trắc nghiệm của sinh lý học, toán học và hóa học? Và họ “tiến hành giải đáp rằng những điều thất thường trong Thần linh học cũng có tính phi lý đâu có gì quá đáng so với những đức tin rõ rệt và khả kính này”. Đúng vậy. Nhưng không có sự phi lý thần học nào cũng như sự hão huyền thần linh học nào có thể sánh kịp sự trụy lạc và đần độn trong cái khái niệm thực chứng về việc “thụ thai nhân tạo”. Vì tự mình chối bỏ mọi tư tưởng về các nguyên nhân bản sơ cũng như nguyên nhân tối hậu, cho nên họ bèn áp dụng các thuyết điên rồ của mình để xây dựng nên một người phụ nữ bất khả hữu cho các thế hệ tương lai tôn thờ; họ thay thế người bạn đồng hành sống động bất tử của người đàn ông bằng tục bái vật phụ nữ của người Da đỏ thuộc Obeah, cái ngẫu tượng bằng gỗ mà hằng ngày người ta nhồi nhét trứng rắn vào để ấp cho nở ra rắn con bằng nhiệt của mặt trời!

Và thế là nếu ta được phép thắc mắc nhân danh óc phân biệt phải trái thông thường thì tại sao thần bí gia Ki Tô giáo lại bị trách cứ là cả tin hoặc các nhà thần  linh học lại bị phó thác cho Bedlam, khi một tôn giáo thể hiện sự phi lý nổi loạn như thế lại có được các môn đồ ngay cả trong hàng ngũ các viện sĩ Hàn lâm – khi những sử thi ngông cuồng như sau đây lại được thốt ra qua chính miệng của Comte và được các tín đồ của ông ngưỡng mộ: “Mắt tôi bị chói lòa – mỗi ngày chúng càng sáng mắt ra với sự trùng hợp càng ngày càng tăng giữa sự đột phá xã hội của bí nhiệm nữ giới và sự suy thoái tâm trí của bí tích thánh thể. Đức Mẹ Đồng Trinh đă hạ bệ Thượng Đế trong tâm trí của các tín hữu Công giáo miền Nam! Thuyết Thực chứng đã ngộ ra được sự không tưởng Utopia của thời trung cổ bằng cách biểu diễn mọi thành viên của đại gia đình là dòng dõi của một bà mẹ đồng trinh không có chồng . . .” Và lại nữa, sau khi trình bày phương thức tiến hành: “Sự phát triển qui trình mới chẳng bao lâu nữa sẽ khiến nảy sinh ra một giai cấp không cần di truyền, thích ứng với sự sinh sản dung tục nhiều hơn sự tuyển mộ các vị lãnh tụ tâm linh hoặc ngay cả các vị lãnh tụ thế tục mà thẩm quyền của họ lúc đó dựa vào một nguồn gốc thật sự cao siêu không cần phải né tránh việc khảo cứu[[95]] .

Chúng ta ắt sẽ điều tra đúng đắn về việc này, cho dù ta phát hiện chúng nơi những “điều thất thường của Thần linh học” hay nơi những điều bí nhiệm của Ki Tô giáo, có bất cứ thứ gì phi lý hơn cái “giống dân vị lai” lý tưởng này. Nếu khuynh hướng duy vật không bị phủ nhận thô bạo do cách ứng xử của một số người ủng hộ nó vốn là những người công khai rao giảng tục đa hôn thì chúng tôi ắt tưởng tượng rằng cho dù có hay không có một dòng dõi các giáo sĩ được sinh ra như thế, thì chúng tôi cũng chẳng thấy có việc tuyệt tự khi không có con cháu của “những bà mẹ không có chồng”.

Việc một triết lý có thể sinh ra tự nhiên xiết bao một giai cấp những kẻ hà khắc về mô phạm như thế được diễn tả qua ngòi bút của một trong những nhà viết tiểu luận lắm điều nhất với những tình tự như sau: “Đây là một thời đại rất buồn [[96]] đầy dẫy những đức tin đã chết và đang hấp hối, đầy dẫy những lời cầu nguyện vô hồn được thốt ra trong sự hoài công mưu tìm những vị thần linh đã biến mất. Nhưng hỡi ôi! Đó cũng là một thời đại huy hoàng đầy ánh sáng hoàng kim túa ra từ mặt trời khoa học đang lên! Liệu ta sẽ làm gì được cho những kẻ bị đắm tàu về đức tin, bị phá sản về trí tuệ nhưng . . . lại tìm thấy sự an ủi qua ảo ảnh của thần linh học, qua những điều hão huyền của thuyết siêu việt hoặc qua bóng ma trơi của thuật thôi miên mesmer? . . .”

Cái bóng ma trơi giờ đây là một hình ảnh được ưu ái xiết bao đối với nhiều nhà triết học tí hon, bản thân nó đang phấn đấu để được công nhận. Cách đây chẳng bao lâu khi cái hiện tượng giờ đây đã quen thuộc bị một thông tấn viên của tờ Thời báo Luân Đôn cực lực chối bỏ; những lời quả quyết của y có tầm quan trọng mãi cho tới khi công trình của Bác sĩ Phipson được chứng nhận của Beccaria, Humboldt và các nhà vạn vật khác đã giải quyết được vấn đề này [[97]]. Các nhà Thực chứng nên chọn một cách diễn tả nào đó hay ho hơn, đồng thời theo sát các phát hiện của khoa học. Còn về phần thuật thôi miên mesmer thì nó đã được chọn dùng ở nhiều nơi trên nước Đức và được công khai sử dụng một cách thành công không chối cãi được ở nhiều bệnh viện; các y sĩ có mức lỗi lạc, học thức và tiếng tăm lừng lẫy đã tin tưởng và chứng tỏ các tính chất huyền bí của nó; vị diễn giả tự mãn về những người đồng cốt và bệnh điên khùng chẳng hy vọng ǵ sánh kịp các y sĩ ấy về mặt lỗi lạc, học thức và tiếng tăm.

Chúng tôi chỉ cần nói thêm một vài lời nữa trước khi bỏ hẳn đề tài này. Chúng tôi thấy các nhà Thực chứng đặc biệt hân hoan với ảo tưởng rằng các nhà bác học khác, hoặc Huxley (người mà mọi người Âu châu đều coi là một trong các nhà khoa học vĩ đại nhất) đã dứt khoát từ chối vinh dự ấy và Tiến sĩ Maudsley ở Luân Đôn cũng làm như thế. Trong một bài thuyết trình do Huxley đọc vào năm 1868 ở Edimburg bàn về Cơ sở Vật lý của Sự Sống, ông thậm chí dường như xúc động rất nhiều trước sự phóng khoáng của vị Tổng giám mục ở New York khi đồng nhất hóa ông với triết lý của Comte. Ông Huxley có nói: “Về phần mình, tôi xin nói vị giám mục khả kính nhất có thể băm ông Comte ra thành mảnh vụn bằng phép biện chứng giống như một vị Agag hiện đại, và tôi chẳng toan tính giữ tay ông lại. Theo như việc nghiên cứu của tôi về điều đặc trưng cho triết lý Thực chứng tôi thấy trong đó có ít hoặc không có giá trị khoa học nào và có nhiều điều hoàn toàn đối lập với chính bản thể của khoa học cũng giống như bất kỳ điều nào đó trong Công giáo tôn trọng quyền tối thượng của Giáo hoàng. Thật vậy, triết lý của Comte thực tế có thể được mô tả tóm tắt là Công giáo trừ Ki Tô giáo”. Hơn nữa Huxley thậm chí còn trở nên giận dữ và khởi sự tố cáo người Tô cách lan là vô ơn bạc nghĩa vì đã để cho vị Giám mục nhầm lẫn Comte với người sáng lập ra một triết lý, lẽ ra phải thuộc về Hume. Vị giáo sư kêu lên: “Chỉ cần khiến cho David Hume trăn trở trong ngôi mộ của mình hầu như trong phạm vi tầm nghe thuộc căn nhà của ông thì một thính giả chú ý cũng đã lắng nghe được không một tiếng càu nhàu trong khi những học thuyết đặc trưng nhất của ông được gán cho một tác giả người Pháp mãi 50 năm sau mà trong những trang viết ảm đạm và lải nhải của tác giả ấy chúng ta đã bỏ qua sức sống của tư tưởng và sự minh bạch của cách hành văn . . .[[98]] .

Tội nghiệp cho Comte! Dường như ít ra trong xứ sở này thì những đại diện cao cấp nhất của triết lý của ông giờ đây đã bị thu gọn thành ra “một nhà vật lý học, một y sĩ chuyên khoa bệnh thần kinh và một luật sư”. Một nhà phê bình rất trí xảo đã đặt biệt hiệu cho bộ ba tuyệt vọng này là “một bộ ba bất bình thường, vốn hùng hục lao động vất vả cho nên không có thời giờ để làm quen với những nguyên tắc và luật lệ thuộc ngôn ngữ của mình” [[99]] .

Để kết luận về vấn đề này ta thấy các nhà Thực chứng không từ bỏ bất cứ phương tiện nào để lật đổ Thần linh học nhằm hậu thuẫn cho tôn giáo của mình. Người ta thấy các bậc cao đạo về thực chứng thổi kèn không biết mệt và mặc dù những bức tường của thành Jericho thời nay dường như chẳng hề sụp đổ thành cát bụi trước luồng hơi của họ, thế nhưng họ cũng không từ bỏ một phương tiện nào để đạt tới một mục tiêu mong muốn. Những nghịch lý của họ thật là độc nhất vô nhị và những lời buộc tội các nhà thần linh học thật là vô địch về mặt lý luận. Chẳng hạn như trong bài thuyết trình mới đây, người ta có nhận xét rằng: “Chính việc độc quyền vận dụng bản năng tôn giáo đã tạo ra sự vô luân về tình dục. Các linh mục, tu sĩ nam và tu sĩ nữ, các vị thánh, những người đồng cốt, những kẻ xuất thần và các tín đồ đều khét tiếng là dâm ô” [[100]].

Chúng tôi lấy làm thích thú mà nhận xét rằng trong khi thuyết Thực chứng cao rao mình là một tôn giáo thì Thần linh học chẳng bao giờ tự cho mình là bất cứ thứ gì khác hơn khoa học, một triết lý đang tăng trưởng hoặc đúng hơn là một sự khảo cứu về các lực trong thiên nhiên còn ẩn tàng và cho đến nay chưa ai giải thích được. Tính khách quan trong đủ thứ hiện tượng của nó đã được chứng minh bởi nhiều đại diện chân chính của khoa học và những “con khỉ” bắt chước đều chối bỏ một cách không đạt hiệu lực.  

Cuối cùng ta có thể nhận xét về các nhà Thực chứng vốn khách sáo bàn tới mọi hiện tượng tâm lý là họ giống như nhà tu từ học của Samuel Butler,

“ y không thể mở miệng ra

Nhưng một phép chuyển nghĩa lại tuôn ra từ đó”.

Chúng tôi cũng không có dịp để cho tầm nhìn của nhà phê bình mở rộng ra vượt quá mức những kẻ bá láp và những kẻ lên mặt dạy đời không đáng mang danh hiệu là nhà khoa học. Nhưng nếu ta cũng không chối bỏ được việc xem xét những đề tài mới bởi những vị có hàng ngũ cao siêu trong thế giới khoa học rất thường trôi qua mà không bị thách đố khi nó lẽ ra phải bị phê phán. Sự thận trọng nảy sinh từ một thói quen cố định trong việc nghiên cứu thực nghiệm, toan tính chuyển từ ý kiến này tiến lên ý kiến kia, tầm quan trọng được dành cho những vị có thẩm quyền đã được công nhận -  tất cả đều dung dưỡng cho thói bảo thủ về tư duy tự nhiên sẽ biến thành thói giáo điều. Sự tiến bộ của khoa học rất thường phải trả giá khi người cải cách bị tẩy chay hoặc chịu số phận thánh tử vì đạo. Có thể nói người cải cách trong phòng thí nghiệm phải đứng mũi chịu sào trước cái thành lũy tập quán và thành kiến. Hiếm khi nào có một tay thân thiện mở he hé cánh cửa hậu. Y có thể không mang tới những lời phản đối ồn ào và những  lời chỉ trích hỗn xược của những kẻ vô danh tiểu tốt ở tiền phòng khoa học, nhưng sự thù nghịch của một tầng lớp khác mới là nguy cơ thật sự mà người cải cách phải giáp mặt và vượt qua. Kiến thức gia tăng mau chóng, nhưng đoàn thể lớn các nhà khoa học đâu có quyền bị mất uy tín. Trong bất cứ trường hợp nào th́ họ cũng làm hết sức mình để cho phát kiến mới cùng với nhà phát kiến phải bị đắm tàu. Chiến thắng thuộc về kẻ nào đã đạt được bằng sự can đảm cá nhân, trực giác và sự kiên trì. Có rất ít lực trong thiên nhiên khi lần đầu tiên được loan báo mà lại không bị chế nhạo để rồi bị dẹp sang một bên, coi là phi lý và phản khoa học. Vì làm nhụt lòng kiêu hảnh của những kẻ chưa hề khám phá ra bất cứ điều gì cho nên những lời quả quyết đúng đắn của những người bị từ chối lắng nghe cho đến khi không cần thận trọng phủ nhận nữa, thế là hỡi ôi nhân loại ích kỷ và tội nghiệp xiết bao! Đến lượt chính những kẻ phát hiện này lại thường trở thành người chống đối và áp bức những kẻ thám hiểm mới gần đây hơn trong địa hạt định luật thiên nhiên. Thế là từng bước một, loài người cứ chạy vòng vòng xung quanh cái vòng kiến thức hạn hẹp của mình, khoa học thường xuyên sửa đổi những nhầm lẫn của ḿnh và hôm sau lại hiệu đính những thuyết sai lầm của ngày hôm trước. Trường hợp này đã thường xảy ra chẳng những đối với các vấn đề thuộc về tâm lý học chẳng hạn như thuật thôi miên mesmer, theo ý nghĩa kép là một hiện tượng vật lý và tâm linh, mà còn đối với cả những khám phá trực tiếp liên quan tới khoa học chính xác và dễ dàng chứng tỏ được.

Liệu ta có thể làm được gì? Liệu ta có nhớ lại được cái quá khứ khó chịu ấy chăng? Liệu ta có vạch mặt chỉ tên những học giả thời trung cổ đồng lõa với giới giáo sĩ chối bỏ thuyết Nhật tâm vì e rằng đụng chạm tới một giáo điều của giới giáo sĩ? Liệu ta có nhớ chăng các nhà bác học về vỏ sò đã từng một thời chối bỏ việc những vỏ sò rải rác trên khắp mặt quả địa cầu đã từng là nơi cư trú của những sinh vật? Làm thế nào mà các nhà vạn vật học vào thế kỷ thứ 18 lại tuyên bố rằng đó chỉ là các mô phỏng của thú vật thôi. Và làm thế nào mà các nhà vạn vật ấy lại đấu tranh, cãi vã, chiến đấu và chửi rủa lẫn nhau đối với những xác ướp khả kính của thời xưa trong gần một thế kỷ cho tới khi Buffon dàn xếp vấn đề này bằng cách chứng tỏ rằng những kẻ phủ nhận đã sai lầm? Chắc chắn một vỏ sò đâu có chi là siêu việt và nó phải là một đề tài hoàn toàn rành rành cho bất kỳ việc nghiên cứu chính xác nào; và nếu các nhà khoa học không đồng ý nổi với nhau về điều đó thì ta khó lòng mà trông mong họ sẽ tin tưởng vào những hình tướng phù du – của những bàn tay, khuôn mặt và đôi khi trọn cả cơ thể – xuất hiện trong những buổi lên đồng của các đồng cốt tâm linh khi họ tỏ ra là ngay thẳng.

Có tồn tại một tác phẩm nào đó tỏ ra là một tài liệu đọc rất có lợi trong lúc rảnh rỗi của những nhà khoa học đa nghi. Đó là một tác phẩm do Flourens (Thư ký trọn đời của Hàn lâm viện Pháp) ấn hành tên là Lịch sử các Nghiên cứu của Bouffon. Trong đó tác giả cho thấy nhà vạn vật học vĩ đại đã đấu tranh và cuối cùng chinh phục được những kẻ ủng hộ thuyết mô phỏng ra sao; và những kẻ đó vẫn còn tiếp tục chối bỏ bất cứ điều gì rành rành dưới ánh mặt trời cho đến khi lâu lâu thì đoàn thể các nhà bác học lại sa vào cơn thịnh nộ với một trận dịch phủ định. Nó chối bỏ Franklin và dòng điện đã được ông tinh chế; nó chế nhạo Fulton với hơi nước đã được cô đọng lại của ông; nó biểu quyết làm cho kỹ sư Perdonnet phải bó tay vì đã đề nghị xây dựng đường rầy xe lửa, nó trố mắt nhìn Harvey làm cho ông cũng phát ngượng, nó tuyên bố Bernard de Palissy “ngu như bò!”.

Trong tác phẩm thường được trích dẫn: “Xung đột giữa Khoa học và Tôn giáo”, Giáo sư Draper cho thấy dứt khoát có khuynh hướng làm lệch cán cân công lý và chỉ đổ thừa cho giới giáo sĩ cản trở bước tiến của khoa học. Mặc dù rất kính nễ và hâm mộ tác giả và nhà khoa học hùng biện này chúng tôi cũng phải phản đối và đền ơn đáp nghĩa cho mọi người. Tác giả của quyển Xung Đột có nhắc tới nhiều phát hiện nêu trên. Trong mọi trường hợp ông đều tố cáo việc giới giáo sĩ kháng cự cay đắng và lại kín miệng đối với cũng sự chống đối đó mà mọi nhà phát hiện mới bao giờ cũng phải trải nghiệm trong sự kềm kẹp của khoa học đương đại. Việc ông khẳng định nhân danh khoa học: “Tri thức là quyền lực” chắc chắn là đúng. Những vụ lạm dụng quyền lực cho dù nó bắt nguồn từ việc quá khôn ngoan hay quá dốt nát thì cũng đều có tác dụng tai hại. Hơn nữa, giới giáo sĩ bây giờ đã im hơi lặng tiếng rồi. Thời nay thì sự phản đối của họ đâu mấy khi được thế giới khoa học đếm xỉa tới. Nhưng trong khi thần học lui vào hậu trường th́ các nhà khoa học lại nắm lấy cây quyền trượng chuyên chế bằng cả hai tay và họ sẽ sử dụng nó giống như chư thiên thần cherubim và ngọn gươm bốc cháy ở vườn Eden để giữ cho thiên hạ lánh xa cây hằng sống đời đời để mãi mãi ở trong phạm vi của thế giới vật chất hữu hoại này.

Đáp lại lời phê phán của Tiến sĩ Gully về thuyết sương mù lửa của ông Tyndall, Tổng biên tập báo Nhà Thần linh học Luân Đôn nhận xét rằng nếu toàn bộ đoàn thể các nhà thần linh học không bị thiêu sống ở Smithfield trong thế kỷ này th́ chúng ta chỉ biết ơn khoa học thôi do lòng từ bi tột đỉnh ấy. Được thôi, ta hãy thừa nhận rằng trong trường hơp này các nhà khoa học đang gián tiếp là người ban ơn công khai đến mức mà việc thiêu sống các học giả uyên bác không còn là mốt thời thượng nữa. Nhưng cũng thật bất công khi thắc mắc xem liệu cái xu hướng biểu lộ đối với học thuyết thần linh do Faraday, Tyndall, Huxley, Agassiz và những người khác chẳng lẽ lại không bảo đảm được việc nghi ngờ liệu các nhà quí phái bác học này cùng với môn đồ của họ có quyền năng vô hạn mà Tòa án Tôn giáo đã từng một lần có được hay chăng, hay là giờ đây các nhà thần linh học lại không có được lý do cảm thấy thoải mái như hiện nay? Cho dù giả sử rằng họ không thiêu sống tín đồ vì có tồn tại một thế giới vong linh – thật là bất hợp pháp khi thiêu sống người ta – liệu họ có gửi các nhà thần linh học đến Bedlam hay chăng? Chẳng lẽ họ không gọi chúng ta là “những kẻ độc tưởng không chữa được”, “những kẻ điên loạn bị ảo giác”, “những kẻ bái vật” cùng với những tên gọi đặc trưng như thế? Thật vậy, chúng tôi không thể hiểu nổi điều ǵ đã kích động đến mức vị Tổng biên tập báo Nhà Thần linh học, Luân Đôn lại phải làm ơn vì sự giám hộ đầy hảo ý của các nhà khoa học. Chúng tôi tin rằng việc mới đây truy tố Lankester-Donkin-Slade ở Luân Đôn rốt cuộc lại không làm sáng mắt ra cho những nhà thần linh học đầy hi vọng để họ thấy rằng thuyết duy vật ngoan cố thường ngu tín hơn cả thuyết cuồng tín của tôn giáo nữa.

Một trong những tác phẩm tài ba nhất của Giáo sư Tyndall viết ra chính là bài tiểu luận chua cay của ông bàn về Martineau và thuyết Duy vật . Đồng thời vào một ngày nào đó trong những năm tương lai, tác giả chắc chắn sẽ rất sẵn lòng cắt xén một số cách diễn đạt thô tục không thể tha thứ được trong đó. Tuy nhiên vào lúc này, chúng tôi không bàn tới những điều đó mà chỉ xem xét điều ông phải trình bày về hiện tượng ý thức. Ông trích dẫn thắc mắc sau đây của ông Martineau: “Một người có thể bảo rằng ‘tôi cảm nhận, tôi suy nghĩ, tôi yêu thương’ nhưng làm thế nào mà ư thức lại hòa nhập vào vấn đề ấy?” Và ông trả lời như sau: “Ta không thể nghĩ ra nổi việc chuyển từ vật lý học của bộ óc sang các sự kiện tương ứng của ý thức. Cứ cho rằng một tư tưởng nhất định và một tác động phân tử trong bộ óc xảy ra cùng một lúc, thì chúng ta cũng có được cơ quan trí thức và xét theo biểu kiến cũng không có được bất kỳ bộ phận thô sơ nào của cơ quan khiến ta có thể qua một quá trình lý luận chuyển từ phần này sang phần kia. Chúng cùng nhau xuất hiện, nhưng chúng ta chẳng biết tại sao? Nếu tâm trí và các giác quan của ta có thể mở rộng, tăng cường và soi sáng đến mức giúp ta có thể thấy và cảm nhận được chính những phần tử của bộ óc; nếu ta có thể theo dõi mọi sự vận động, sự xếp nhóm và sự phóng điện của chúng, và nếu chúng ta quen thuộc rất nhiều với những trạng thái tương ứng của tư tưởng và xúc cảm th́ chúng ta vẫn còn lâu mới giải quyết được vấn đề này: ‘Làm cách nào mà các quá trình vật lý ấy lại liên kết được với các sự kiện của ý thức?’ Vực sâu ngăn cách giữa hai lớp hiện tượng này vẫn còn không vượt qua được đối với trí năng” [[101]] .

Vực sâu này (vốn không vượt qua nổi đối với Giáo sư Tyndall cũng giống như lửa sương mù khi nhà khoa học giáp mặt với nguyên nhân mà ông không thể biết được) chỉ là một hàng rào đối với những người không có trực giác tâm linh. Tác phẩm “Phác thảo các bài Thuyết trình về Hệ thống Thần kinh học của Nhân loại học” của Giáo sư Buchanan, một tác phẩm được viết ra mãi từ năm 1854, có những gợi ý theo đó nếu kẻ thông thái rởm mà quan tâm chút ít thì họ ắt thấy có một nhịp cầu có thể bắc ngang qua cái vực thẳm dễ sợ này. Đó là một trong những cái thùng chứa mà hạt giống tư tưởng của các vụ mùa tương lai được tích trữ trong đó do hiện tại đang chắt mót. Nhưng kết cấu của thuyết duy vật dựa hoàn toàn trên cái hạ tầng cơ sở thô trược ấy tức là lý trí. Khi họ đã vươn hết mọi khả năng giới hạn tột cùng th́ các vị giảng dạy thuyết ấy cùng lắm cũng chỉ tiết lộ cho ta thấy một vũ trụ các phân tử do một xung lực huyền bí làm linh hoạt. Liệu ta có thể thắc mắc xem căn bệnh của các nhà khoa học có thể được chẩn đoán tốt hơn qua việc suy ra từ bảng phân tích của Giáo sư Tyndall về trạng thái tâm trí của giới giáo sĩ tôn sùng quyền uy của Giáo hoàng bằng cách chỉ thay đổi chút ít các tên gọi. Đó là vì nếu ta hiểu các “nhà hướng dẫn tâm linh” là các nhà khoa học, nếu “quá khứ tiền khoa học” thay thế cho “hiện tại duy vật”, nếu “tinh thần” thay thế cho “khoa học”, th́ trong đoạn văn sau đây ta sẽ có một bức chân dung sống động của một nhà khoa học hiện đại mà một bậc thầy đã vẽ nên:

“. . . Các vị dẫn dắt tâm linh của họ độc quyền sống trong quá khứ tiền khoa học đến nỗi ngay cả những người thật sự có trí năng phát triển mạnh trong đám họ cũng đâm ra bị teo tóp đối với sự thật khoa học. Họ có mắt nhưng chẳng nhìn thấy gì; họ có tai nhưng chẳng nghe thấy gì; vì cả tai lẫn mắt của họ đều bị chết mê chết mệt bởi những phong cảnh và âm thanh của một thời đại khác. Liên quan tới khoa học thì bộ óc tôn sùng Quyền uy của Giáo hoàng do thiếu vận dụng cho nên hầu như cũng giống bộ óc chưa phát triển của một đứa bé. Và thế là giống như những đứa trẻ con về kiến thức khoa học nhưng lại mạnh dạn vận dụng quyền năng tâm linh trong đám người dốt nát, họ đã khuyến khích và thực hiện những phép thực hành dủ để khiến cho những người thông minh trong đám họ phải đỏ mặt lên vì xấu hổ” [[102]]. Nhà Huyền bí học giơ cao cái gương ra trước khoa học để cho khoa học có thể nhìn thấy được mình trông giống như cái gì.

Từ khi lịch sử ghi nhận được những định luật đầu tiên mà con người đã xác lập được thì chưa bao giờ có một dân tộc nào mà bộ luật của nó không treo lủng lẳng những vấn đề sống còn của các công dân dựa trên sự xác nhận của hai hoặc ba nhân chứng đáng tin cậy. Thánh Moses, nhà lập pháp đầu tiên mà chúng ta gặp trong lịch sử thời xưa có nói: “Kẻ nào đáng chết sẽ phải bị xử chết dựa theo phán quyết của hai nhân chứng hoặc ba nhân chứng” [[103]] . Montesquieu có nói: “Những luật lệ nào xử tội chết một người dựa vào lời cung khai chỉ của một nhân chứng thôi ắt là tai hại cho tự do. Lý trí đòi hỏi phải có hai nhân chứng” [[104]] .

Như vậy giá trị của nhân chứng đã được mặc nhiên đồng ý và chấp nhận ở mọi xứ sở. Nhưng các nhà khoa học không chịu chấp nhận bằng chứng của cả triệu người chống lại một người. Hàng trăm ngàn người đã hoài công xác nhận những sự thật. Họ có mắt nhưng lại không nhìn thấy. Họ quyết tâm vẫn còn mù lòa và điếc. Ba mươi năm chứng tỏ thực tiễn và bằng chứng của nhiều triệu tín đồ ở Âu Mỹ chắc chắn là có quyền được tôn trọng và chú ý đến một mức nào đó. Đặc biệt là như vậy khi phán quyết của 12 nhà thần linh học, chịu ảnh hưởng của bằng chứng do bất kỳ hai người nào xác nhận, cũng đủ thẩm quyền để đưa một nhà khoa học ra treo cổ vì một tội ác có lẽ phạm phải do sự thôi thúc của một cơn chấn động trong những phần tử trí não không bị kềm chế bởi một ý thức báo phục đạo đức trong tương lai.

Toàn thể thế giới văn minh phải coi khoa học nói chung là một mục tiêu thiêng liêng đáng kính trọng và tôn thờ; vì chỉ có khoa học mới giúp cho con người hiểu được Đấng Thiêng Liêng qua việc thật sự đánh giá cao công trình của ngài. Webster có nói: “Khoa học là việc hiểu biết về sự thật hoặc các sự kiện, đó là việc khảo cứu sự thật vì sự thật và theo đuổi kiến thức thuần túy”. Nếu định nghĩa này là chính xác th́ đa số các học giả thời nay đã tỏ ra trá ngụy đối với vị nữ thần của mình: “Sự thật vị sự thật”. Và liệu ta có thể mưu tìm được chìa khóa cho mọi sự thật trong thiên nhiên ở đâu nữa nếu không phải là trong sự bí nhiệm của tâm lý học mà cho đến nay ta chưa thăm dò được? Tiếc thay! Khi thăm dò về thiên nhiên như thế biết bao nhiêu nhà khoa học đã kén cá chọn canh chỉ lựa chọn những sự kiện để nghiên cứu mà cùng lắm cũng chỉ ủng hộ cho thành kiến của mình.

Tâm lý học không có kẻ thù nào tồi tệ hơn trường phái y học được mệnh danh là những thầy thuốc chữa mẹo. Thật là hoài công mà nhắc cho họ nhớ rằng cái gọi là khoa học chính xác rành rành như y học, hầu như chẳng xứng đáng gì với tên gọi ấy. Bất chấp mọi ngành kiến thức y học, các y sĩ vẫn phải nên nghiên cứu tâm lý học hơn bất kỳ ngành học nào khác vì nếu không có tâm lý học việc thực hành y học sẽ bị suy thoái thành ra chỉ là việc phỏng đoán và trực giác may rủi mà hầu như họ hoàn toàn bỏ lơ. Chỉ nội việc không tán đồng những học thuyết mà họ truyền bá cũng đủ làm họ giận dữ coi đó là tà thuyết và mặc dù một phương pháp chữa trị không được công nhận và không được lòng dân đã tỏ ra là cứu được cả ngàn người thì với vai trò một y sĩ đoàn, họ dường như vẫn có khuynh hướng bám lấy những giả thuyết và những phương thuốc đã được chấp nhận, làm giảm giá trị cả nhà cải cách lẫn phương thức cải cách cho đến khi họ có được dấu ấn cầu chứng của sự chính qui. Trong khi đó hàng ngàn bệnh nhân bất hạnh có thể chết đi, nhưng chừng nào mà danh dự của nghề nghiệp vẫn còn được biện minh thì đây chỉ là vấn đề có tầm quan trọng thứ yếu.

Xét về mặt lý thuyết thì y học mang lại phúc lợi nhiều nhất, đồng thời không có một trường phái nào lại bộc lộ nhiều ví dụ về thành kiến nhỏ nhen thuyết duy vật, thuyết vô thần và sự ngoan cố đầy ác ý như y học. Những sự ưu ái và bảo trợ của các y sĩ hàng đầu hiếm khi nào được đo lường qua sự hữu dụng của một phát kiến. Việc rạch cho chảy máu qua việc cho đỉa cắn, giác hơi và dùng dao mổ được giới bình dân tán thành lan nhanh như bệnh dịch, nhưng rốt cuộc nó bị thất sủng không đếm xỉa tới công lao; nước mà giờ đây người ta thoải mái dùng cho bệnh nhân bị sốt thì có một thời được dùng cho họ, việc tắm nước nóng được thay thế bằng tắm nước lạnh và có một thời thủy liệu pháp bị coi là một chuyện điên rồ. Vỏ cây Peri – mà một người thời nay bênh vực cho thẩm quyền của thánh kinh đã nghiêm chỉnh cố gắng đồng nhất hóa nó với “Cây Hằng Sống” trên thiên đường [[105]] và được mang tới Tây Ban Nha vào năm 1632 – bị bỏ lơ trong nhiều năm. Giáo hội đã từng một lần tỏ ra phân biệt đối xử còn nhiều hơn khoa học nữa. Theo lời thỉnh cầu của Hồng y De Lugo, Innocen X. đã mang lại cho giáo hội uy tín và danh tiếng đầy quyền lực của ḿnh.

Trong một quyển sách cổ tựa đề là Ma quỉ học, tác giả trích dẫn nhiều ví dụ về những phương thuốc quan trọng thoạt đầu bị bỏ lơ rồi sau đó mới nổi bật lên được chú ý chỉ do tình cờ. Ông cũng chứng tỏ rằng hầu hết các phát kiến mới trong y học đã tỏ ra chẳng có ǵ khá hơn là “sự hồi sinh và chọn dùng trở lại những phép thực hành rất xưa cũ”. Trong thế kỷ vừa qua, rễ cây dương xỉ dương tính được một mệnh phụ tên là Nouffleur (một nữ lang băm) bán và quảng cáo rùm beng là một loại thuốc nhảm nhí bí mật chữa được bệnh giun sán. Vua Louis XV đã bỏ ra một món tiền lớn để mua bí quyết ấy; sau đó các y sĩ mới phát hiện ra rằng chính Galen đã khuyên dùng và viết toa phương thuốc đó để trị bệnh ấy. Cái bột thuốc trứ danh của Hầu tước Portland chữa bệnh thống phong chính là chất diacentaureon của Cælius Aurelianus. Về sau người ta mới nhận biết được rằng các tác giả y khoa thời xa xưa nhất đã sử dụng nó, họ đã tìm thấy nó trong các phẩm của các triết gia Hi Lạp thời xưa. Nước y khoa của Bác sĩ Husson cũng thế, nó mang tên của ông. Phương thuốc nổi tiếng này để trị bệnh thống phong cũng được nhận ra dưới chiêu bài mới chính là Colchicum autumnale, tức là cây nghệ ở đồng cỏ vốn đồng nhất với một cây tên là Hermodactylus có công dụng là một chất giải độc nào đó đối với bệnh thống phong; nó đă được nhận biết và bảo vệ do Oribasius, là một y sĩ vĩ đại vào thế kỷ thứ tư và Ætius Amidenus, một y sĩ xuất sắc khác ở Alexandria vào thế kỷ thứ 5. Sau đó nó đã bị bỏ lơ và chìm vào quên lãng v́ nó đã quá xưa cũ cho nên không được coi là thuốc tốt được công nhận bởi các thành viên của các khoa y vốn thịnh hành vào cuối thế kỷ vừa qua!

Ngay cả Magendie vĩ đại, là một nhà sinh lý học khôn ngoan, cũng không phát hiện được điều ǵ nếu các y sĩ thời xa xưa nhất chưa từng phát hiện ra nó và thấy điều đó là tốt. Phương thuốc mà ông đề nghị chữa bệnh lao nghĩa là dùng axit prussic, ta có thể thấy trong những tác phẩm của Lumæus, quyển 4 của bộ Amenitates Academicœ, trong đó ông chứng tỏ rằng người ta đã dùng nước cất của cây nguyệt quế để chữa bệnh lao phổi và đạt được nhiều ích lợi. Pliny cũng đoan chắc với ta rằng nước chiết xuất từ cây hạnh đào và hột cứng của cây anh đào chữa được bệnh ho dai dẳng nhất. Tác giả của quyển Ma quỉ học đã nhận xét rất hay rằng ta có thể quả quyết một cách hoàn toàn xác tín rằng “đủ thứ phép chế biến bí mật của thuốc phiện mà người ta ca ngợi là phát hiện của thời nay thì đều có thể được nhận thấy trong những tác phẩm của các tác giả thời xưa”, họ thấy là ḿnh bị mất uy tín vào thời nay.

Khắp nơi người ta đều công nhận rằng từ thời xa xưa miền viễn Đông đã là vùng đất của tri thức. Ngay cả ở Ai Cập thì môn thực vật học và khoáng vật học cũng đã được các nhà bác học nghiên cứu rộng rãi hơn nước nào hết ở vùng Trung Á cổ sơ. Sprengel cho dù tỏ ra là bất công và đầy thành kiến về mọi điều khác nữa cũng lại thú nhận nhiều điều này trong tác phẩm Lịch sử Y học của mình. Thế nhưng mặc dù điều đó, bất cứ khi nào thảo luận tới đề tài pháp thuật thì pháp thuật Ấn Độ hiếm khi nào được nêu ra cho bất cứ ai vì nói chung nó ít được thực hành ở xứ sở ấy nên chẳng ai biết tới nó so với ở bất kỳ dân tộc cổ xưa nào khác. Đối với người Ấn độ thì pháp thuật còn có tính cách bí truyền nhiều hơn mức ngay cả đối với các tu sĩ Ai Cập nữa. Nó được coi là linh thiêng đến nỗi người ta chỉ phần nào công nhận sự tồn tại của nó và người ta chỉ thực hành nó trong những trường hợp khẩn cấp nơi công cộng. Nó còn hơn hẳn một vấn đề tôn giáo nữa vì nó được coi là linh thiêng. Mặc dù có thực hành một đạo đức nghiêm khắc và thanh khiết thì các bậc đạo trưởng ở Ai Cập không một lúc nào có thể được so sánh với những môn đồ tu khổ hạnh của phái Lõa thể cả về cuộc sống thánh thiện lẫn những quyền năng phép lạ mà họ đã phát triển được do sự cầu khẩn siêu tự nhiên về mọi thứ trần tục. Những người nào biết rõ họ thì còn tôn kính họ nhiều hơn các pháp sư của Chaldea nữa. Vì từ bỏ những tiện nghi đơn giản nhất của cuộc sống cho nên họ sống trong rừng rậm với cuộc đời một tu sĩ ẩn dật nhất[[106]] trong khi các huynh đệ người Ai Cập của họ ít ra cũng quây quần lại với nhau. Mặc dù lịch sử đã gây sỉ nhục cho mọi người thực hành pháp thuật và thuật bói toán, song lịch sử cũng tuyên cáo là họ nắm được những bí mật vĩ đại nhất về kiến thức y học và có tài khéo siêu quần bạt tụy khi thực hành y thuật. Trong các tu viện ở Ấn Độ có bảo tồn được nhiều bộ sách ghi chép lại bằng chứng về học thuật của họ. Việc ta toan tính xét xem liệu các môn đồ phái Lõa thể này có phải là những người thực sự sáng lập ra pháp thuật ờ Ấn Độ hay chăng, hoặc liệu họ chỉ thực hành điều đã được truyền thừa cho họ từ các bậc Rishis xưa nhất (bảy nhà thánh thiền sơ khai) [[107]] ắt bị các học giả chính xác coi như chỉ là sự suy đoán. “Việc họ cẩn thận khi giáo dục giới trẻ tuổi, làm cho giới thanh niên quen thuộc với những tình cảm rộng lượng và đầy đức hạnh, đặc biệt tôn vinh chúng và những câu châm ngôn và những bài thuyết trình các sử gia ghi chép lại được chứng tỏ rằng họ là các chuyên gia về vấn đề triết học, siêu hình học, thiên văn học, đạo đức và tôn giáo” (một tác giả hiện đại nói như thế). Họ vẫn bảo tồn được phẩm giá của mình khi chịu uy thế của những ông hoàng đầy quyền lực nhất mà họ cũng không chịu hạ cố tới viếng thăm hoặc bận tâm xin xỏ những ân huệ nhỏ nhặt nhất. Nếu những ông hoàng muốn được các bậc thánh nhân ấy khuyên lơn hoặc cầu nguyện thì họ bắt buộc phải thân chinh đến tận nơi hoặc cử sứ giả đi thay. Không có bí mật quyền năng nào của loài cây cỏ hoặc khoáng vật mà những người này không biết. Họ đã dò thấu được thiên nhiên đến chỗ sâu thẳm của nó, trong khi tâm lý học và sinh lý học là những quyển sách mở ngỏ đối với họ, kết quả là một môn khoa học mà giờ đây ta gọi một cách ngạo mạn là pháp thuật.

Trong khi những phép lạ được ghi chép trong Kinh Thánh đã trở thành những sự kiện được Ki Tô hữu chấp nhận th́ việc không tin vào chúng lại bị coi là kẻ vô đạo, thế mà những câu chuyện kể về phép lạ và điều huyễn hoặc trong Atharva Veda [[108]] lại khiến cho các Ki Tô hữu khinh bỉ hoặc bị họ coi là bằng chứng ma quỉ. Thế nhưng xét theo nhiều phương diện, bất chấp sự ngần ngại của một vài học giả tiếng Bắc phạn thì chúng tôi vẫn có thể chứng tỏ rằng hai bên đồng nhất với nhau. Hơn nữa, vì kinh Phệ đà giờ đây được các học giả chứng minh là có trước Thánh kinh của Do Thái giáo nhiều thời đại cho nên ta cũng dễ dàng suy diễn được rằng nếu bên này có vay mượn của bên kia th́ các Thánh thư của Ấn Độ không bị cáo buộc là đạo văn.

Trước hết, vũ trụ khởi nguyên luận của họ cho thấy ý kiến thịnh hành trong các nước văn minh đã sai lầm xiết bao khi cho rằng người Ấn Độ coi Brahma là vị thủ lãnh hoặc Thần linh Tối cao của mình. Brahma là một đấng thần linh thứ cấp và là một đấng “làm cho nước vận động” giống như Jehovah. Ngài là thần linh sáng tạo và theo biểu diễn ẩn dụ thì ngài có bốn đầu tương ứng với bốn phương chính. Ngài là đấng hóa công, kiến trúc sư của thế giới. Trong quyển Thần thoại Ấn Độ, Polier có nói: “Ở trạng thái sáng tạo bản sơ, vũ trụ sơ khai bị chìm ngập trong nước dựa vào lòng của Đấng Vĩnh Hằng. Khi nảy sinh từ cái khối hỗn mang u minh ấy, Brahma tức kiến trúc sư của thế giới ngự trên một lá hoa sen trôi nổi (di chuyển?) trên nước, không hề phân biệt được bất cứ thứ gì ngoại trừ nước và bóng đêm”. Điều này đồng nhất tối đa với vũ trụ khởi nguyên luận của Ai Cập mà trong những câu mở đầu có cho thấy rằng Athor [[109]] tức Mẹ Ban Đêm (biểu diễn bóng tối vô biên) là yếu tố bản sơ bao phủ vực sâu vô tận, được làm linh hoạt do nước và tinh thần vũ trụ của Đấng Vĩnh Hằng, chỉ ngự trong Hỗn mang thôi. Cũng giống như trong Thánh kinh của Do Thái giáo, lịch sử sáng tạo bắt đầu bằng thần khí của Thượng Đế và sự phân thân sáng tạo của ngài là một Đấng Thiêng Liêng khác [[110]] . Khi nhận thấy một tình trạng sự vật ảm đạm như thế, Brahma khiếp đảm tự nhủ: “Ta là ai? Ta từ đâu ra?” Thế rồi ngài thấy một tiếng nói: “Hãy cầu nguyện với Bhagavant tức là Đấng Vĩnh Hằng, cũng được biết là Parabrahma”. Brahma nổi lên từ tư thế bơi, an tọa trên một hoa sen ở tư thế nhập định và suy gẫm về Đấng Vĩnh Hằng, Đấng Vĩnh Hằng hài lòng với bằng chứng về sự mở đạo như thế cho nên vén bức màn đen bản sơ để khai mở sự hiểu biết của Brahma. “Sau đó Brahma từ trứng vũ trụ (hỗn mang vô cực) xuất hiện thành ánh sáng, vì sự hiểu biết của ngài giờ đây đã được khai mở và ngài khởi sự hoạt động; ngài di chuyển trên mặt nước vĩnh hằng có bên trong mình là thần khí của Thượng Đế; ngài là Narayana do có khả năng làm cho nước vận động”.

Hoa sen, hoa linh thiêng của người Ai Cập cũng như của người Ấn Độ, là biểu tượng của Horus cũng như là biểu tượng của Brahma. Không có đền thờ nào ở Tây Tạng hoặc Nepal mà ta không thấy hoa sen, biểu tượng này có ý nghĩa rất gợi ý. Cành hoa huệ mà vị Tổng thiên thần cầm trên tay rồi dâng cho Đức Mẹ Đồng Trinh trong những bức tranh về “lễ truyền tin” cũng có ý nghĩa biểu tượng bí truyền giống hệt như thế. Chúng tôi xin bạn đọc hãy tham khảo ngài William Jones [[111]] . Đối với người Ấn Độ, hoa sen là biểu hiệu của quyền năng sinh sản trong thiên nhiên do tác nhân của lửa và nước (tinh thần và vật chất). Một câu thơ trong Chí Tôn Ca có nói: “Hỡi Đấng Vĩnh Hằng! Con thấy Brahma là đấng sáng tạo được đăng quang nơi ngài bên trên hoa sen!”, còn ngài W. Jones cho thấy rằng hạt giống của hoa sen – ngay cả trước khi nảy mầm – cũng chứa những chiếc lá đã được tạo ra hoàn chỉnh, là hình dáng thu nhỏ của điều mà một ngày kia chúng sẽ trở thành những cái cây hoàn chỉnh; hoặc tác giả của quyển Ngoại Đạo có nói: “Như vậy thiên nhiên đã cung cấp cho ta một mẫu hình tiền chế về những sản vật của nó”, ông còn nói thêm rằng: “hạt giống của mọi cái cây hiển giao có chứa những đóa hoa đích thực bao hàm một cây nhỏ dưới dạng phôi thai đã được tạo dựng rồi[[112]].

Đối với các Phật tử, nó cũng có ý nghĩa giống như vậy. Maha-Maya tức Maha-Deva là mẹ của Đức Phật Thích Ca đã được Bồ Tát (Chơn linh của Đức Phật) báo tin cho ngài biết sẽ hạ sinh một hoàng nam, Bồ Tát xuất hiện bên cạnh giường nằm của mẫu hậu trên tay cầm một đóa hoa sen. Cũng vậy người Ai Cập thường biểu diễn Osiris và Horus có liên kết với hoa sen.

Tất cả những sự kiện này đều chứng tỏ rằng ý tưởng ấy có nguồn gốc như nhau trong cả ba hệ thống tôn giáo: Ấn Độ giáo, Ai Cập giáo và Do Thái Ki Tô giáo. Ở bất cứ nơi đâu mà người ta sử dụng cây bông súng (cây hoa sen) thần bí này th́ nó có nghĩa là sự phân thân của điều thuộc ngoại giới xuất phát từ điều ẩn tàng thuộc nội giới – tư tưởng vĩnh hằng của Đấng Thiêng Liêng hằng vô hình chuyển từ dạng trừu trượng sang dạng cụ thể tức hữu hình. Đó là v́ ngay khi bóng đen bị xua tan và “có được ánh sáng” thì sự hiểu biết của Brahma được khai mở và ngài thấy trong thế giới ý niệm (cho đến nay nó đã bị đời đời che giấu trong tư tưởng Thiêng liêng) có những hình tướng nguyên mẫu của mọi sự vật vô hạn trong tương lai ắt phải bước vào tồn tại và do đó trở nên hữu hình. Ở giai đoạn tác động đầu tiên này, Brahma còn chưa trở thành kiến trúc sư, đấng kiến tạo vũ trụ v́ cũng giống như một kiến trúc sư, trước hết ngài phải làm quen với kế hoạch và ngộ ra những hình tướng lý tưởng được chôn vùi trong lòng Đấng Vĩnh Hằng cũng giống như những lá hoa sen tương lai được giấu kín bên trong hạt giống của cây hoa đó. Và chính nhờ ý tưởng này mà ta mới tìm ra được ngọn nguồn và cách giải thích của câu thơ trong vũ trụ khởi nguyên luận Do Thái giáo như sau: “Và Thượng Đế phán hãy để cho đất sinh ra . . . Cái cây ăn quả đơm bông kết trái theo loại hình của cây mà hạt giống đã có sẵn nơi chính nó. Trong mọi tôn giáo nguyên thủy thì “Ngôi Con của Cha” là Thượng Đế sáng tạo nghĩa là tư tưởng của ngài trở nên hữu hình; và trước Công nguyên, từ ba Ngôi của Ấn Độ giáo xuống mãi tới ba Ngôi trong kinh Kabala của các kinh thánh được giải thích theo Do Thái giáo thì ba Ngôi của Thượng Đế trong mỗi quốc gia đều được định nghĩa đầy đủ và xác minh trọn bên trong các ẩn dụ. Trong tín điều của Ki Tô giáo ta thấy đó chẳng qua chỉ là việc nhân tạo một cái cành mới vào cái thân cây cũ; và việc các Giáo hội Hi Lạp cũng như La Mã đều chọn dùng biểu tượng hoa huệ mà vị Tổng thiên thần cầm lấy vào lúc có lễ Truyền tin cho thấy có một tư tưởng với ý nghĩa siêu hình học giống như trên.

Hoa sen là sản phẩm của lửa (nhiệt) và nước vì thế cho nên nó là biểu tượng kép của tinh thần và vật chất. Thượng Đế dưới dạng Ngôi Hai trong ba Ngôi cũng giống như Jehovah (Adam-Kadmon) và Osiris, hoặc đúng hơn là Pimander tức là Quyền năng của Tư tưởng Thiêng liêng của Hermes; đó là v́  chính Pimander biểu diễn gốc rễ của mọi vị thần Thái dương trong Ai Cập giáo. Đấng Vĩnh Hằng là Chơn linh của Lửa, ngài khuấy động làm đơm hoa kết trái và phát triển thành một hình tướng cụ thể mọi điều sinh ra từ nước tức đất nguyên thủy do từ Brahma tiến hóa ra; nhưng vũ trụ chính là Brahma và ngài chính là vũ trụ. Đây là triết lý của Spinoza mà ông đã dẫn xuất từ triết lý của Pythagoras, cũng chính vì triết lý ấy mà Bruno trở thành một thánh tử vì đạo. Sự kiện lịch sử này chứng tỏ thần học Ki Tô giáo đã đi lệch khỏi khởi điểm của mình xiết bao. Bruno đă bị sát hại vì đã chú giải một biểu tượng mà các Ki Tô hữu thời sơ khai đã chọn dùng và các thánh tông đồ đã xiển dương! Cái cành cây bông súng của Bồ Tát và sau này của Tổng thiên thần Gabriel tiêu biểu cho lửa và nước tức là ý niệm về sự sáng tạo và sự sinh sản, nó đă được triển khai thành giáo điều xa xưa nhất trong phép bí tích rửa tội.

Các học thuyết của Spinoza và Bruno hầu như giống hệt nhau, mặc dù lời lẽ của Spinoza thần bí hơn và được chọn lựa cẩn thận hơn lời lẽ mà ta thấy trong các thuyết của tác giả Nguyên lý của Nguyên nhân Bản sơ tức là Vũ trụ Vô biên và Thế giới. Cả Bruno (ông thú nhận rằng thông tin của mình bắt nguồn từ Pythagoras) và Spinoza (ông không thẳng thắn công nhận điều đó) cho thấy triết lý của ông đã tiết lộ điều bí mật; cả hai đều coi Nguyên nhân Bản sơ theo cùng một quan điểm. Đối với họ, Thượng Đế là một Thực thể hoàn toàn tự thân vận động, một Đấng Chơn linh Vô cực và là Đấng Tự Tại duy nhất hoàn toàn tự do và độc lập với những hậu quả hoặc nguyên nhân khác; cũng nhờ vào Ý chí ấy, ngài đã tạo ra vạn vật và cung cấp xung lực đầu tiên cho mọi định luật vũ trụ, mãi mãi khiến cho vạn vật trong vũ trụ được tồn tại và có trật tự. Cũng giống như các môn đồ Swābhāvikas của Ấn Độ bị gọi sai lầm là kẻ Vô thần (họ giả sử rằng vạn vật kể cả con người, chư thần linh và các chơn linh đều sinh ra từ chơn như Swabhāva tức bản thể của chúng [[113]] ; cả Spinoza lẫn Bruno đều đi tới kết luận rằng ta phải mưu tìm Thượng Đế trong nội bộ thiên nhiên chứ không phải bên ngoài thiên nhiên. Đó là v́ sự sáng tạo vốn tỉ lệ với quyền năng của Tạo hóa, vũ trụ cũng như Tạo hóa phải vô hạn và vĩnh hằng cho nên một hình tướng đều phân thân từ bản thể của mình, đến lượt nó lại sáng tạo ra một hình tướng khác. Các nhà bình luận thời nay đều khẳng định rằng Bruno mặc dù không được nâng đỡ bởi niềm hi vọng về một thế giới khác tốt đẹp hơn song chẳng thà chịu mất mạng còn hơn bỏ niềm xác tín của mình”; do đó người ta suy ra rằng Giordano Bruno không tin rằng con người tiếp tục tồn tại sau khi chết. Giáo sư Draper khẳng định dứt khoát rằng Bruno không tin vào sự bất tử của linh hồn. Khi nhắc tới vô số nạn nhân bị Giáo hội của Đức Giáo hoàng đối xử không khoan dung về mặt tôn giáo, ông nhận xét rằng: “Việc chuyển từ kiếp này sang kiếp tới, mặc dù trải qua một sự thử thách nghiệt ngã cũng là việc chuyển từ một sự rắc rối phù du sang hạnh phúc đời đời . . . Trên đường vượt qua vực thẳm đen tối, vị thánh tử vì đạo tin rằng có một bàn tay vô hình dẫn dắt mình . . . Bruno tin rằng không có được một sự hỗ trợ như thế. Những ý kiến triết học (ông đã chịu mất mạng để bảo vệ nó) không thể an ủi chút nào cho ông” [[114]] .

Nhưng Giáo sư Draper dường như hiểu biết rất hời hợt về đức tin thật sự của các triết gia. Chúng ta có thể không bàn tới Spinoza, thậm chí để cho ông vẫn còn là một kẻ cực kỳ vô thần và duy vật dưới mắt những nhà phê bình; vì ông đã tỏ ra rất dè dặt cẩn thận trong các tác phẩm của mình khiến cho kẻ nào không hiểu được ý tại ngôn ngoại của ông và không hoàn toàn quen thuộc với ý nghĩa ẩn tàng của siêu hình học Pythagoras, thật khó lòng nhận biết được đâu là tình cảm thật sự của ông. Nhưng về phần Giordano Bruno, nếu ông tin theo học thuyết của Pythagoras th́ ông ắt phải tin vào kiếp sau, do đó ông không thể là một kẻ vô thần đến nỗi triết lý không mang lại cho ông được “niềm an ủi” nào. Lời buộc tội của ông rồi sau đó thú nhận mà Giáo sư Domenico Berti trình bày trong tác phẩm Cuộc đời của Bruno vốn được biên soạn theo những tài liệu nguyên gốc mới được xuất bản gần đây, đã chứng tỏ không còn nghi ngờ gì nữa đâu là triết lý thật sự, đức tin và học thuyết của ông. Cũng giống như các môn đồ của Plato thuộc trường phái Alexandria và các môn đồ kinh Kabala sau này, ông cho rằng Chúa Giê su là một pháp sư theo nghĩa mà Porphyry và Cicero gán cho danh xưng ấy – họ gọi pháp sư là tri thức thiêng liêng – cũng như Philo Judæus mô tả Pháp sư là người điều tra mầu nhiệm nhất về những điều bí nhiệm ẩn tàng trong thiên nhiên chứ không phải theo ý nghĩa thoái hóa mà thế kỷ của ta gán cho từ pháp thuật. Theo quan niệm cao cả của ông, thì Pháp sư là những người thánh thiện đã dứt bỏ mọi chuyện khác trên trần thế, đã chiêm ngưỡng được một cách rõ ràng hơn những đức tính thiêng liêng và hiểu được bản chất thiêng liêng của chư thần linh và các vong linh; do đó pháp sư mới khai tâm được người khác cũng về những bí pháp ấy, vốn cốt ở việc duy trì sự liên giao không gián đoạn với các thực thể vô hình trong buổi sinh thời. Nhưng chúng ta sẽ chứng tỏ được niềm tin sâu thẳm trong nội tâm của Bruno về triết học tốt hơn qua việc trích dẫn những đoạn văn từ lời buộc tội và thú nhận của chính ông.

Những lời cáo buộc của Mocenigo (kẻ kết án ông) được trình bày qua những lời lẽ sau đây:

“Tôi tên là Zuane Mocenigo vốn là con trai của ngài Marcantonio lừng danh nhất, xin tố cáo với các Đức Cha theo đúng lương tâm và mệnh lệnh của giáo sĩ nghe tôi xưng tội, tôi có nghe Giordino Bruno nói nhiều lần khi ông đàm đạo với tôi ở nhà của tôi, theo đó trong Công giáo thật là điều phạm thượng lớn khi bảo rằng bánh mì biến thể thành thịt Chúa; ông chống đối lại lễ Misa; chẳng tôn giáo nào làm ông vừa ư; đấng Ki Tô là một kẻ khốn khổ và nếu ngài đã làm những chuyện ác độc để dụ dỗ nhân dân thì việc tiên đoán ngài bị đóng cọc xuyên qua người cũng dễ thôi; ba Ngôi của Thượng Đế chẳng phân biệt gì với nhau và Thượng Đế vốn bất toàn; thế giới vốn vĩnh hằng và có vô vàn thế giới, Thượng Đế khiến cho các thế giới cứ liên tục mãi vì theo Bruno ngài muốn mọi điều mà ngài có thể làm được; đấng Ki Tô đã làm nên các phép lạ theo biểu kiến và là một pháp sư, các thánh tông đồ cũng như vậy và Bruno có nghĩ đến việc làm được như vậy và làm nhiều hơn mức đó nữa; đấng Ki Tô tỏ ra không sẵn lòng chịu chết và hết sức né tránh sự chết; không có việc trừng phạt tội lỗi, các linh hồn do tác động của thiên nhiên sáng tạo ra chuyển từ con thú này sang con thú khác và cũng như những con thú dã man sinh ra từ sự thoái hóa, cũng vậy sau khi xác thân tan biến con người lại tái sinh”.

Cho dù thật là phản trắc thì những lời lẽ nêu trên biểu thị rõ ràng rằng Bruno tin vào sự chuyển kiếp theo Pythagoras, nếu bị hiểu lầm thì nó vẫn còn chứng tỏ rằng ông có tin vào sự sống còn của con người dưới dạng này hay dạng khác. Người buộc tội còn kể tội thêm rằng:

“Ông đã tỏ dấu muốn mình trở thành người lập nên một giáo phái mới với tên gọi là Triết Lý Mới. Ông bảo rằng Đức Mẹ Đồng Trinh không thể sinh sản và đức tin của Công giáo đều là những điều phạm thượng chống lại sự tôn nghiêm của Đức Chúa Trời, các tu sĩ phải bị tước mất quyền tranh cãi và bị lột sạch mọi thu nhập vì họ làm ô uế thế gian, các tu sĩ đều là những con lừa và các ý kiến của ta đều là học thuyết của những con lừa; chúng ta không có bằng chứng là đức tin của mình xứng đáng với công trạng của Thượng Đế vì chúng ta chẳng làm được gì cho người khác có một cuộc sống tốt lành bởi vì ta có làm được gì cho bản thân đâu nên ông mới chế nhạo mọi tội lỗi khác và thắc mắc chẳng biết bằng cách nào mà Thượng Đế có thể chịu đựng nổi biết bao nhiêu điều dị giáo trong Công giáo. Ông bảo rằng ông có ý định chuyên tâm vào thuật bói toán khiến cho trọn cả thế giới phải theo đuôi ông; ông cho rằng thánh Thomas và mọi nhà Thông thái trong giáo hội đều chẳng biết gì khi sánh với ông và ông có thể nêu ra những nghi vấn mà mọi nhà thần học hàng đầu trên thế giới đều chẳng thể trả lời nổi”.

Vị triết gia bị buộc tội đã đáp trả lời kết án bằng tuyên ngôn tín ngưỡng sau đây giống như mọi môn đồ thuộc các bậc thầy thời xưa:

“Tóm lại, tôi cho rằng có một vũ trụ vô biên là hậu quả của các quyền năng vô biên của Thượng Đế, vì tôi cho rằng có một điều không xứng đáng với sự thánh thiện và quyền năng của Thượng Đế khi ngài vốn có thể tạo ra các thế giới khác vô biên ngoài thế giới này mà lại phải tạo ra các thế giới hữu hạn. Do đó tôi xin tuyên bố rằng có vô số thế giới đặc thù giống như thế giới của trái đất này mà tôi hiểu giống như Pythagoras, rằng đó là một tinh cầu có bản chất giống như mặt trăng cùng với các hành tinh khác và các ngôi sao khác vốn vô tận; tất cả các thiên thể này đều là các thế giới, vô số chúng cấu tạo thành vũ trụ vô biên trong một không gian vô tận và đây chính là vũ trụ vô hạn trong đó có vô số thế giới sao cho có một loại lưỡng tính là vũ trụ có độ lớn vô biên bao gồm vô số thế giới. Xét theo gián tiếp thì ta có thể hiểu điều này là xa lạ đối với sự thật xét theo đức tin chân chính.

Hơn nữa tôi đặt vào vũ trụ này một sự Thiên hựu trong vũ trụ nhờ đó vạn vật đều sinh trưởng, sinh sôi nảy nở và vận động đạt đến mức hoàn hảo theo hai cách thức mà tôi hiểu: một là theo cách thức mà trọn cả linh hồn đều hiện diện trong toàn thể và mọi bộ phận của cơ thể, tôi gọi đó là thiên nhiên, là hình bóng và vết chân của thiên tính; hai là cách thức khôn tả theo đó Thượng Đế do bản thể của ngài vẫn hiện diện đầy quyền năng trong vạn vật và vượt trên vạn vật, không phải là một bộ phận, không phài là linh hồn mà là theo một cách khôn tả.

“Vả lại tôi hiểu rằng mọi thuộc tính của đấng thiêng liêng đều như nhau. Khi đồng ý với các nhà thần học và các triết gia vĩ đại, tôi cũng lĩnh hội được ba thuộc tính của thiên nhiên là: quyền năng, minh triết và thiện hảo; hoặc nói cho đúng hơn là trí tuệ, trí năng và tình thương; nhờ có nó mà các sự vật trước hết tồn tại thông qua trí tuệ; kế đó tồn tại một cách có trật tự và riêng biệt thông qua trí năng và ba là tồn tại hài hòa và cân xứng thông qua tình thương. Tôi hiểu sự tự tại nơi vạn vật và vượt trên vạn vật là như thế đó, không có điều gì mà tự  tại không tham dự vào, không có được tự tại nếu không có yếu tính, cũng như chẳng có gì là đẹp nếu sự mỹ lệ không có mặt; như vậy chẳng có điều gì mà không có sự hiện diện của đấng thiêng liêng và tôi hiểu đức phân biện nơi thiên tính dựa vào lý trí như thế chứ không theo đó là một sự thật bản thể.

“Khi gả sử rằng thế gian đã được sáng tạo và có nguyên nhân như thế thì tôi hiểu rằng xét theo mọi khía cạnh tồn tại thì nó đều tùy thuộc vào nguyên nhân bản sơ sao cho nó không thể bác bỏ cái tên gọi sáng tạo mà tôi hiểu rằng Aristotle cũng diễn tả như vậy khi nói rằng ‘Thượng Đế là điều mà thế giới và trọn cả thiên nhiên đều tùy thuộc vào đó’; điều này khiến cho theo lời giải thích của thánh Thomas th́ cho dù thế giới là vĩnh hẳng hay tồn tại trong thời gian thì xét theo sự tự tại của nó, thế giới đều tùy thuộc vào nguyên nhân bản sơ và chẳng điều ǵ trên thế giới là độc lập.

“Kế đó, khi xét tới điều thuộc về đức tin chân chính chứ không kể tới triết lý, khi xét tới cá tính của các ngôi Thượng Đế, minh triết và ngôi con của trí tuệ mà các triết gia gọi là trí năng, còn các nhà thần học gọi là Ngôi Lời, thì ta phải tin rằng Ngôi Lời đã được nhập thế bằng xương bằng thịt. Nhưng bản thân tôi trung thành với câu chữ của triết học vẫn không hiểu được điều đó cho nên mới nghi ngờ và lúc thì tin lúc thì không tin; tôi cũng chẳng nhớ mình có tỏ ra bất tín trong khi viết lách hoặc nói năng hay chăng, ngoại trừ chứng tỏ gián tiếp qua những điều khác là một thứ mà ta có thể thu lượm được một cách khéo léo và chuyên nghiệp so với những gì có thể được lý trí chứng tỏ và ánh sáng tự nhiên kết luận. Do đó xét về Chúa Thánh Thần thuộc Ngôi Ba, tôi chẳng tài nào hiểu nổi cũng như tin nổi, nhưng theo cách thức của Pythagoras phù hợp với phương thức của Solomon, tôi hiểu Ngôi Ba là linh hồn của vũ trụ hoặc cặp kè với vũ trụ theo lời nói minh triết của Solomon: ‘Thần khí của Thượng Đế tràn đầy trần thế và chứa đựng vạn vật’, mọi điều này cũng đều phù hợp với học thuyết của Pythagoras mà Virgil giải thích trong bản văn Æneid:

Nguyên thể hư không có đặc trưng là đất trên cái nền chất lỏng,

Bầu mặt trăng soi sáng cho nó đó là Chơn linh của tinh cầu vĩ đại chói sáng bên trong thấm nhuần tất cả qua những khớp nối bằng trí tuệ làm cho toàn khối đều vận động;

và những dòng chữ sau đây.

“Vậy là tôi hiểu theo triết lý của tôi rằng từ tinh thần vốn được gọi là sự sống của vũ trụ mới nảy sinh ra sự sống và linh hồn của vạn vật vốn có sự sống và linh hồn; hơn nữa tôi hiểu rằng nó vốn bất tử xét cả về mặt vật thể cũng như về mặt bản thể, tất cả đều bất tử vì chẳng có sự chết nào khác hơn là sự tan rồi hợp; học thuyết này dường như được diễn tả trong Tuyên ngôn của Giáo sĩ đoàn có nói rằng ‘chẳng có ǵ mới dưới ánh mặt trời; điều đang tồn tại thì đã có sẵn rồi’.”

Hơn nữa, Bruno thú nhận rằng ông không thể hiểu nổi giáo lý về ba Ngôi của Thiên Chúa và ông nghi ngờ việc Thiên Chúa nhập thế nơi Chúa Giê su, nhưng ông lại tin chắc rằng đấng Ki Tô có làm phép lạ. Vốn là một triết gia theo phái Pythagoras, làm thế nào mà ông lại không tin vào điều đó được? Nếu do sự cưỡng chế tàn nhẫn của Tòa án Tôn giáo mà cũng như Galileo, sau này ông phải chịu thề bỏ và hạ mình xin xỏ sự khoan hồng của giới giáo sĩ hành hạ ông, th́ chúng ta nên nhớ rằng ông tuyên bố với tư cách một người chịu cảnh trên đe dưới búa giữa cái dụng cụ tra tấn và bó que sắt; bản chất con người đâu phải lúc nào cũng anh hùng khi cái xác phàm bị suy yếu do tra tấn và tù đày.

Nhưng nhờ có sự xuất hiện đúng lúc tác phẩm đầy thẩm quyền của Berti, chúng ta lại tiếp tục tôn sùng Bruno là một thánh tử vì đạo, tượng bán thân của ông xứng đáng được đặt cao trong đền thờ Chư thần của Khoa học Chính xác mà bàn tay của Draper đã làm đăng quang chiến thắng. Nhưng giờ đây ta thấy vị anh hùng một thời oanh liệt ấy đâu phải là một kẻ vô thần, một kẻ duy vật hoặc một nhà thực chứng, mà chỉ là môn đồ Pythagoras dạy dỗ triết lý của vùng Thượng Á và tự cho rằng có quyền năng của bậc pháp sư mà chính trường phái của Draper rất khinh thường! Chẳng có gì khôi hài hơn cái vụ trắc trở ấy lại xảy ra từ khi pho tượng giả định của thánh Peter lại được các nhà khảo cổ bất kính phát hiện ra là chẳng có ǵ khác hơn tượng thần Jupiter trong đền thờ thần Jupiter và người ta đã chứng minh thỏa đáng rằng Đức Phật đồng nhất với thánh Josaphat của Công giáo.

Thế là ta có lục tìm qua mọi tài liệu lưu trữ của lịch sử thì ta cũng thấy rằng chẳng có mảnh vụn nào của triết học hiện đại – cho dù Newton, của Descartes, của Huxley hoặc của bất kỳ ai khác – đều không được đào lên từ những mỏ ở Đông phương. Ngay cả thuyết Thực chứng và thuyết Hư vô cũng đều có nguyên mẫu nơi phần công truyền của triết lý Kapila (Max Müller đã nhận xét chính xác như thế). Chính sự linh hứng của các bậc hiền triết Ấn Độ đã thâm nhập vào các bí nhiệm của  Bát nhã ba la mật đa (minh triết tuyệt hảo); bàn tay của các ngài đã làm đu đưa cái nôi của bậc tổ tiên sơ khai của đứa con nít yếu đuối nhưng mồm năm miệng mười mà chúng ta đặt tên là khoa học hiện đại.

-----------------------

C̣n tiếp


 [1] (*) Hồi Kư Olcott - ISIS UNVILED: Bộ sách đầu tiên của bà HPB, đă được trích dịch một vài đoạn nhan đề “Thiên Nhiên Huyền Bí”.

[2]  Với Chân Sư bên xứ Tây Tạng.

[3] Hamsa: danh từ ẩn dụ của Huyền Học Ấn Độ, ngụ ư Tinh Thần hay Tiểu Linh Quang. Huyền thoại Ấn Độ cho rằng con hạc có khả năng gạn lọc sữa với nước, ngụ ư Tinh Thần con người vốn Toàn Năng, biết phân biệt Thực Hư, Chân Giả

 

[4] (*) Các nhà Đông Phương hc ưu tú nht đu coi b sách này như mt ngy thư thi c. Tôi chú thích sách y đây ch vi ư đnh din t phương pháp nhp xác mà thôi.

[5] (*) Mt hiu ca Tp Đoàn Tiên Thánh phân b Á Châu.

[[6]] Lightfoot quả quyết với chúng ta rằng Diệu Âm ấy đã được sử dụng từ thời xưa để làm bằng chứng cho cõi trời . “nó quả thật do pháp thuật thực hiện” (quyển ii, trang 128). Người ta thường dùng thuật ngữ pháp thuật để diễn tả theo kiểu ngạo mạn chỉ vì người ta đă và vẫn còn chưa hiểu được nó. Mục đích của tác phẩm này là điều chỉnh lại những ý kiến sai lầm về “pháp thuật”.

[[7]] Chỉ dụ của Giáo hoàng năm 1864

[[8]] Các Mảnh vụn Khoa học

[[9]] Xin cáo lỗi. Vì tác phẩm dày trên 1200 trang, để tranh thủ có được cái thoáng nhìn toàn cảnh tác phẩm đồ sộ này, mỗi chương, chúng tôi chỉ trích tuyển một số đề mục. Sau này chúng tôi sẽ trở lại để hoàn thiện tác phẩm.  

[[10]] Xem Chương cuối của tác phẩm này trang 622.

[[11]] Hồi ức về một cuộc sống bận rộn, trang 147.

[[12]] Henry Ward Beecher.

[[13]] Cocker: “Ki Tô giáo và triết học Hi Lạp”, xi, trang 377.

[[14]] Phúc âm theo thánh Matthew, xiii, 11-13.

[[15]] “Sự buộc tội vô thần, du nhập những thần linh ngoại lai và làm thoái hóa giới thanh niên thành Athens đã được đưa ra chống lại Socrates cũng được biện minh phổ biến cho Plato nhằm che giấu cách thuyết pháp bí hiểm trong học thuyết của ông. Chắc chắn là ngôn ngữ kỳ cục hoặc ‘tiếng lóng’ của các nhà luyện kim đan cũng được dùng với mục đích như thế. Ngục tù, ghế tra tấn và bó roi được Ki Tô hữu sử dụng mà không áy náy lương tâm, nhất là tín đồ Công giáo La Mã chống lại tất cả những người nào thậm chí chỉ giảng dạy khoa học thiên nhiên trái ngược với những thuyết mà Giáo hội chủ trương. Giáo hoàng Gregory vĩ đại thậm chí còn cấm dùng ngữ pháp La tinh v́ coi đó là ngoại đạo. Sự xúc phạm của Socrates bao gồm việc khai thị cho các môn đồ giáo lý bí ẩn liên quan tới chư thần linh vốn được dạy trong các Bí pháp và là một tội lỗi chính yếu. Ông cũng bị Aristophanes tố cáo là đã du nhập vị thần linh mới Dinos vào nước Cộng hòa với vai trò là hóa công và đấng Chúa tể của vũ trụ thái dương. Hệ thống Nhật tâm cũng là một học thuyết của các Bí pháp; do đó khi môn đồ phái Pythagoras là Aristarchus công khai dạy nó thì Cleanthes tuyên bố rằng người Hi Lạp phải yêu cầu ông ấy giải thích và đã kết án ông vì tội chống lại chư thần linh”. (“Plutarch”). Nhưng Socrates chưa bao giờ được điểm đạo vì thế cho nên ông chẳng tiết lộ điều gì vốn đã từng được truyền thụ cho ông.

[[16]] Xem Thomas Taylor: “Các Bí pháp ở Eleusis và Tửu thần”, trang 47. New York: J.W. Bouton, 1875.

[[17]] Cousin: “Lịch sử Triết học”, quyển I; ix.

[[18]] “Số học, Thần học”, trang 62: “Bàn về các con Số của Pythagoras”.

[[19]] Tác phẩm “Parmenid” của Plato, 141 E.

[[20]] Xem Stobœus “Chiết trung Tinh tuyển”, i, 862.

[[21]] Sextus, tác phẩm “Toán học”, vii, 145.

[[22]] “Siêu hình học”, 407, a.3.

[[23]] Phụ lục của tác phẩm “Timæus”

[[24]] Stobœus: “Chiết trung Tinh tuyển”, I, 62.

[[25]]  Krische: “Forsch.”, trang 322, v.v. . . 

[[26]] Clem: “Alex. Stro” v, 590.

[[27]] Plutarch, tác phẩm De Isid, chương 25, trang 360.

[[28]] Tác phẩm Alt. Akademie

[[29]] “Tusc.” V., 18,51.

[[30]] Như trên. Tham chiếu trang 559.

[[31]] Trong tác phẩm “Plato und die Alt Akademie”.

[[32]] Ad. Zeller trong tác phẩm “Philos. Der Griech”.

[[33]] Trong tác phẩm “Plato und die Alt Akademie”.

[[34]] Hình khối 12 mặt là một trong năm hình khối của Hình học.

[[35]] Tên gọi này được dùng theo nghĩa của từ ngữ Hi Lạp

[[36]] Các truyền thuyết của môn đồ Kinh Kabala Đông phương cho rằng khoa học của mình xưa hơn khoa học đó. Các nhà khoa học thời nay có thể nghi ngờ và bác bỏ điều khẳng định ấy nhưng họ không thể chứng minh được là nó sai.

[[37]] Clement ở Alexandria khẳng định rằng vào thời mình các lễ sư Ai Cập có 42 quyển Sách Giáo Luật.

[[38]] Cuộc xung đột giữa “Khoa học và Tôn giáo”, chương 1.

[[39]] Ở một chỗ khác chúng tôi sẽ giải thích khá tỉ mỉ triết lý của Hermes về sự tiến hóa của các tinh cầu và nhiều giống dân trên đó.

[[40]] J. Burges, tác phẩm “Những tác phẩm của Plato”, trang 207, phần chú thích.

[[41]] Rút ra từ bản văn tiếng Bắc phạn của Aitareya Brahmanam, trong bộ Rig Phệ đà, V, chương ii, câu thơ 23.

[[42]] Aitareya Brahmanam, quyển iii, chương v, trang 44.

[[43]] Aitareya Brahmanam, quyển ii, trang 242.

[[44]] Aitareya Brahmanam, quyển iv.

[[45]] Aitareya Brahmanam, quyển iv.

[[46]] Philo Jud. “De Specialibus Legibus”.

[[47]] Zend Avesta, quyển ii, trang 506.

[[48]] Cassian: “Hội thảo”, quyển i, trang 21.

[[49]] “Bàn về Cuộc đời và cái Chết của thánh Moses”, trang 199.

[[50]] Công vụ các Tông đồ, vii, 22.

[[51]] Justin, xxxvi, 2.

[[52]] Molitor: “Triết lý của Lịch sử và Truyền thống”. Bản dịch của Howitt, trang 285.

[[53]] “Xung đột giữa Tôn giáo và Khoa học”, trang 239.

[[54]] Xem “Garette du Midi” và “Thế giới”, số ngày 3 tháng Năm, 1864.

[[55]] Shakespear: “Richard III”

[[56]] Theo sát nghĩa là những kẻ thét lên hoặc tru tréo.

[[57]] Những kẻ dở điên, những tên đần độn.

[[58]] Nhưng trường hợp đó không phải luôn luôn như vậy, vì một số trong đám ăn mày thường xuyên buôn bán có lời về chuyện này.

[[59]] Tác phẩm “Chiêm tinh học” của Pfaff, Berlin.

[[60]] Các Tiểu luận về phẫu thuật Y khoa”

[[61]] “Triết lý Lịch sử”

[[62]] Bàn về Theoph. Paracelsus – Pháp thuật.

[[63]] Trong quyển “Hóa Học Vô Cơ”, Kemshead có nói rằng vào thế kỷ thứ 16, Paracelsus lần đầu tiên nhắc tới nguyên tố hydro, nhưng người ta biết rất ít về nó” (trang 66). Và tại sao lại không thẳng thắn thú nhận ngay rằng Paracelsus là người tái phát hiện ra hydro cũng như ông là người tái phát hiện ra những tính chất ẩn tàng của nam châm và từ khí động vật.  Ta cũng dễ dàng chứng tỏ được rằng tuân theo những lời thệ nguyện giữ bí mật mà mọi môn đồ Hoa hồng Thập tự, (đặc biệt là nhà luyện kim đan) đều trung thành tuân thủ. Ông đã giữ kín kiến thức của mình. Có lẽ bất kỳ nhà hóa học nào am tường về các tác phẩm của Paracelsus đều tỏ ra chẳng khó khăn gì khi chứng tỏ được rằng khí oxy (người ta tin rằng Priestley đã phát hiện ra nó) đã được các nhà luyện kim đan Hoa hồng Thập tự biết rõ giống như khí hydro.

[[64]] “Thư gửi J. Glanvil, cha tuyên úy của quốc vương và hội viên Hội Hoàng Gia”. Glanvil là tác giả của tác phẩm nổi tiếng về Ma hiện hình và Ma quỉ học tựa đề là “Chiến thắng loài phù thủy, tức là bằng chứng trọn vẹn và rành rành về các phù thủy và thuật hiện hình”, bao gồm hai phần, “một phần được chứng tỏ bằng Thánh kinh còn một phần bằng sự tuyển lựa những mối quan hệ hiện đại về sự tồn tại có thật của các sự kiện ma hiện hình, vong linh và phù thủy”, năm 1700.

[[65]] Plato: “Timæus Soerius”, trang 97.

[[66]] Xem “Những lời giải thích” của Movers, trang 268.

[[67]] Cory: “Sấm truyền của người Chaldea”, trang 243.

[[68]] Philo Judæus: “Bàn về sự Sáng tạo”, x.

[[69]] Movers: “Phoinizer”, trang 282.

[[70]] K. O. Müller, trang 263. 

[[71]] Weber: “Akad. Vorles”, trang 213-214 v.v. . . 

[[72]] Plutarch: “Isis và Osiris”, i, vi.

[[73]] “Lịch sử về Vong linh của Con người”, trang 88. 

[[74]] Movers: “Phoinizer”, trang 268.

[[75]] Cory: “Các mảnh vụn”, trang 240.

[[76]] “Parerga”, ii, trang 111-112.

[[77]] Xem Huxley: “Cơ sở Vật lý của Sự Sống”.

[[78]] Xem “Dodone” của Des Mousseaux và tác phẩm “Thượng Đế và chư Thần linh”, trang 326.

[[79]] “Những sự hiện hình” bản dịch của C. Crowe, trang 388, 391, 399.

[[80]] “Bàn về sự tiết dục” v.v. . . 

[[81]] C. Crowe: “Bàn về sự hiện hình”, trang 398.

[[82]] Upham: “Thuật phù thủy ở Salem”.

[[83]] Brierre de Boismont: “Bàn về các Ảo giác”, trang 60.

[[84]] Xem “Những bài giảng về chứng Trung cuồng và Bệnh điên rồ” của Bác sĩ F. R. Marvin.

[[85]] Vapereau: “Tiểu sử Đương đại”, mục Littré; và Des Mousseaux: “Các Hiện tượng nổi bật của Pháp thuật”.

[[86]] A. Comte: “Hệ thống Chính trị Thực chứng”, quyển i, trang 203 v.v. . .

[[87]] Như trên.

[[88]] Như trên.

[[89]] Xem Des Mousseaux: “Các Hiện tượng Nổi bật của Pháp thuật”, chương 6. 

[[90]] Littré: “Tuyên ngôn của Triết lý Thực chứng”.

[[91]] Littré: “Tuyên ngôn của Triết lý Thực chứng”, vii, trang 57.

[[92]] “Thần linh học và Thuật lang băm”.

[[93]] Giáo sư Hare: “Bàn về thuyết Thực chứng”, trang 29.

[[94]] “Tạp chí các cuộc Tranh luận”, năm 1864. Xem thêm “Các Hiện tượng Nổi bật của Pháp thuật” của Des Mousseaux.

[[95]] “Triết lý Thực chứng”, quyển iv, trang 279. 

[[96]] “Bài giảng về chứng Điên rồ” của Bác sĩ F. R. Marvin. 

[[97]] Xem tác phẩm “Lịch sử điều Siêu tự nhiên”, quyển ii, của Howitt.

[[98]] Tác phẩm “Cơ sở Vật lý của Sự Sống” của Giáo sư Huxley.

[[99]] Người ta có ý đề cập tới một thông cáo xuất hiện một thời gian nào đó trong một tờ báo ở New York do ba người ký tên với danh tính như nêu trên và giả sử đó là một ủy ban khoa học được bổ nhiệm hai năm trước để khảo cứu về các hiện tượng tâm linh. Lời phê bình về bộ ba này xuất hiện trong tạp chí “Kỷ nguyên mới”.

[[100]] Tác phẩm “Bài giảng về chứng Điên rồ” của Bác sĩ Marvin, xuất bản ở New York, năm 1875.

[[101]] Tyndall: “Các mảnh vụn Khoa học”.

[[102]] Tyndall: Lời nói đầu của tác phẩm “Các mảnh vụn Khoa học”.

[[103]] Thánh thư đệ nhị luận, chương xvii, trang 6. 

[[104]] Montesquieu: “Tinh hoa Pháp lý I, xii, chương 3.

[[105]] C. B. Warring.

[[106]] Ammianus Marcellinus, xxiii, trang 6.

[[107]] Có 7 đấng Rishis sống vào thời trước thời kỳ kinh Phệ đà. Người ta biết ngài là các bậc hiền triết và tôn sùng các ngài như các vị bán thần linh. Haug chứng tỏ rằng trong Bà la môn giáo các ngài có địa vị tương ứng với địa vị của 12 con trai của Jacob trong thánh kinh Do Thái giáo. Người Bà la môn tự cho mình là dòng dõi trực hệ của các Rishis này.

[[108]] Kinh Phệ đà thứ tư.

[[109]] Phần chính tả của “Tự điển Nguyên sơ”

[[110]] Chúng tôi không ngụ ý nói tới Kinh thánh được chấp nhận cũng như hiện hành, mà là Kinh thánh thật sự của Do Thái giáo được giải thích theo kinh Kabala.

[[111]] “Biện luận về Châu Á”

[[112]] Bác sĩ Gross, trang 195.

[[113]] Brahma không sáng tạo ra trái đất tức Mirtlok, cũng như phần còn lại của vũ trụ. Vì đã được tiến hóa ra từ linh hồn của thế giới, đã từng một lần tách rời khỏi nguyên nhân bản sơ cho đến lượt ngài lại phân thân ra thành trọn cả thiên nhiên. Ngài không vượt trên nó mà hòa nhập vào nó; Brahma và vũ trụ tạo thành một hữu thể duy nhất, mỗi hạt của vũ trụ có bản thể chính là Brahma, ngài tự mình phân thân ra nó. [Burnouf: “Phần dẫn nhập”, trang 118].

[[114]] “Xung đột giữa Tôn giáo và Khoa học”, trang 180.

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS