Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  BOOKS  MAGAZINES

 

HỒI KƯ  H.S. OLCOTT

Bản Dịch Nguyễn Hữu Kiệt

Đánh Máy Như Khuê Tiểu Hoa Nhi 2010

 

CHƯƠNG MỘT

CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN GIỮA HAI NHÀ SÁNG LẬP

  quyển  Hồi  kư’’  này    liên  quan đến  lịch  sử  Hội  Thông  Thiên  Học  Thế  Giới,  nên  tôi  phải  kể  lại  từ  đầu,    tường  thuật  cuộc  gặp  gỡ  giữa  hai  nhà  sang  lập  hội.

Câu  chuyện  cũng  rất  b́nh  thường;  tôi  nói  mở  lời: “Xin    cho  phép,’’    quẹt  một  cây  diêm  cho    hút  thuốc  để  mượn  dịp  làm  quen. Cuộc  gặp  gỡ  của  chúng  tôi  bắt  đầu  bằng  một  làn  khói  thuốc,  nhưng    đă  bùng  cháy  lên  thành  một  ngọn  Lửa  Thiêng  trường  cửu  muôn  đời.Những  sự  việc  đưa  đến  cuộc  gặp  gỡ  này  cũng  khá  ly  kỳ,  như  tôi  sẽ  tŕnh  bày  sau  đây.


        Một  ngày  nọ, vào  tháng  7  năm  1874, ngồi  tại  văn  pḥng  Luật,  tôi  đang  nghiên  cứu  một  vụ  kiện  quan  trọng,  liên  quan  đến  ṭa  Đô  Chính  thành  phố  Nữu  Ước,  tự  nhiên  tôi  lại  nghĩ  rằng  từ  nhiều  năm  nay  tôi  không  chú  ư  đến  phong  trào  Thần  Linh  Học.  tôi  không  hiểu  tại  sao  trí  óc  tôi  lại  liên  tưởng  từ  vụ  kiện  nọ  đến  phong  trào  này.    sao,  tôi  cũng  đă  bước  ra  phố  để  mua  một  tờ  nhật  báo  “Banner  of  Light’’,  trong  đó  tôi  thấy    bài  tường  thuật  về  một  hiện  tượng  hồn  ma  hiện  h́nh  xảy  ra  tại  một  nông  trại    thị  trấn  Chittenden,  thuộc  tiểu  bang  Vermont,  cách  Nữu  Ước  độ  vài  trăm  dặm.  Tôi  liền  nghĩ  rằng  nếu  quả  thật  đúng    người  ta    thể  nh́n  thấy,  sờ  mó,    nói  chuyện  được  với  những  thân  nhân  đă  chết  nhưng  đă  t́m  cách  hiện  nguyên  h́nh  để  tạm  thời  xuất  hiện  trở  lại  thế  gian,  th́  đây    một  sự  kiện  tối  quan  trọng  về  khoa  học  vật    hiện  đại. Tôi bèn  quyết  định  đi  quan  sát  ngay  tại  chỗ.


Tôi
  đến  tận  nơi  xem  xét  các  hiện  tượng,    thấy  rằng  câu  chuyện  quả    thật,  tôi  bèn
 ở  lại  đó  thêm  ba  ngày.  Khi  trở  về  Nữu  Ước,  tôi  viết  một  bài  tường  thuật  những  điều  tôi  đă  nhận  xét  cho  tờ  báo  New  York  Sun.

Bài  báo  của  tôi  được  các  báo  trên  thế  giới  in  lại    phổ  biến  khắp  nơi,    tính  cách  hấp  dẫn    quan  trọng  của  những  việc  đă  xảy  ra.  Kế  đó,  vị  chủ  nhiệm  báo  Daily  Graphic  đề  nghị  vối  tôi  hăy  trở  lại  Chittenden  để  viết  phóng  sự  với  một  họa    cùng  đi  theo  tôi  để  vẽ  h́nh  ảnh,    để  mở  cuộc  điều  tra  quan sát  tường  tận  về  vấn  đề  này.

Việc  ấy  làm  cho  tôi  thích  thú  đến  mức  tôi  phải  thu  xếp  mọi  việc  của  văn  pḥng,    ngày  17  tháng  9  năm  đó  tôi  trở  lại  nông  trại  của  gia  đ́nh  Eddy  một  lần  nữa.  Tôi  lưu  trú  tại  ngôi  nhà    mật  đó  trong  mười  hai  tuần,    hằng  ngày  tôi  đă  thu  nhập  được  những  kinh  nghiệm    cùng  kỳ  dị.  Trong  thời  gian  đó,  tôi  viết  bài  đăng  trên  báo  Daily  Graphic  mỗi  tuần  hai  lần,    kèm  theo  những  bức  vẽ  các  hồn  ma  hiện  h́nh  do  tôi    người  họa  sĩ,  ông  Kappes  đă  nh́n  thấy  tận  cùng  với  độ  bốn  mươi  quan  khách  đến  viếng. Chính  những  bài  tường  thuật  của  tôi  trên  mặt  báo  đă  làm  cho    Blavatsky  đến  Chittenden,    do  đó  chúng  tôi  mới  quen  biết  nhau.

 

Tôi  c̣n  nhớ    cái  ngày  đầu  tiên    chúng  tôi  gặp  nhau  dường  như  chỉ  mới  ngày  hôm  qua.  Đến  bữa  ăn  trưa  tại  nông  trại  Eddy,  tôi    họa    Kappes  vừa  bước  vào  pḥng  ăn  th́  thấy  nơi  bàn  ăn  đă    hai  người  phụ  nữ.  Đó      Blavatsky    một  người  bạn  người  Gia    Đại.  Hôm  ấy    mặc  một  cái  áo  màu  đỏ,  nổi  bật  giữa  những  y  phục  tầm  thường của  người  chung  quanh.  Gương  mặt  vuông,    bề  ngang,  đôi  mắt  tinh  anh  biểu  lộ  một  tinh  thần  cương  dũng,  đầy  hào  khí,  trội  phần  nam  tính  hơn  nữ  tính,  cũng  làm  cho      một  phong  độ,  cốt  cách  khác  thường  so  với  những  gương  mặt  b́nh  dị  của  số  đông  du  khách  đến  viếng.  Những  người  thuộc  đủ  mọi  thành  phần  luôn  luôn  văng  lai  không  ngớt  để  xem  các  hiện  tượng  dị  kỳ.  Đứng  trước  ngưỡng  cửa,  tôi  nói  nhỏ  vào  tai  ông  Kappes:
     “Này,  anh  hăy  nh́n  xem  cái    kia,    lạ  không?’’

Kế  đó,tôi  bèn  đi  thẳng  lại  chỗ  bàn  ăn,  chọn  một  ghế  ngồi  đối  diện  với    để    dịp  thực  tập  về  khoa  tướng  pháp,  như  tôi  vẫn    thói  quen  nh́n  xem  tướng  diện  khi  gặp  những  nhân  vật    tôi  chú  ư.

Hai    khách  lạ  nói  chuyện  với  nhau  bằng  tiếng  Pháp.  Nghe  giọng  nói  sành  âm  điệu    ngôn  ngữ  lưu  loát  trôi  chảy  của  bà,  tôi  đoán  ngay  rằng  nếu    không  phải    một  người  Pháp  chính  cống    Paris,  th́  ít  nhất    cũng  phải    một  học  giả  uyên  thâm  về  môn  pháp  ngữ.

Buổi  ăn  trưa  vừa  xong, hai    bước  ra  ngoài.    Blavatsky  vấn  một  điếu  thuốc  lá,  tôi  bèn  bật  diêm  quẹt  cho    đốt  thuốc  để  lấy  cớ  mở  đầu  câu  chuyện.    tôi  mở  lời  bằng  một  câu  tiếng  Pháp: “Vous permettez,  Madame,’’  nên  chúng  tôi  liền  nói  chuyện  với  nhau  bằng  tiếng  Pháp  luôn.    hỏi  tôi  đến  đây  từ  bao  giờ,    tôi    cảm  tưởng  ra  sao  về  việc  này?    nói  chính    cũng  rất  thích  thú  về  những  hiện  tượng  đó    đă  đến  Chittenden  do  những  bài  báo    đă  đọc  trong  tờ  Daily  Graphic.  Dân  chúng  thích  những  loạt  bài  phóng  sự  đó  đến  nỗi  chỉ  một  giờ  sau  khi  phát  hành,  báo  đă  bán  hết  sạch,      đă  phải  trả  một  đô  la  để  mua  một  tờ  với  giá  chợ  đen.    nói:
  “Tôi  rất  do  dự  trước  khi  đến  đây,    tôi  sợ  sẽ  gặp  Đại    Olcott.’’

Tôi hỏi

“Thưa  Bà,  tại  sao    lại  sợ  gặp  ông  ta?’’

“Bởi    tôi  sợ  ông  ta  sẽ  viết  về  tôi  trên  mặt  báo!’’

Tôi   mới  nói  rằng    hăy  yên  ḷng  về  việc  đó,    tôi  chắc  rằng  Đại    Olcott  sẽ  không  nói    đến    trong  các  bài  báo  nếu    không  muốn  như  vậy.  Tôi bèn tự giới  thiệu.  Ngay  tức  khắc  chúng  tôi  đă  trở  nên  hai  người  bạn  thân.  Mỗi  người  trong  chúng  tôi  đều  cảm  thấy  dường  như  chúng  tôi  vẫn  cùng  chung  một  thành  phần    hội,  thuộc  về  giới  tự  do    tưởng    gần  gũi  với  nhau  hơn  so  với  những  người  khác  trong  nhóm  quan  khách.  Đó    sự  đồng  thanh  đồng  khí  về  phương  diện  tâm  linh,  một  sự  thông  cảm  giữa  hai  linh  hồn,  chứ  không  phải    sự  hấp  dẫn  giữa  nam  nữ  tính.  Kể  từ  lúc  mới  quen  cho  đến  măi  về  sau,  không  một  người  nào  trong  chúng  tôi    cái  ư  nghĩ  rằng  người  bạn  của  ḿnh    người  khác  phái.  Chúng  tôi  chỉ  coi  nhau  như  bạn,    chỉ    thế  thôi,  không  hơn  không  kém.  Thảng  một  đôi  khi  cũng    kẻ  xấu  miệng  nói  rằng  giữa  chúng  tôi  chắc    một  cảm  t́nh  sâu  đậm  hơn,  cũng  như  họ  đă  từng  vu  khống    HPB    t́nh  nhân  của  những  người  đàn  ông  khác,  nhưng  không  một  người  quang  minh  chính  đại  nào    thể  nghĩ  như  thế  sau  khi  đă  được  gần  gũi  quen  biết    một  thời  gian  để    dịp  nhận  xét  tính  chất    tác  phong  đặc  biệt    nữ  tính  của  bà.

Sau  cuộc  gặp  gỡ    làm  quen,  chúng  tôi  nói  chuyện  về  những  hiện  tượng  quái  gở    nông  trại  Eddy      những  xứ  khác.  Tôi  được  biết    đă  từng  đi  du  lịch  nhiều  nơi,  thấy  biết  nhiều  điều    ẩn,  diệu  hiền    nhiều  bậc  danh    trong  giới huyền  môn,  nhưng  lúc  đầu    không  nói    đến  các  Chân    bên  Tây  Tạng    những  quyền  năng  của  bà.

  nói  về  khuynh  hướng  duy  vật  của  phong  trào  Thần  Linh  Học  bên  Mỹ,  vốn  quá  chú  trọng  đến  những  hiện  tượng  vật  chất  hữu  h́nh    không  biết  đến  những  khía  cạnh  triết    siêu  h́nh.      một  phong  độ,    cách  rất  duyên  dáng    hấp  dăn,  những  sự  b́nh  phẩm  chỉ  trích  của    về  người    vật  rất  độc  đáo    linh  hoạt.    t́m  cách  biết  những  ư  nghĩ,  quan  niệm  của  tôi  về  các  vấn  đề  tâm  linh,    lấy  làm  thích  thú    nhận  thấy  rằng  tôi    những    tưởng  phù  hợp  theo  đường  lối  của  Huyền  Môn      vẫn  theo  đuổi.    nói  chuyện  không  phải  với    cách  một  đạo  gia  thấm  nhuần   đạo    Đông  Phương,    với    cách  một  nhà  Thần  Linh  Học  uyên  bác.  Về  phần  tôi,  hồi  ấy  tôi  chưa  biết  hay  hầu  như  không  biết    cả  về  triết  học  Đông  Phương,    lúc  đầu    giữ  im  lặng  không  nói    đến  vấn  đề  ấy.

Những  buổi  họp  đàn  của  William  Eddy,  nhà  đồng  tử  chính  của  gia  đ́nh  này,  diễn  ra  mỗi  đêm   trong  một  gian  pḥng  rộng    trên  lầu.  Ông  William    người  em  trai    Horatia,  đều    những  nông  dân  siêng  năng  cần    làm  việc;  người  em  lo  việc  đồng  áng,  c̣n  người  anh  lo  việc  bếp  núc,  dọn  bữa  ăn  cho  các  quan  khách  hàng  ngày  tấp  nập  đến  từ  khắp  nơi  trong  xứ  Hoa  Kỳ.  Họ    những  nông  dân  nghèo,  thất  học,      nhiều  thành  kiến,  đôi  khi  lại  cau  có,  gắt  gỏng  đối  với  những  du  khách  tự  nhiên  không  mời    đến.  Mỗi  buổi  chiều,  đồng  tử  William  Eddy  ngồi  trong  pḥng  tối  để  đợi  cho  các  hiện  tượng  xảy  ra.  Khi  y  vừa  bước  vào  pḥng,  người  ta  kéo  tấm  màn  che  qua  một  bên,  th́  từ  bên  trong  bước  ra  một  bóng  ma  hiện  h́nh  một  người  đàn  ông,  đàn    hoặc  trẻ  con,  coi  như  một  pho  tượng  biết  cử  động,  tạm  thời  đông  đặc    chắc  nịch,  nhưng  trong  giây  phút  liền  tan  biến  mất  dạng  trước  mắt  của  mọi  người.

Trước  ngày    Blavatsky  đến  đây , những  bóng  ma  hiện  h́nh  đều    những  người  Da  Đỏ,  người  Mỹ  hay  người  Âu,  họ  hàng  thân  thuộc  của  những  khach  đến  viếng.  Nhưng  kể  từ  buổi  đầu  tiên  khi    vừa  đến,  th́  những  bóng  ma  thuộc  những  quốc  tịch  khác  đă  xuất  hiện  trước  mắt  chúng  tôi.  Trong  số  đó,    một  thanh  niên  người  xứ  Causase;  một  người  lái  buôn  Hồi  Giáo    Tiflis;  một    thôn  nữ  Nga,    những  h́nh  bóng  khác.  Tối  hôm  nọ ,  hiện  h́nh  một  người  kỵ    Thổ  Nhĩ  Kỳ  đeo  gương  cong,  súng  đoản    cầm  giáo  dài;  một  nhà  phù  thủy  Phi  Châu  h́nh  thù  dị  hợm,  gớm  ghiếc,  đầu  đội    miện  cắm  bốn  cái  sừng      gắn  lục  lạc  đồng;    một  người  Âu  ḍng  quư  tộc  mặc  triều  phục  với  phù  hiệu  Nữ  Thánh  Anna,      Blavatsky  nhận  ra    người  chú  của  bà.

Sự  hiện  h́nh  của  những  vong  linh  ấy  trong  pḥng  họp  đàn  của  những  người  nông  dân  nhèo    thất  học,  không  hề    đủ  tiền  bạc   để  mua  sắm  những  đồ  y  trang  sân  khấu,  cũng  không    sự  hiểu  biết,  kinh  nghiệm  để  sử  dụng  những  thứ  y  trang  đó  dẫu  cho  họ    thể  sắm  được,    một  bằng  chứng    rệt  trước  mắt  ngưới  đi  xem,  rằng  những  hiện  tượng  ấy      thật,  đồng  thời,  những  buổi  họp  đàn  này  cho  thấy  rằng  sự    mặt  của    Blavatsky  toát  ra  một  sức  hấp  dẫn  lạ  lùng  làm  cho  những  nhân  vật  kỳ  lạ  xuất  hiện  từ  cơi  giới    h́nh.  Măi  rất  lâu  về  sau,  tôi  mới  được  cho  biết  rằng    đă  sử  dụng  quyền  năng  phương  thuật  sai  khiến  tinh  linh  ngũ  hành  để  tạo  nên  những  hiện  tượng  đó.

Trong  thời  gian    Chittenden,    Blavatsky    kể  cho  tôi  nghe  nhiều  chuyện  vế  cuộc  đời    văng  của  bà, trong      việc    đă  từng  gia  nhập  nhóm  phụ  nữ  chí  nguyện  tùng  chinh  theo  Garibaldi [1] trong  trận  đánh  lưu  huyết    Mentana[2] .

Để  chứng  minh  chuyện  này,    cho  tôi  xem  cánh  tay  trái  của    bị  những  vết  gươm  chém  gẫy  xương    hai  chỗ,  vai  bên  hữu    một  viên  đạn  vẫn  c̣n  nằm  nguyên  trong  thớ  thịt,    một  viên  đạn  nữa  trong  bắp  chân.    cũng  chỉ  cho  tôi  xem  một  cái  thẹo  ngay  phía  dưới  trái  tim,  do  một  nhát  đâm  bằng    khí  nhọn.  Vết  thương  này  hơi  nứt  ra  một  ít  trong  khi      tại  Chitenden    sở      cho  tôi  xem    để  hỏi  ư  kiến  tôi  về  cách  chữa  trị  sao  cho  mau  lành.    c̣n  kể  cho  tôi  nghe  nhiều  chuyện  phiêu  lưu  mạo  hiểm  đầy  thú  vị  khác  nữa,  trong  số  đó    chuyện  nhà  phù  thủy  Phi  Châu  đội    cắm  sừng      gấn  lục  lạc  đồng,      đă  từng  gặp  khi  ông  ta  trổ  tài  nghệ    miền  thượng  du  Ai  Cập  đă  nhiều  năm  về  trước.

  Blavatsky  cố  gắng  giải  thích  cho  tôi  hiểu  rằng  những  hiện  tượng  vừa  kể  không  phải    bằng  chứng  về  sự  kiểm  chế  đồng  tử  bởi  các  vong  linh  người  chết.    nói  rằng  nếu  những  hiện  tượng  đó    thật,  th́  đó  phải    cái  Thể  Vía  của  người  đồng  tử  xuất  ra  ngoài  thể  xác    khoác  lấy  mọi  h́nh  thể  đa  h́nh  đa  dạng,  nhưng  tôi  không  tin  như  thế.  Tôi    luận  rằng  những  h́nh  bóng  xuất  hiện  ra  đó  thật  khác  biệt  nhau  quá  xa  về  vóc  hạc,  bề  cao,  tác  phong    dáng  điệu,  để    thể  nói  đó    cái  Thể  Vía  người  đồng  tử,    như  vậy  đó  phải    những  vong  linh  người  chết  hiện  h́nh  thật  sự  như  mọi  người  đều  thấy.  Sự  tranh  luận  của  chúng  tôi  đôi  khi  rất  sôi  nổi,    hồi  đó,  tôi  chưa  được  biết  nhiều  về  tính  chất  co  giăn  của  Thể  Vía  con  người  để  nhận  thấy    luận  điệu  chính  xác  của  bà,c̣n  về    thuyết  Ảo  Ảnh  Ảo  Giác  (Maya)  của  phương  Đông,  th́  hồi  đó  tôi  không  biết    cả.  Tuy  nhiên,  nhờ  vậy      mới  biết    bản  chất  của  tôi    không  chấp  nhận  bất  cứ  điều    nếu  chỉ  căn  cứ   trên  niềm  tin    không    đủ    do  vững  chắc.  Chúng  tôi  càng  hiểu  nhau  hơn  với  thời  gian  qua,    đến  lúc  chia  tay,  chúng  tôi  tạm  biệt  nhau  như  hai  người  bạn  tốt  sẵn  sang  tiếp  tục  t́nh  quen  biết  thân  hữu  đă  bắt  đầu  một  cách  vui  vẻ  tốt  đẹp  trong  những  ngày  vừa  qua.

 

II

 

Tháng  11 năm 1874, sau  khi  đă  hoàn  tất  cuộc  khảo  sát  về  những  hiện  tượng  thần  linh    nông  trại  Eddy,  tôi  trở  về  New  York    đến  viếng    Blavatsky  tại  địa  chỉ      đă  cho  tôi  trước  khi  chia  tay  tạm  biệt.  Tại  đây,    đă  biểu  diễn  cho  tơi  xem  vài  hiện  tượng    bút,    nhịp,  xoay  bàn,  phần  nhiều    do  tác  động  của  một  vong  linh  khuất  mặt  tự  xưng  danh    ‘’Jonh  King’’.

Đó    một  cái  tên  quen  thuộc  đối  với  những  người  thường  đi  tham  dự  những  buổi  họp  đàn  hồi  giữa  thế  kỷ  trước     khắp  nơi  trên  thế  giới.  Vong  linh  ấy  tự  giới  thiệu    vong  hồn  của  Sir  Henry  Mogan,  một  nhà  hiệp    kiêm  hải  tặc  sống  bên  Anh  Quốc  cách  đây  vài  thế  kỷ.  Y  đă  hiện  h́nh  một  phần  cho  tôi  xem  mặt    đầu    quấn  khăn,  trong  khi  tôi  xúc  tiến  một  cuộc  điều  tra  về  những  đồng  tử  Holmes    Philadelphia  cùng  với    Blavatsky    vài  nhân  vật  khác  ít  lâu  sau  đó.  Y    một  lối  viết  dị  kỳ,    sử  dụng  lối  văn  Anh  cổ  xưa  cũng  rất  lạ.  Hồi  đó,  tôi  không  tin  chắc  đó    Jonh  King  thật,    mọi  sự  đă  được  chứng  minh    ràng  về  thành  tích    con  người  của  y.  Nhưng  bây  giờ,  sau  khi  đă  thấy    quyền  năng  của    Blavatsky  trong  việc  tạo  nên  ảo  giác    sai  khiến  âm  binh,  tôi  mới  biết  rằng “John  King’’  chỉ    một  tinh  linh  mạo  danh    phỉnh  lừa,      sử  dụng  như  một  h́nh  nộm  để  sai  khiến    dung  làm  một  khí  cụ  để  chỉ  dẫn  cho  tôi  học  hỏi  thêm  về  khoa  Huyền  Môn.  Nói  tóm  lại,  các  hiện  tượng  đều    thật,  nhưng  không  phải  do  một  vong  linh  người  chết  thực  hiện,    chỉ    do  sự  trợ  giúp  của  một  tinh  linh  ngũ  hành[3] .

  vẫn  duy  tŕ  cái  ảo  tưởng  đó  đối  với  tôi  trong  vài  tháng,    tôi  đă  chứng  kiến  nhiều  hiện  tượng  huyền  linh  khác  mệnh  danh    do  tác  động  cùa  John  King,  chẳng  hạn  như  toàn  bộ  một  loạt  các  hiện  tượng  biểu  diễn  tại    gia  của  các  đồng  tử  Holmes    của  chính    HPB  như  đă  kể  trên.  Trước  hết  y    một    tính  riêng  biệt  tên  J. King,  kế  đó  y    John  King  thư  tín  viên    thừa  sai  của  các  Chân    c̣n  sống  trên  thế  gian,    sau  cùng,  đó  chỉ    một  tinh  linh  do    HPB  sử  dụng  để  làm  các  phép  thuật  lạ  kỳ.

Không  ai  phủ  nhận  rằng  trong  thời  gian  đầu  tiên    Mỹ,    HPB  tự  xưng    một  nhà  Thần  Linh  Học,  nhiệt  liệt  bênh  vực  khoa  Thần  Linh  Học    các  đồng  tử  chống  lại  những  kẻ  đả  kích  gồm  các  giới  độc  giả  nông  cạn,  nửa  mùa.  Những  thư  từ    bài  vở  của    đăng  trên  các  báo  chí  Anh    Mỹ    chứa  đựng  nhiều  bằng  chứng  về  việc  ấy.  Trong  một  bức  thư  gởi  đăng  trên  tạp  chí  Spiriualist  ngày  13  tháng  12  năm  1874,    viết  như  sau:

“Như  t́nh  trạng  hiện  nay,  tôi  chỉ    làm  việc  bổn  phận,  trước  hết  đối  với  khoa  Thần  Linh  Học,    tôi  bênh  vực  đến  mức  tối  đa  chống  lại  những  đ̣n  công  kích xuyên tạc  của  các  giới  thiển  cận  đội  lốt  khoa  học;    kế  đó  đối  với  hai  nhà  đồng  tử    thế  bị  vu  khống…

Nhưng  tôi  phải  thú  nhận  rằng  thật  sự  tôi  không  tin    ḿnh  đă  giúp  ích  được    cho  khoa  Thần  Linh  Học…  Tôi  cảm  thấy  một  nỗi  buồn  thấm  thía    nh́n  nhận  điều  ấy,    tôi  bắt  đầu  nghĩ  rằng    thật      phương  cứu  văn.  Tôi  đă  chiến  đấu  cho  chân  lư từ  trên  mười  lăm  năm  nay;    mục  đích  sưu  tầm    phổ  biến  chân  lư,  tôi  đă  đi  ngao  du  sơn  thủy  từ  các  vùng  núi  non  tuyết  phủ  của  xứ  Caucase  đến  những  vùng  đồng  cát    lưu  vực  sông  Nil.    mục  đích  đó,  tôi  đă  rời  khỏi  gia  đ́nh,  từ  bỏ  cuộc  đời  ấm  êm  nhung  lụa  trong  một    hội  văn  minh  để  đi  ta    khắp  nơi  trên  mặt  Trái  Đất, v.v…

“Hai  nhà  đồng  tử    thế’’      nói  trong  thư  tức    hai  ông    Holmes,    tôi  vẫn  đánh  giá  rất  thấp  về  hạnh  kiểm  cũng  như  về  thành  tích  bất  hảo.  tuy  nhiên,  trước  sự    mặt  của    Blavatsky,    dưới  những  điều  kiện  thử  thách  gắt  gao  do  tôi  thực  hiện  tại  nhà  ông    Holmes,  tôi  đă  chứng  kiến  tận  mắt  một  loạt  những  hiện  tượng  đồng  tử  thỏa  đáng    chân  thật  nhất  không  thể  chối  căi.  Hồi  đó,  tôi  đă  ngờ  rằng  cái  quyền  năng  tạo  ra  những  hiện  tượng  đó    của    HPH,  chứ  nếu  chỉ    hai  ông    Holmes,  th́    lẽ  tôi  đă  thấy  những  tṛ  giả  mạo,  hoặc    không    ǵ.  Bây  giờ,  lục  soát  lại  những  tài  liệu  cũ,  tôi  t́m  thấy  bản  văn  kiện  sau  đây  do  chính  tay    viết    hiển  nhiên    với  ư  định  sẽ  được  công  bố  sau  khi    từ  trần:

THÔNG ĐIỆP  QUAN  TRỌNG

Tôi  rất  tiếc    nói  rằng  tôi  phải  đứng  về  phe  các  nhà  Thần  Linh  Học  trong  vụ  tố  giác  hai  nhà  dồng  tử  Holmes.  Tôi  phải  cứu  văn  t́nh  thế,    tôi  được  biệt  phái  từ  Paris  sang  Mỹ  để  chứng  minh  sự  thật  của  những  hiện  tượng  thông  linh,    vạch    sự  sai  lầm  của  giả  thuyết  cho  rằng  tất  cả  những  hiện  tượng  thông  linh  chỉ    do  tác  động  của  vong  hồn  người  chết.  Nhưng tôi có thể làm    tốt  nhất?  Tôi  không  muốn  cho  người  ta  biết  rằng  tôi    thể  tạo  ra  các  hiện  tượng  tùy  ư  muốn.  Tôi  được  lịnh  phải  làm  trái  lại,  tuy  nhiên  tôi  phải  duy  tŕ  đức  tin  nơi  các  hiện  tượng  đó  trong  ḷng  của  những  người  từ  óc  duy  vật để  trở  thành  duy  linh,  nhưng  nay      sự  tố  giác  nhiều  nhà  đồng  tử,  nên  họ  đă  quay  trở  về  với  thái  độ  hoài  nghi  của  họ  trước  kia.

Bởi  vậy,  tôi  đă  chọn  lựa  vài  tín  hữu  cùng  đi  với  tôi  đến  nhà  ông    Holmes,    vối  sự  trợ  giúp  của  Chân    M.    quyền  năng  của  ngài,  tôi  đă  làm  cho  những  tinh  linh  John  King    Katie  King  xuất  hiện  từ  cơi    h́nh,  tạo  nên  những  hiện  tượng “hiện  h́nh’’, và  làm  cho  các  giới  thông  linh    khắp  nơi  tưởng  rằng  đó    do  khả  năng  đồng  tử  của    Holmes  tạo  nên.    này  đă  trải  qua  một  cơn  hoảng  sợ  khủng  khiếp, v́    biết  rằng  lần  này  các  vong  linh  đă  hiện  h́nh  thật  sự!

Tôi đă làm đúng hay sai?  Thế  gian  chưa  đủ  chuẩn  bị để  hiểu    triết    của  khoa  Huyền  Môn; trước hết họ hăy nhận định rằng có những sinh vật trong cơi giới vô h́nh, dù đó là tinh linh ngũ hành hay vong linh người chết; và con người có những quyền năng  ẩn  tang  khả    làm  cho  họ  trở  thành  một  đấng  thần  tiên  bất  tử.

Sau  khi  tôi  qua  đời,    lẽ  người  ta  sẽ  nhận  thức  tấm  ḷng      của  tôi.  Tôi  đă  phát  nguyện  nêu  cao  Chân    để  giúp  đỡ  người  đời  trên  đường  t́m  đạo,    tôi  sẽ  giữ  vẹn  lời  nguyền.  Mặc  cho  người  thế  gian  vu  khống    phỉ  bang  tôi,  họ    thể  gọi  tôi    đồng  bóng,  phù  thủy,  bịp  bợm,  hay      tùy  ư.  Một  ngày  kia, hậu  thế  sẽ    dịp  biết    tôi  hơn.  “Ôi!  Thế  gian  đau  khổ    tội  lỗi,  tôi  biết  làm  sao  hơn!’’

Toàn  thể  vấn  đề  đă  được  giải  bày  một  cách    ràng:  khoa  Pháp  Môn      được  lịnh  đem  truyền    sang  Mỹ  để  thay  thế  khoa  Thần  Linh  Học  Tây  Phương  vốn  nặng  nề  phần  hiện  tượng    bút,    khoa  Huyền  Môn  của  Đông  Phương  tức    nền  Minh  Triết  Thiêng  liêng  hay  Brahma  Vidya.    Tây  Phương  chưa  sẵn  sang  chấp  nhận  khoa  này,  nên  công  việc  đầu  tiên  được  giao  phó  cho      bênh  vực  sự  thật  về  các  hiện  tượng  thông  linh  chống  lại  những  thành  kiến  của  khoa  học  duy  vật    các   giới  liên  hệ.  Vấn  đề  cần  thiết  duy  nhất  của  thời  đại    chặn  đứng  đánh  đổ  óc  hoài  nghi  duy  vật    củng  cố  nền  tảng  tâm  linh  của  mọi  sinh  hoạt  tinh  thần.  Bởi  vậy,  khi  bước  vào  ṿng  chiến,    đứng  về  phe  các  nhà  Thần  Linh  Học  Mỹ,    tạm  thời  hăy  cất  ngọn  cờ  duy  linh    nêu  cao  một    tưởng  chung  với  họ.  Phải,  hậu  thế  sẽ  xét  đoán    một  cách  công  b́nh.

 

III

Tôi  c̣n  nhớ    phép  thuật  đầu  tiên      đă  làm  bằng  cách  sử  dụng  ư  chí,  ngay  sau  khi    bắt  đầu  viết  bộ  sách “Vén  Màn  Isis [4]’’.  Trong  số  những  quan  khách  đến  viếng  nhà  bà,    một  nghệ    người  Ư,  tạm  gọi    ông  B (Signor B).  Tôi  đang  ngồi  với    nơi  pḥng  khách  th́  ông  B. đến viếng.  Trong  câu  chuyện  trao  đổi  qua  lại  về  các  vấn  đề  của  nước  Ư,  th́nh  ĺnh  y  thốt  ra  tên  của  một  vị  Chân    trong  số  những  đấng  Cao  Cả  nhất.    HPB  giật  ḿnh  dường  như  bị  điện  giật,  nh́n  thẳng  vào  đôi  mắt  người  khách  lạ    nói  bằng  tiếng  Ư:

“Có việc ǵ vậy?  Tôi sẵn sàng.’’

Người kia  thản  nhiên  nói  qua  chuyện  khác, và  thảo  luận  về  các  vấn  đề  Phương  Thuật,  các  nhà  Thuật      các  đấng  Chân  Sư.

Khi ấy, ông B.  đứng dậy  mở  cửa  sổ, đưa  tay  khoát  vài  cái  trên  không  khí  bên  ngoài,  th́  một  con  bướm  trắng  liền  bay  vào  pḥng    bay  lượn  trên  trần  nhà.  Bà HPB cười thoải  mái  vui  vẻ    nói:

“Khá đấy, nhưng tôi cũng làm  được  như  vậy!’’

  cũng  đến  chỗ  cửa  sổ,  khoát  tay  vài  cái  tương  tự,  th́  một  con  bướm  trắng  thứ  nh́  cũng  liền  bay  vào  pḥng.    bay  lên  trần  nhà,  đuổi  theo  con  bướm  kia  khắp  chung  quanh  pḥng,  thỉnh  thoảng  hai  con  bướm  lại  đùa  giỡn  với  nhau,  rồi  cùng  bay  đến  một  góc  pḥng  th́  cả  hai  đều  biến  mất  ngay  trước  mắt  chúng  tôi.

Tôi hỏi việc ấy nghĩa là thế   nào, th́ bà đáp:

“Nó có nghĩa là ông B. có  thể  làm  cho  một  tinh  linh  biến  thành  một  con  bướm,    tôi  cũng    thể  làm  y  như  vậy. Chỉ có thế thôi.’’

Th́  ra,  hai  con  bướm  chỉ    những  vật  giả  tạo  chứ  vốn  không    thật.

Tôi  cũng  nhớ  những  hiện  tượng  thần  thông  khác  của  bà,  do  việc  sử  dụng  khả  năng  sai  khiến  âm  binh.  Một  đêm  nọ  chúng  tôi  làm  việc  soạn  quyển  sách  của    măi  đến  khuya.  Bữa  cơm  chiều  hôm  đó,  tôi  đă  ăn  vài  món  mặn,  nên  lúc  một  giờ  khuya  cảm  thấy  rất  khát  nước,  tôi  nói:

“ Chà! Bây  giờ  nếu    một  chum  nho  tươi    ăn  th́  hay  quá,  hả?

“ À, phải đấy.  Ta hăy ăn nho đi.’’

“Nhưng  các  tiệm  đă  đóng  cửa  từ  lâu,  làm  sao  mua  được  vào  giờ  này?

Không sao.  Chúng ta vẫn có nho ăn như  thường’’

“Làm sao có, và lấy đâu ra?’’

“Rồi ông sẽ thấy. Bây giờ ông hăy vặn bấc đèn thấp xuống.’’

Tôi  vặn  thấp  ngọn  đèn  hơi,  nhưng  lỡ  tay  vặn  quá  trớn  làm  đèn  tắt.  Bà nói:

“Ông  không  cần  làm  vậy.Tôi  chỉ  muốn  ông  vặn  nhỏ  lại  thôi!  Ông hăy thắp lại  đi.’’

Tôi  thắp  đèn  sáng  trở  lại    hạ  bấc  đèn  thấp  xuống  chỉ  c̣n  ánh  sang  lờ  mờ.  Bà kêu lên:

“Kia ḱa!  Ông hăy  nh́n  xem!’’

  đưa  tay  chỉ  cái  kệ  đựng  sách  trên  vách  trước  mặt  chúng  tôi.  Tôi    cùng  ngạc  nhiên    thấy  treo  lủng  lẳng  nơi  hai  đầu  cái  kệ    hai  chum  nho  tươi  lớn,  loại  nho  đen    chin,    chúng  tôi  lấy  xuống  ăn.  Tôi  hỏi    đă  dung  phương  pháp  nào,  th́    nói  đó    do  tác  động  của  vài  loại  tinh  linh  dưới  quền  sai  khiến  của  bà.

Về  sau,    đă    dịp  tái  diễn  phép  thuật  ấy  hai  lần  khác  nữa  để  đem  trái  cây  về  cho chúng  tôi  ăn  giải  khát  giữa  đêm  khuya  trong  khi  chúng  tôi  soạn  bộ  sách “Vén  Màn  Isis.’’

 

IV


           Lần  lần,  Bavatsky  nói  cho  tôi  biết  về  sự  hiện  diện  của  các  Chân    cùng  những  quyền  năng  của  các  ngài,    bằng    số  các  hiện  tượng  huyền  linh,    cho  tôi  thấy  bằng  chứng  về  quyền  năng  của    đối  với  những  mănh  lực  huyền    trong  thiên  nhiên.  Trước  hết,  như  đă nói    trên,    gán  cho  âm  bing  “John  King”  vai  tṛ  tác  động  nên  các  hiện  tượng  ấy,    chính  nhờ  sự  trợ  giúp  của  y    lần  đầu  tiên  tôi  được  tiếp  xúc  bằng  thư  từ  với  các  Chân  Sư.  Tôi  đă  ǵn  giữ  nhiều  bức  thư  cũa  các  ngài,    ghi    ngày  tháng  nhận  được  những  bức  thư  ấy.


        Trong  nhiều  năm,  cho  đến  ngày  tôi  rời  Nữu  Ước  để  sang  Ấn  Độ,  tôi  được  kết  nạp  vào  hang  đệ  tử  đặt  dưới  quyền  chỉ  đạo  của  phân  bộ  Phi  Châu  trong  QUẦN  TIÊN  HỘI.  Về  sau,  khi    HPB    một  sự  biến  đổi  huyền  diệu  về  tâm  linh    thể  chất mà  tôi  không  tiện  nói  ra,    cho  đến  nay  vẫn  không  ai  ngờ  mặc    họ  được  đối  xử  thân  mật    hoàn  toàn  tin  cẩn  của  bà ( như  họ  vẫn  tưởng ),  tôi  được  thuyên  chuyển  sang  phân  chi  Ấn  Độ,  dưới  sự  chăm  sóc  điều  hành  của  một  nhóm Chân sư khác.


         Từ  bao  giờ,  khắp  trên  thế  giới luôn  luôn  vẫn    một  tổ  chức    đại  gồm  một  TẬP  ĐOÀN  TIÊN  THÁNH  chăm  lo  d́u  dắt  sự  tiến  hóa  của  nhân  loại.  Tổ  chức  ấy  dược  chia  làm  nhiều  phân  chi  tùy  theo  những  nhu  cầu của  nhân  loại  trong  những  giai đoạn  tuần  tự  tiến  hóa  khác  nhau.  Trong  một  thế  hệ,  trung  tâm  điều  hành  của  TẬP  ĐOÀN  TIÊN  THÁNH,  tức  QUẦN  TIÊN  HỘI,  được  đặt    một  nơi  nhất  định;  vào  một  thế  hệ  khác,  trung  tâm  ấy  lại  được  đặt    một  nơi  khác.  Tuy    h́nh    ảnh  nhưng  cần  thiết  cho  sự  tiến  bộ  tâm  linh  của  nhân  loại,  quyền  năng  phối  hợp  của  TẬP  ĐOÀN  TIÊN  THÁNH  được  duy  tŕ  từ  thế  hệ  này  sang  thế  hệ  khác  để  trợ  giúp  người  hành  giả  chiến  đấu  không  ngừng  trên  con  đường  Đạo  xa  xôi  diệu  vợi  đưa  đến  Chân    thiêng  liêng. Kẻ  hoài  nghi  phủ  nhận  sự  hiện  diện  của  các  đấng  Tiên  Thánh  bởi    họ  không  nh́n  thấy  hay  nói  chuyện  với  các  ngài,  cũng  không  hề  thấy  lịch  sử  nói  về  sự  can  thiệp  hữu  vi  của  các  ngài  trong  những  biến  cố  của  các  quốc  gia.  Nhưng  sự  hiện  diện  của  các  ngài  đă  được  nh́n  nhận  bởi  hang  ngh́n  những  bậc  đạo  gia  chân  tu  của  nhiều  thế  hệ  lien  tục,  đă  giải  thoát  khỏi  sự  ô  nhiễm  của  cuộc  đời  thế  gian  để  bước  vào  cơi  giới  tâm  linh  huyền  diệu.  Trong  nhiều  thời  kỳ,  các  ngài  đă  từng  giao  tiếp  thân  mật  với  những  người  chỉ  nguyện    thân  cầu  Đạo,  hoặc  dành  trọn  cuộc  đời  phụng  sự  hiến  dâng  để  đem  lại  hạnh  phúc    t́nh  thương  trong  muôn  loài.
         Vài  người  trong  số  đó,  rất  mực  khiêm  tốn    bề  ngoài    vẻ  kém  hèn  như  chúng  tôi    những  người  lănh  đạo  phong  trào  THÔNG  THIÊN  HỌC,  đă    diễm  phúc  được  sự  ưu  ái    chỉ  giáo  của  các  ngài.  Vài  người  như    Blavatsky      đệ  Damodar  đă  được  nh́n  thấy  ngài  trong  những  cơn  linh  ảnh  từ  khi  c̣n  nhỏ.  Những  người  khác  đă  gặp  các  ngài  dưới  những  h́nh  dáng  ngụy  trang  lạ  lùng    những  nơi  thật  bất  ngờ.  Tôi  được    Blatsky  giới  thiệu  cho  các  ngài  xuyên  qua  nhân  vật  trung  gian  quen  thuộc  trong  những  kinh  nghiệm  trước  đây:  đó    vong  linh  mệnh  danh “John  King”.  Y  giúp  tôi  giao  tiếp  bằng  phương  tiện    Vi  với  bốn  vị  Chân  Sư,  trong  số  đó    một  vị  Chân    Ai  Cập,  một  vị    đại  diện  của  môn  phái  Alexandrie,  một  vị    Chân    Venitien,    một    hậu  thân  của  một  triết  gia  người  Anh,  tuy  đă  qua  đời  nhưng  vốn  bất  tử.


       Chân    Serapis (Ai  Cập)    vị    Phụ  đầu  tiên  của  tôi,  ngài    một  tác  phong  hào  hung  dũng  cảm    đầy  vẻ  cương  nghị  của  một  người  trội  hẳn  phần  nam  tính.


        Về  sau,  tôi  được  các  Chân  Sư cho  biết  rằng    Blavatsky    một  đệ  tử  trung  kiên  của  các  ngài,  tuy  rằng      những  tính  chất  bất  thường,  làm  cho    khó  dung  ḥa  được  với  vài  vị  Chân    để    thể  làm  việc  chung  với  các  ngài.  Điều  này  không  lạ    khi  ta  biết  rằng  mỗi  người  đều  tiến  hóa  theo  một  Cung  nhất  định  trong  Thiên  Cơ.  Họ    sự  ḥa  hợp  tâm  linh  với  những  linh  hồn  đồng  Cung  với  ḿnh,      thể  đối  nghịch  với  những  linh  hồn  thuộc  về  một  Cung  khác  khi  khoác  lấy  xác  phàm  để  hoạt  động  trên  cơi  hồng  trần  hạ  giới.  Đó    lẽ    cái    do  căn  bản  của  mọi  sự  ḥa  hợp  hay  xung  khắc  giữa  người  nọ  với  người  kia  trên  thế  gian.


           sao,  vài  vị  Chân    không  thể  làm  việc  chung  với    Blavatsky.    chỉ  hợp  tác  được  với  những  vị  khác,    tôi    liên  hệ  mật  thiết  trong  những  năm  đầu  của  phong  trào  Thông  Thiên  Học  thế  giới.


          Trong  những  chuyện  tâm  sự  với  nhau  khi  tôi  đă  đi  khá  sâu  vào  vấn  đề  để  biết  về  QUẦN  TIÊN  HỘI    mối  liên  hệ  của    với    quan  ấy,    HPB  (  tên  viết  tắt  của    Blavatsky )[5]  nói  cho  tôi  biết  rằng    đă  đến  Paris  từ  năm  trước ( 1873)  với  ư  định    lại  đó  ít  lâu  dưới  sự  bảo  trợ  của  một  người  thân  quyến,  nhưng  một  ngày  nọ    nhận  được  mật  lệnh  của  Chân    truyền  cho    phải  đi  ngay  sang  New  York  để  chờ  lệnh  mới.


         Qua  ngày  hôm  sau,    liền  vượt  biển  trùng  dương  với  chỉ  vừa  đủ  số  tiền  để  mua    tàu.    viết  thư  cho  cha    bên  Nga  yêu  cầu  ông  gửi  tiền  cho    qua  Lănh  Sự  Quán  Nga    New  York,  nhưng    phải  chờ  đợi  một  thời  gian,      viên  Lănh  Sự  Nga  từ  chối  không  cho    mượn  trước,  nên    phải  t́m  việc  làm  để  sống  qua  ngày.      tại  trong  những  khu  phố  nghèo  nàn  nhất    khu  Madison  của  thành  phố  New  York,    sống  bằng  nghề  may  thuê    mướn  cho  một  lăo  chủ  tiệm  tạp   hóa  người  Do  Thái  rất  tốt  bụng.    luôn   luôn  nhắc  đến  người  này  với  một  ḷng  biết  ơn.    sống  như  vậy  lây  lất  qua  ngày,  nhưng  vẫn  chưa  nhận  được  tin      tương  lai  hoàn  toàn  mờ  mịt.  Nhưng  năm  sau,  tháng  10  năm  1874,    được  mật  lệnh  đi  đến  Chittenden  để  gặp  một  người  đồng  môn  sẽ  cùng  cộng  tác  với    trong  một  công  việc    đại  trong  tương  lai:  người  ấy,  ai  ngờ  chính  lại  là…  tôi.  Những  bạn    thân  hữu  của    đều  nhớ    câu  chuyện      đă  kể  cho  họ  nghe  về  sự  lên  đường  ra  đi  bất  ngờ  của    từ  Paris  sang  New  York  theo  mật  lệnh  của  Chân  Sư.  Nhưng  những  người  bạn  thân  ấy  chỉ  nghe    kể  lại  măi  về  sau    thôi,    những  kẻ  thù  nghịch  với      thể  nói  rằng  đó  chỉ    một  việc      mới  nghĩ  ra  sau  này,  một  chuyện  giả  dối  được  bịa  đặt  ra  để  cho  ăn  khớp  với  cái  tṛ  đùa  ngộ  nghĩnh      ngụy  tạo  ra  sau  đó.


           Tuy  nhiên,  trong  khi  tôi  viết  những  trang  này  tại  Adyar  th́  một  việc  t́nh  cờ (nếu  đó    do  sự  t́nh cờ)  vừa  đem  đến  cho  tôi  một  bằng  chứng  xác  nhận  sự  việc  trên.


           Vừa  đến  lưu  trú  tại  Adyar,      Anna  Ballard,  một  nữ    giả  lăo  thành  người  Mỹ,  hội  viên  kỳ  cựu  của  Câu  Lạc  Bộ  Báo  Chí  thành  phố  New  York.  Do  hoạt  động  nghề  nghiệp,    này  đă  từng  đến  phỏng  vấn    Blavatsky  trong  tuần  lễ  đầu  tiên  sau  khi    HPB  vừa  đổ  bộ  lên  đất  Mỹ.  Trong  khi  tiếp  xúc  với  chúng  tôi,    Ballard  ngẫu  nhiên  nói  cho  tôi  nghe  hai  chuyện,    tôi  liền  yêu  cầu    viết  lại  trên  giấy  trắng  mực  đen  để  làm  tài  liệu.  Điều  thứ  nhất    khi    đến  viếng  HPB    một  nơi  nhà  trọ  nghèo  nàn  tại  New  York,    HPB    nói  rằng    từ  giă  Paris  th́nh  ĺnh    không    dự  tính  trước,  do  một  quyết  định  đột  xuất  chỉ  báo  trước    một  ngày;    việc  kế  đó      HPB  đă  từng  viếng  xứ  Tây  Tạng.  Dưới đây    lời  tường  thuật  của    Anna  Ballad:


                  Adyar, 17  tháng  1,  1892


                  Kính gởi  Đại    Olcott,


              Sự  quen  biết  của  tôi  với    Blavatsky  c̣n  lâu  hơn    ông  tưởng.  Tôi  gặp    hồi  tháng  7  năm  1873  tại  New  York,  độ  một  tuần  lễ  sau  khi    vừa  cặp  bến.  Hồi  đó,  tôi    phóng  viên  của  nhật  báo  New  York  Sun,  được  chỉ  định  viết  một  bài  về  một  đề  tài  Nga.  Khi  tôi  c̣n  đang  t́m  tài  liệu,  th́  một  người  bạn  cho  tôi  hay  rằng    một  phụ  nữ  Nga  vừa  nhập  cảnh  do  chuyến  tàu  mới  đến.


            Tôi  bèn  t́m  đến  gặp  bà,    từ  đó  bắt  đầu  một  sự  quen  biết  thân  hữu  kéo  dài  đến  nhiều  năm  sau.  Trong  cuộc  phỏng  vấn  đầu  tiên  của  tôi,    HPB  cho  tôi  biết  rằng    không  hề    ư  định  rời  Paris  để  sang  Mỹ  cho  đến  ngày  cuối  cùng  trước  khi    xuống  tàu,  nhưng      do      ra  đi    ai  thúc  hối    đi  gấp  như  vậy,  th́    không  nói.


             Tôi  c̣n  nhớ      nói  với  một  vẻ  sung  sướng  khoái  trá  lộ  ra  mặt:  “Tôi      bên  Tây  Tạng.”  Hồi  đó,  tôi  không  hiểu  tại  sao    lại  cho  đó    một  vấn  đề  quan  trọng,  c̣n  đặc  biệt  hơn  những  chuyến  du  hành    Ai  Cập,  Ấn  Độ    những  nước  khác      đă  kể  chuyện  cho  tôi  nghe,  nhưng    lại  nói  câu  ấy  với  một  vẻ  mặt  nghiêm  trọng  lạ  thường.  Bây  giờ  th́,  lẽ  tất  nhiên,  tôi  hiểu  ư    muốn  nói  ǵ.


                                                                 Kư tên:  Anna  Ballard.


 
           Độc  giả  sẽ  nhận  thấy  rằng  những  sự  việc      HPB  đă  kể  cho  người  bạn  đầu  tiên  này    New  York  hồi  hai  mươi  năm  về  trước,  đă  xác  nhận  đúng  đắn  những      từ  đó  về  sau    cũng  đă  thuật  lại  với  một  số  đông  người,  về  hai  vấn  đề  quan  trọng  nhất  trong  lịch  sử  lien  hệ  giữa    với  hội  Thông  Thiên  Học,  là:


       1._  Giai  đoạn  chuẩn  bị  của    bên  xứ  Tây  Tạng  dưới  sự  chăm  sóc  của  các  đấng  Chân  Sư; 


       2._  Cuộc  hành  tŕnh  của    đột  xuất  sang  Mỹ  để  t́m  người  bạn  đồng  môn    nghiệp  duyên  cùng  hợp  tác  với    để  phát  động  phong  trào  Thông  Thiên  Học  trên  thế  giới.


         Hồi  năm  1871,    đă    một  lần  thất  bại  khi  mưu  tính  thành lập  một    Quan  Tinh  Thần  tại  Cairo,  thủ  đô  Ai  Cập,  dựa  trên  nền  tảng  các  hiện  tượng  thần  linh.    không  t́m  được  người    đủ  khả  năng  tổ  chức    lănh  đạo,  nên  việc  ấy  không  thành;    đă  đem  đến  cho    nhiều  sự  chỉ  trích    bực  ḿnh. Tuy  nhiên,  những  phép  thuật  thần  thong      đă  biểu  diễn  với  sự  trợ  giúp  của  các  vị  Chân    Ai  Cập    một  vị  Chân    khác    về  sau  tôi  được  dịp  tiếp  xúc,  đều    những  hiện  tượng    cùng  độc  đáo.  Việc  ấy    vẻ  như  một  sự  hoang  phí  thần  lực  một  cách    ích,    cho  thấy  công  tŕnh  nầy  dường  như  thiếu  sự  hướng  dẫn của  thiêng  liêng.  Tôi  không  thể  hiểu  tại  sao  sự  việc  lại  xảy  ra  như  vậy.


        Nói  về  hội  Thông  Thiên  Học  th́  mọi  sự  diễn  biến  đều  chỉ  rằng      một  lịch  tŕnh  tiến  hóa  tuần  tự,    bị  chi  phối  bởi  hoàn  cảnh  do  tác  động  của  những  sức  mạnh  tương  phản.  Khi  th́  sinh  hoạt  êm  ái  điều  ḥa,  khi  th́  trải  qua  những  cơn  song  gió    ạt,  Hội  được  thịnh  vượng  hay  bị  trầm  trệ  tùy  theo  sự  quản  trị  thông  minh  sáng  suốt  hay  kém  khôn  ngoan  của  các  nhà  lănh  đạo.  Đường  lối  đại  cương  của  Hội  vẫn  luôn  luôn  được  ǵn  giữ,  phương  châm  hướng  dẫn  bao  giờ  cũng  vẫn  đồng  nhất,  nhưng  chương  tŕnh sinh  hoạt  của    đôi  khi  được  sửa  đổi,  nới  rộng  hay  cải  tiến  một  cách  linh  động,  uyển  chuyển  tùy  theo  kiến  thức    kinh  nghiệm  của  chúng  ta.  Mọi  sự  đều  chứng  minh  cho  tôi  thấy  rằng  phong  trào  Thông  Thiên  Học  nói  chung  đă  được  các  bậc  Tiên  Thánh  chuẩn  bị  từ  trước,  nhưng  c̣n  tất  cả  mọi  chi  tiết  đều  để  cho  chúng  ta  thực  hiện  với  sự  cố  gắng  tối  đa.  Nếu  chúng  ta  thất  bại  th́  cái    hội  quư  báu    Nghiệp  Quả  đă  dành  cho  chúng  ta  sẽ  rơi  vào  tay  người  khác,  cũng  như  hiện  nay  tôi    người  thừa  kế  những    hội  lỡ  làng    nhóm  tín  hữu  của    Blavatsky  đă  bỏ  dở  không  thực  hiện  được tại  Cairo  hồi  năm  1871.


         Trong  thưở  ban  đầu,  tôi  không  hề  nghe    Blavatsky  nói    ngụ  ư  rằng    đă  được  cho  biết  trước ,  cho  đến  khi    được  lịnh  đi  đến  Chittenden  để  gặp  tôi,  về  việc  chúng  tôi  sẽ  cùng  cộng  tác  với  nhau  trong  tương  lai,  hay    về  việc  thành  lập  hội  Thông  Thiên  Học  thế  giới.  Chúng  tôi  chỉ  nghe    nói,  như  đă  kể  trên,  rằng    được  gởi  từ  Paris  đi  New  York  với  mục  đích  truyền    giáo    Huyền  Môn,và  trước  khi  chúng  tôi  gặp  nhau,    đă  từng  tham  dự  những  buổi  họp  đàn    tiếp  xúc  với  các  đồng  tử  nhưng  vẫn  c̣n  ẩn  mặt  chứ  chưa  hề  được  công  chúng  biết  đến.


         Tháng  5  năm  1875,  với  sự  đồng  ư  của    HPB,  tôi  bắt  tay  vào  việc  tổ  chức  một  nhóm  thân  hữu  chuyên  khảo  cứu  về  Khoa  Học  Huyền  Bí,  lấy  tên    Câu  Lạc  Bộ  Huyền  Linh ( Miracle  Club ).  Trong  một  đoạn    sự  về  việc  này,    viết  như  sau:


          “Đó    một  mưu  toan  do  lệnh  dạy của  T. B. (một  vị  Chân  Sư),  nhận  được  qua  trung  gian  của  P. (một  tinh  linh)  mệnh  danh  John  King.  Được  lệnh  phải  bắt  đầu  nói  cho  công  chúng  biết  sự  thật  về  các  hiện  tượng    các  đồng  tử.  Thế    cuộc  pháp  nạn  của  tôi  sẽ  bắt  đầu!  Tôi  sẽ  gặp  phải  sự  chống  đối  của  các  nhà  Thần  Linh  Học,  thêm  vào  sự  thù  nghịch  của  bên    Đốc  Giáo    những  kẻ  hoài  nghi.  Ôi ! Chân    M.,  ư  muốn  của    Phụ  sẽ  phải  được  thực  hiện.
 HPB.”
        Câu  lạc  bộ  này  được  dự  định    sẽ  nhóm  riêng,  không  thâu  nhận  người  ngoài  trừ  ra  những  thành  viên  của  nhóm,    họ  cũng  bị  ngăn  cấm  không  được  tiết  lộ  nơi  họp.  Bà viết  thêm:


         “Tất  cả  những  hiện  tượng  Thần  Linh,  gồm  cả  các  sự  hiện  h́nh,  đều  sẽ  diễn  ra  dưới  ánh  sáng, và  sẽ  không  sử  dụng  một  pḥng  tối.”


          Theo  lời    nói  như  trên,  th́  dường  như  sẽ  không    Hội  Thông  Thiên  Học,  nếu  rốt  cuộc  người  đồng  tử  của  Nhóm  Huyền  Linh  không  hoàn  toàn  suy  thoái  rồi  rút  lui    tôi  đành  bỏ  dở  không  thể  hoàn  thành  công  việc  ấy.


                                            CHƯƠNG  HAI


                     VÀI NÉT ĐẶC THÙ  CỦA    BLAVATSKY


         Trong  chương  một ,  chúng  tôi    nói  rằng    HPB  được  lệnh  của  Chân    phải  rời  Paris  đi  New  York  một  cách  đột  ngột,  do  tin  báo  trước  chỉ    một  ngày,    khi  đó    chỉ    vừa  đủ  tiền  để  mua    tàu.Tôi  c̣n  nhớ  một  việc  liên  hệ  đến  chuyến  đi  ấy  do    thuật  lại,  việc  ấy  cũng  biểu  lộ  một  nét  đặc  biệt  trong  tính  chất  đa  dạng  của  bà,  ấy    tính  hào  sảng  tự  nhiên.


           đă  mua  một    tàu  hạng  nhất  đi  từ  Havre  đến  New  York,    khi  ra  bến,    nh́n  thấy  một  phụ  nữ  nhà  quê   ngồi  bên  vỉa    vừa  ôm  con  vừa  khóc  rất  thảm  thiết.    bước  đến  gạn  hỏi  th́  được  biết  rằng  đó    một  phụ  nữ  Đức  định  xuống  tàu  để  sang  gặp  chồng    bên  Mỹ,  nhưng  bị  một  kẻ  gian  đă  bán    giả  cho    ta    Hambourg.  Thế    khi  đến  đây,    ấy  bị    vơ,  lạc  lơng,  không  tiền  bạc    tứ  cố    thân  nơi  đất  khách.  Lẽ  tự  nhiên,  Công  Ty  Hàng  Hải  cũng  không  làm    được.  Động ḷng  trắc  ần,    HPB  nói:


          “Chị  hăy  yên  tâm,  để  tôi  xem    cách  nào  giúp  chị  được  không?”


             Kế  đó,    vận  dụng  tất  cả  mọi  khả  năng  hùng  biện,  hết  thuyết  phục  rồi  đến  quở  trách  người  đại  diện  Công  Ty,  nhưng  rốt  cuộc  vẫn  không    kết  quả.  Sau  cùng,      không    đủ  tiền  để  trợ  giúp  người  phụ  nữ  bất  hạnh  ấy  nên    phải  dùng  đến  phương  sách  tối  hậu,  chứ  không  c̣n  cách  nào  khác.    liền  đổi  vé “cabin’’  hạng  nhất  của    thành    hạng  chót,  nằm  dưới  hầm  tàu,    dùng  số  tiền  sai  biệt  để  mua    hạng  chót  luôn  cho  cả  hai  mẹ  con  người  đàn    kia!


             Nhiều  người  thuộc  loại  “nề  nếp”, “mực  thước,” thường  tỏ  ra  hoang  mang  kinh  ngạc    những  cử  chỉ  ngang  tàng  ngáo  ngổ    cả  những  điều  sống  sượng  bất  nhă  nữa  của    HPB,  nhưng  tôi  nghĩ  rằng  một  cử  chỉ  hy  sinh  hào  phóng  như  vậy  cũng  đủ  làm  nghiêng  lệch  đ̣n  cân,    quét  sạch  tất  cả  những    gọi    bất  lịch  sự  trong  phép    giao  của  người  đời!  Ai  không  tin,  hăy  thử  xuống  nằm  dưới  hầm  tàu  chở  dân  di  trú  một  lần  th́  biết!


           Trên  đây    nói  trong  trường  hợp  nào  nữ    giả  Ballard  đến  gặp    HPB  tại  một  ngôi  nhà  trọ  nghèo  nàn    một  khu  phố  b́nh  dân  của  thành  phố  New  York  trong  khi    c̣n  chờ  đợi  tiền  nhà    phải  làm  việc  may  thuê    mướn  để  sống  tạm  qua  ngày.  Đó là vào  tháng  7,  năm  1873.  Tháng  mười  năm  ấy,    nhận  được  một  bức  điện  tín  từ  Stavropol ( Nga )  của    em  gái    Elise,  cho  biết  tin  phụ  thân    từ  trần      để  lại  cho    một  phần  gia  tài.    em  cho  biết  thêm  rằng  một  ngân  phiếu  một  ngàn  Nga  Kim (roubpes)  đă  được  gửi  cho  bà.  Sau  đó  ít  lâu,    nhận  được  tiền    dời  chỗ    đến  một  khu  phố  khang  trang  lịch  sự  hơn,    đường  East 16th,  công  trường  Irving,  New  York.  Chính    địa  chỉ  này    tôi  đến  gặp    sau  khi  từ  nông  trại  Eddy  trở  về.  Tuy  nhiên,  số  tiền  ấy  không    với    được  lâu,    như  ông  Sinett    nhận  xét    ghi  lại  trong  quyển  sách  của  ông  (về  tiểu  sử  của    HPB)  th́  một  mặt      thể  chịu  đựng  một  cách    cùng  nhẫn  nhục  những  cơn  nghèo  túng    nghịch  cảnh  khó  khăn,  nhưng  khi  tiền  bạc  vừa  đến  tay  bà,  th́    dường  như  lấy  làm  băn  khoăn  khổ  sở  trừ  khi    đem  vứt  quăng  đi  với  cả  hai  tay  bằng  những  phương  tiện  dại  dột  nhất.


            Đó    một  cuộc  chung  vốn  làm  ăn      hợp  đồng  để  khai  thác  nông  trại  của  một  người  tên    C.G.  trong  một  kỳ  hạn    ba  năm.  Trong  bản  hộp  đồng    điều  khoản  quy  định  rằng    HPB  sẽ  bỏ  ra  số  tiền  một  ngàn  đô  la  để  chung  vốn,  tất  cả  những  lợi  tức  thu  hoạch  được  về  hoa  màu,  rau  trái,    vịt,    nhũng  hoa  lợi  linh  tinh  khác  sẽ  được  chia  đều    mọi  phí  tổn  cũng  sẽ  cùng  gánh  chịu  đều  nhau, v..v…


          Điều    người  ta    thể  tiên  liệu  trước  đă  xảy  ra:    HPB  đến    tại  nông  trại,  lợi  tức  đâu  chẳng  thấy,  đâm  ra  tranh  chấp,  căi  lẫy,  rồi  mắc  nợ    vướng  vào  một  vụ  kiện    rất  lâu  về  sau  các  bạn    thân  hữu  của    mới  giúp    giải  quyết  xong.  Thế    tan  tành  cái  giấc  mộng  về  lợi  tức  của    về  rau  trái,  hoa  màu,  nuôi    sữa,    đẻ  trứng, v..v…Ba  tháng  sau  đó,  tôi  mới  gặp    tại  ngôi  nhà    hồn  ma  hiện  h́nh    tại  Vemont,  Chittenden, và  bánh  xe  nghiệp  quả  của  chúng  tôi  mới  bắt  đầu  chuyển  động.


           Những  bài  phóng  sự  của  tôi  đăng  trên  nhật  báo  Daily  Graphic  đă  hấp  dẫn  đến  Chittenden  một  vị  lương  y  danh  tiếng  của  thành  phố  New  York,  bác    Beard.  Khi  trở  về,  y  đă  viết  một  bài  b́nh  phẩm  ngu  xuẩn    khoác  lác  đăng  trên  báo,  nói  rằng  những  chuyện  hồn  ma  hiện  h́nh    nông  trại  Eddy  chỉ    những  tṛ  giả  mạo,    y  đă  bị    HPB “cạo  sát  da”  trong  một  bức  thư  trả  lời  nảy  lửa  gởi  đến  ṭa  soạn  báo  Graphic.  Bức  thư  của      một  sự  biện  hộ  can  đảm    độc  đáo  bênh  vực  cho  những  đồng  tử  Eddy    sự  thật  của  những  hiện  tượng  xảy  ra,  làm  cho    đột  nhiên  vang  dậy  tên  tuổi  khắp  các  giới  kể  từ  đó  trở về  sau.  Đây    lần  đầu  tiên    quần  chúng  Mỹ  được  nghe  tên  tuổi    liên  quan  dến  những  vấn  đề  huyền  linh,    cuộc  tranh  luân  với  một  bác    nổi  tiếng    New  York  thời  ấy    cái  nguyên  nhân  chính  làm  cho    được  nổi  danh  một  cách  bất  ngờ.


          Hồi  đó,    luôn  luôn  phát  ngôn  với  một  giọng  sôi  nổi,  hào  hùng    vui  nhộn  trong  tất  cả  mọi  cuộc  đàm  thoại    trên  diễn  đàn  ngôn  luận,  báo  chí;    thu  hút  mọi  người  bằng  cách  nói  chuyện  linh  động    ư  nhị;  khinh  bỉ  những  nghi  thức    giao  giả  dối  của  người  đời,    gây  sự  ngạc  nhiên  trong  các  giới  bằng  những  quyền  năng  thần    của  bà.    thường  rút  trong  cái  kho  tang    ức    cùng  dồi  dào  phong  phú  về  những  chuyện  phiêu  lưu  mạo  hiểm      đă  trài  qua  do  kinh  nghiệm  bản  thân,    trong  kho  kiến  thức  thâm  sâu  về  khoa  Huyền  Môn,    theo  chỗ  tôi  biết  th́  không  ai    thể    kịp  trong  số  các  nhân  vật  xuất  hiện  ở Mỹ  thời  bấy  giờ.  Khi  tôi  đă  kết  thúc  loạt  bài  phóng  sự  đăng  trên  báo  Daily  Graphic  về  các  hiện  tượng  thần  linh    Chittenden,  tôi  bèn  chuẩn  bị  in  ra  thành  sách.  Vào  lúc  này,    HPB  cũng  dời  chỗ  đến    Philadelphia.  Hồi  đó,  khoa  Thần  Linh  Học  đang  trải  qua  một  giai  đoạn  xuống  dốc  do  hậu  quả  của  việc  đồng  tử  Holmes  bị  nhà  bác  học  Dale  Owen  công  khai  tố  giác    dối  trá,  bịp  bợm.  Những    quan  ngôn  luận  của  phong  trào  bị  mất  độc  giả  rất  nhiều,  những  sách  vở  Thần  Linh  Học  sang  giá  nhất  đều  bị  mất  khách  hang    nằm  trong  các  nhà  sách  không  ai  mua. Nhà  xuất  bản  quyển  sách  của  tôi  bị  giao  động  tinh  thần  dến  nỗi  tôi  phải  đề  nghị  vối  ông  Dale  Owen      đồng  tử  Holmes  mở  một  cuộc  trắc  nghiệm  dài  hạn  dưới  những  điều  kiện  của  tôi  đưa  ra  để  chúng  tôi  thực  hiện  những  cuộc  thử  thách  này  tại  nhà  ông    Holmes.  Sau  đó,  tôi  đến  Havana,  tiểu  bang  New  York,    chứng  kiến  những  hiện  tượng  đồng  tử  thật    kỳ  diệu  của    Compton.  Tất  cả  những  cuộc  khảo  sát  trên  đây  đều  được  tường  thuật  lại  đầy  đủ  trong  quyển  sách  của  tôi  nhan  đề  “Người  về  từ  cơi  âm”    sau  cùng    được  đem  phát  hành.


               
                                               II
          
          Trong  khi    HPB    Philadelphia,  tôi  nhận  lời  mời  của      đến  đó    nghỉ  vài  ngày  sau  một  thời  gian  làm  việc  mệt  nhọc.  Tôi  định  đi  vắng  nhà    vài  ngày  thôi  nên  không  dặn  người  nhà    văn  pḥng  Luật  chuyển  thơ  từ  cho  tôi,  nhưng  khi  đến  nơi  tôi  mới  biết    không  muốn  để  tôi  về  sớm  như  vậy.  Qua  ngày  hôm  sau,  tôi  đến  Sở  Bưu  Điện,    yêu  cầu  họ  đem  thư    của  tôi  nếu  có,  đến  địa  chỉ  của  tôi  đang  ở.  Khi  đó  th́  xảy  ra  một  việc  làm  tôi  ngạc  nhiên,    hồi  đó  tôi  chưa  được  biết  nhiều  về  những  quyền  năng  thần  thông  của  các  Chân        HPB    chí  đến  bây  giờ  đối  với  tôi,    vẫn  c̣n    một  kỳ  quan  lạ  lung  dẫu  rằng  tôi  đă  từng  trải  qua  một  thời  kỳ  kinh  nghiệm  lâu  dài  về  các  hiện  tượng  huyền  linh.
         Ngay  chiều  hôm  đó,  người  đem  thơ  đem  đến  cho  tôi  vài  bức  thơ  gởi  từ  ngoại  quốc,  ngoài  bao  thơ  đề  địa  chỉ  của  tôi    New  York,    đóng  dấu  các  trạm  bưu  điện  xuất  xứ  nhưng  KHÔNG    CON  DẤU  CỦA  SỞ  BƯU  ĐIỆN  THÀNH  PHỐ  NEW  YORK.  Bất  chấp  mọi  luật  lệ  của  quy  tắc  bưu  điện,  những  bức  thư  đó  đă  được  giao  thẳng  đến  tay  tôi    Philadelphia    không  đi  qua  Sở  Bưu  Điện  thành  phố  New  York.    New  York  không  ai  biết  địa  chỉ  của  tôi  tại  Philadelphia    chính  tôi  cũng  không  biết  khi  tôi  rời  khỏi  nhà  ra  đi.  Khi  mở  các  bao  thơ,  tôi  thấy  trên  các  thơ  đều    những  gịng  chữ  viết,  đúng    tuồng  chữ  trên  những  bức  thơ  của  các  Chân      tôi  đă  nhận  được    New  York  trước  đây,  những  gịng  chữ  này  được  viết  hoặc    ngoài  lề,  hoặc    những  khoảng  trống  trong  thơ  của  những  người  giao  dịch  với  tôi.  Những  gịng  chữ  đó  hoặc  b́nh  phẩm  về  tính  hạnh  hay  ư  đồ  của  các  đương  sự,  hoặc    những  lời  khuyên    liên  quan  đến  vấn  đề  học  Đạo  của  tôi.  Việc  ấy  mở  màn  cho  toàn  thể  một  loạt  những  hiện  tượng  kỳ  diệu  khác  nữa  trong  khoảng  thời  gian  độ  hai  tuần    tôi  trải  qua  tại  Philadelphia.


           Phân  tích  những  hiện  tượng  thần  thông  của    HPB,  hoặc    liên  quan  đến  bà,  chúng  tôi  nhận  thấy  chúng    thể  được  chia  làm  nhiều  loại,    khả  năng  tạo  nên  những  iện  tượng  đó  đ̣i  hỏi  một  sự  hiểu  biết  về  những  điều  sau  đây:


      _  Biết    những  năng  dụng  rốt  ráo  của  vật  chất,  mănh  lực  kết  cấu  các  nguyên  tử,  nhất    sự  hiểu  biết  về  tiềm  năng  của  chất  TINH  QUANG  hay  TIÊN  THIÊN  KHÍ (Akâsha).


    _  Khả  năng  tác  động  của  các  Tinh  Linh  Ngũ  Hành  khi  đặt  dưới  ư  chí  điều  khiển  của  con  người.


   _   Quyền  năng  sáng  tạo  của    tưởng , có  thể  dùng  thuật  thôi  mien  tạo  ra  những  ảo  giác  mắt  thấy, tai  nghe  và xúc  cảm  những  điều    thật  ra  vốn  không  có.


   _  Khả  năng  phóng  xuất  h́nh  ảnh  hay  chữ  viết  bằng  sức  mạnh  của  ư  chí.


   _Khả  năng  đọc    tưởng  của  người  khác,    thần  nhăn  nh́n  thấy  quá  khứ  vị  lai.


   _  Khả  năng  thần  giao  cách  cảm  tùy  ư  muốn  giữa  ḿnh  với  những  nhân  vật  ngang  hàng  hoặc  cao  hơn  ḿnh  về  tŕnh  độ  phát  triển  tâm  linh.


  _  Khả  năng  đọc  được    Ức  của  Thiên  Nhiên,  ẩn  tang  trong  chất  Tinh  Quang  hay  Tiên  Thiên  Khí  nơi  đó  chứa  đựng  tất  cả  những  kho  tang  hiểu  biết  của  con  người.


         Hồi  tưởng  lại  những  nhận  xét  của  tôi  trong  hai  chục  năm  qua,  tôi  nghĩ  rằng  tất  cả  những  chuyện    tôi  đă  từng  kể,  hay  sẽ  thuật  lại  trong  quyển  sách  này,  sẽ  thuộc  về  một  trong  những  loại  kể  trên.


         Những  kẻ  hoài  nghi  chắc  sẽ  nói  rằng  sự  phân  loại  như  trên    vẻ  độc  đoán    những  giả  thuyết  của  tôi    hăo  huyền.  Họ  sẽ  yêu  cầu  tôi  chứng  minh  sự  thật  về  các  Tinh  Linh  Ngũ  Hành;  về  hiện  tượng  thần  nhăn;  về  sự  chuyển  di  đồ  vật  xuyên  qua  không  gian;  về  sức  mạnh  hấp  dẫn    kết  cấu  các  nguyên  tử,v..v… Tôi  chỉ    thể  thuật  lại  những  điều    tôi    nhiều  người  khác  đă  nh́n  thấy,    thách  đố  kẻ  hoài  nghi  t́m  ra  được  trong  cơi  thiên  nhiên  bất  cứ  một  định  luật  nào  ngoài  ra  những  điều  đă  nêu  trên  để  giải  thích  các  sự  kiện  không  thể  chối  căi.  C̣n  nếu  người  ta  cho  rằng  đó    phép  lạ,  hay  ma  thuật,  th́  chừng  đó  tôi  sẽ  ngậm  miệng,    điều  đó  chận  đứng  mọi  cuộc  tranh  luận.  Tôi  không  tự  hào    thể  giải  thích  tất  cả  những  hiện  tượng  thần  thông  của    HPB,    điều  ấy  đ̣i  hỏi  một  tŕnh  độ  hiểu  biết  ít  nhất    tương  đương  với      điều    tôi  không  bao  giờ  có.


                                                          III

          Những  ngày    tôi  trải  qua    Philadelphia  đều  bận  rộn  với  việc  học  Đạo    chứng  kiến  những  hiện  tượng  thần  thông  của    HPB.   Ngoài  ra,  tôi  c̣n    một  số  bạn    thân  hữu,      đă  làm  những  phép  thuật  huyền  linh  này  trước  mặt  mọi  người.  Trong  số  những  phép  thuật  đó,  tôi  c̣n  nhớ    lần    làm  cho  một  bức  ảnh  trên  tường  th́nh  ĺnh  biến  mất  khỏi  cái  khung,    thay  vào  đó    một  bức  chân  dung  hoạt  họa  của  John  King,  trong  khi  một  người  trong  số  quan  khách  đang  nh́n  vào  bức  ảnh.


           Lần  lần,  tôi  được    giảng  giải  cho  nghe  những    thuyết  của  Huyền  Môn  Đông  Phương  về  tinh  thần    vật  chất    về  những  vong  linh  khuất  mặt  trong  cơi    h́nh.    không  bảo  tôi  từ  bỏ  giả  thuyết  Thần  Linh  Học,    chỉ  cho  tôi  thấy    nhận  định  rằng  như  một  khoa  học  chân  chính,  khoa  Thần  Linh  Học  thật  sự  chỉ    thể    phương  Đông,    những  người  tinh  thông  về  khoa  này  chỉ    thể    những  bậc  đạo      đệ  tử  của  các  đạo  phái  Huyền  Môn  Đông  Phương.
           Với  tấm  ḷng  thành  thật  khách  quan  đối  với  các  nhà  Thần  Linh  Học,  tôi  phải  nói  rằng  cho  đến  nay,  chưa    một    thuyết  khoa  học  nào  được  đưa  ra  về  những  hiện  tượng  đồng  tử    phần  đông  nói  chung  họ  đă  chấp  nhận.    tôi  cũng  không  thấy    một  bằng  chứng  cụ  thể  nào  chỉ  rằng  trong  số  những  tín  hữu  Tây  Phương  của  phong  trào  này,    ai  đă  từng  khám  phá  một  phương  pháp  nào  để    thể  kêu  gọi  các  vong  linh  xuất  hiện  hoặc  tạo  ra  các  hiện  tượng  tùy  ư  muốn.  Không  một  người  đồng  tử  nào    tôi  đă  từng  gặp  hoặc  nghe  nói  đến,  đă    một    quyết  hay  chân  ngôn  để  thực  hiện  được  những  việc  đó,  vốn    những  điều  rất  thông  thường    quen  thuộc  từ  nhiều  thế  hệ    các  xứ  phương  đông.


            Trong  khi    HPB  làm  cho  tôi    các  bạn  hữu  tin  rằng  những  hiện  tượng  xảy  ra  hầu  như  mỗi  ngày  đều    do  tác  động  của  vong  linh  John  King,  mạo  nhận    vong  hồn  một  hải  tặc  lừng  danh  khi  xưa  tên    Sir  H. Morgan,      chỉ  trợ  giúp  y  với    cách    một  người  trung  gian  hay  phụ  tá,    HPB  đă  làm  nhiều  hiện  tượng  chứng  tỏ        một  bản  lĩnh  cao  cường  về  ngành  Phương  Thuật (Magic ).


            Tôi  xin  kể  một  thí  dụ,  đồng  thời  cũng  nói  thêm  rằng  những  phát  minh  khoa  học  lớn  lao  thường  bắt  nguồn  từ  việc  t́nh  cờ  nhận  xét  những  sự  việc  rất  đỗi  thông  thường,  chẳng  hạn  như  một  trái  táo  rụng  xuống  đất giúp  Newton  khám  phá  Luật  Hấp  Dẫn (Gravitation ); và  việc  nh́n  thấy  cái  nắp  thiếc  nhảy  dựng  trên  cái  ấm  nước  đang  sôi[6]


            Ngày  nọ,  nhận  thấy  trong  nhà  thiếu  khăn  mặt  để  dùng,  tôi  mua  vài  cái  khăn  lớn  đem  về,    cắt  ra  làm  độ  một  chục  chiếc  khăn  nhỏ.   Khi  thấy    HPB  định  lấy  ra  dùng  ngay    không  chịu  viền  các  cạnh  khăn  lại  cẩn  thận,  tôi  mới  phản  đối  lối  sống  thiếu  ngăn  nắp  đó,      liền  lấy  kim  chỉ  ra  may.    chưa  kịp  bắt  đầu  bỗng  nhiên    đá  một  cái  dưới  gậm  bàn    nói  với  một  giọng  giận  dữ:


          “Đồ  láo,  đi  ra!”


           Tôi hỏi:


          “Cái    vậy?”


          Bà đáp:


          “Có ǵ  đâu!  Chỉ    một  tinh  linh    kéo  vạt  áo  tôi    muốn    một  việc    làm!”


           Tôi nói:


         “À, hay quá!  Sẵn đây, bà  hăy  đưa  khăn  cho    may.    cần    phải  làm  cho  nhọc,  vả  lại    cũng  chẳng  khéo  tay    cho  lắm  về  đường  kim  mũi  chỉ?”


             cười    mắng  tôi  chê    may  dở,  nhưng  cũng  chưa  chịu  làm  theo  sự  thỉnh  cầu  của  kẻ  khuất  mặt    dưới  gậm  bàn,  sẵn  sàng  trợ  giúp  một  tay  nếu    dịp.  Sau  cùng,  nghe  lời  thuyết  phục  của  tôi,    bảo  tôi  hăy  để  khăn  mặt    kim  chỉ  trong  một  cái  tủ  kiếng    khóa,    che  màn  lụa  xanh    phía  tường  bên  kia.  Tôi  làm  theo    trở  lại  tiếp  tục  ngồi  nói  chuyện  với    về  đề  tài    thú  duy  nhất    bất  tận  của  chúng  tôi,    vấn  đề  khoa  học  huyền  bí.  Sau  độ  mười  lăm  hay  hai  mươi  phút,  tôi  nghe  một  tiếng  động  nhỏ  giống  như  tiếng  chuột  kêu    dưới  gậm  bàn,  khi  đó    HPB  cho  tôi  biết  rằng  “nó”  đă  viền  xong  mấy  cái  khăn.  Tôi  bèn lại  mở  tủ    thấy  mười  hai  cái  khăn  mặt  đă  viền  xong,  tuy  rằng  hơi  vụng  về,  giống  như  của  trẻ  em  mới  tập  may  trong  các  lớp  may  nhi  đồng.  Thế    mấy  cái  khăn  mặt  đă  được  viền  b́a  thật  sự  không  thể  nghi  ngờ,  trong  cái  tủ  đă  khóa  kín      HPB  không  hề  bén  mảng đến  gần  trong  suốt  thời  gian  đó.  Lúc  ấy,  vào  độ  bốn  giờ  chiều,  giữa  ánh  sang  ban  ngày.  Chúng  tôi  chỉ    hai  người  trong  pḥng,  không    người  nào  khác  bước  vào  cho  đến  khi  mọi  việc  đă  xong.


             lần  trong  khi  chúng  tôi  đang  ngồi  nói  chuyện    pḥng  khách,    HPB  th́nh  ĺnh  biến  mất.  Tôi  đă  từng  trải  nhiều  kinh  nghiệm  về  các  hiện  tượng  huyền  linh,  nhưng  việc  này  làm  tôi  ngạc  nhiên    lo  lắng.  Sau  khi  đi  lục  soát  khắp  trong  nhà    không  thấy  ǵ,  tôi  trở  lại  pḥng  khách  châm  ống  điếu  hút  thuốc,    thử  t́m  hiểu  điều    mật  này.  Hồi  đó    năm  1875,  tức    nhiều  năm  trước  khi  khoa  thôi  miên  được  thí  nghiệm    phổ  biến,  cho  nên  tôi  không  hề  biết  rằng  lúc  ấy  tôi  chỉ    một  đối  tượng  thụ  cảm,      HPB  chỉ    làm  che  lấp  thị  giác  của  tôi  để  tôi  không  nh́n  thấy    trong  khi    vẫn    mặt  tại  chỗ.


           Một  lúc  sau    xuất  hiện  trở  lại  nơi  pḥng  khách,  tôi  mới  hỏi  năy  giờ    đi  đâu,  thí    cười    nói  rằng        việc  phải  làm  về  phần  “ vô  vi ”  nên    đă  tàng  h́nh  trong  chốc  lát.  Nhưng    tàng  h́nh  bằng  cách  nào  th́    không  nói.    cũng  làm  phép  thuật  đó  trước  mặt  tôi    những  người  khác  nhiều  lần  nữa, trước    sau  khi  chúng  tôi  đi  sang  Ấn  Độ,  nhưng  tất  cả  những  lần  đó  đều  xảy  ra  nhiều  năm  trước  khi  tôi  được  biết    về  khoa  thôi  miên,  vốn    cái  đáp  số  dễ  dàng  của  thuật  tàng  h́nh.  Như  tôi  đă    lần  giải  thích,  thuật  thôi  miên  của  Đông  Phương  c̣n  cao  tay  ấn  hơn  nhiều  so  với  Tây  Phương,    trong  trường  hợp  này,  sự  dẫn  dụ  để  che  lấp  giác  quan  của  người  thụ  cảm  được  thực  hiện  bằng    tưởng  trong  âm  thầm,  chứ  không  phải  truyền  lệnh  bằng  giọng  nói    âm  thanh.  Người  thụ  cảm  không  được  cảnh  giác  để  chống  lại  sự  dẫn  dụ,    sự  việc  xảy  ra  tự  nhiên  trong  khi  y  không  hay  biết    cả.


              HPB  c̣n  biểu  diễn  nhiều  hiện  tượng  thần  thông  lạ  lùng  khác  nữa.  Tôi  chỉ  thuật  lại  vài  sự  việc  đáng  kể,    làm  thỏa  măn    trí    óc  phê  b́nh  của  tôi  về  sự  thật  của  khoa  huyền  thuật  Đông  Phương.  Đó    thời  kỳ    tôi  được  biết    HPB  như  một  bạn  đồng  môn,  mối  liên  hệ  giữa    với tôi  được  thiết  lập  trên  một  cương  vị  hoàn  toàn  b́nh  đẳng    mật  thiết.  Nhờ  đó,  tôi  mới    thể  nhận  xét   như  một  người  thường,  trước  khi    được  các  bạn  Đạo  suy  tôn  gần  như  thần  thánh,  những  người  này  không  được  biết    về  những  sở  trường,  sở  đoản    tính  chất  rất  cận  nhân  tính  của  bà.


            Như  tôi  sẽ  tŕnh  bày  một  cách  trung  thực, cái  h́nh  ảnh    tưởng  đă  phai  mờ  của  tác  giả  các  bộ  sách  “Vén  Màn  Isis” và “Giáo      Truyền” sẽ    h́nh  ảnh  của  một  người  bằng  xương  bằng  thịt;  một  người  phụ  nữ  thật  sự  tuy  rằng  trội  hẳn  về  phần  nam  tính,  sống  b́nh  thường  như  mọi  người  khi  thức  tỉnh,  nhưng  lại  đi  vào  một  thế  giới  khác    giao  tiếp  với  những  nhân  vật  cao  cả  hơn  trong  giấc  ngủ  hay  trong  khi  xử  dụng  nhăn  quang  siêu  phàm;  một    tính  đặc  biệt  ngự  trong  một  xác  thân  phụ  nữ  yếu  đuối,  “trong  đó… một  cơn  giông  tố  luôn  luôn  gầm  thét  hầu  như  bất  cứ  lúc  nào,”  theo  lời  của  một  vị  Chân    miêu  tả  t́nh  trạng  tâm  linh    khí  chất  của  bà.  Một  khí  chất  thật  bất  thường,  biến  đổi,  đa  h́nh  đa  dạng,  nóng  nảy,    ạt  như  giông  băo,    đ̣i  hỏi    kẻ  đối  tượng  một  sự  nhịn  nhục    tự  chủ  đến  mức  độ  anh  hùng  nếu  họ  muốn  sống  chung    cộng  tác  với    trên  một  tinh  thần    kỷ  vị  tha.


             rằng  thế  nào,  người  ta  không  thể  quên  bản  lĩnh  phương  thuật  cao  cường    những  phép  thuật  thần  thông      đă  thực  hiện,  những  bằng  chứng  dồn  dập      đă  cho  thấy  về  sự  hiện  diện  của  các  đấng  Chân        tuyệt  đối  phục  tùng  đến  mức    cảm  thấy  không  xứng  đáng  để  lau  bụi  trên  bàn  chân  của  các  ngài,    công  tŕnh  phụng  sự  hiến  dâng  khi    người  phụ  nữ  ngáo  ngổ    ngang  tàng  ấy  trở  thành  một  bậc  đạo    phổ  biến  đạo    cho  đời    một  nhà  tiền  phong  cầm  đuốc  soi  đường  cho  người  tầm  Đạo.  Tất  cả  những  điều  đó,    những  bộ  sách  Đạo      để  lại  cho  hậu  thế,  càng   kết  hợp  để  chứng  minh  tính  chất    đại  của      làm  cho  tính  khí  ngang  ngạnh  bất  thường  của    được  xóa  nḥa  trong  quên  lăng,  thậm  chí  bởi  những  người  đă  từng  bị  những  điều  ấy  làm  cho  điêu  đứng  khổ  sở  nhiều  nhất  về  phương  diện  tinh  thần.


           Bằng  cách  vạch    con  đường  Đạo  cho  hậu  thế,    đặt  tất  cả  chúng  ta  dưới  một  gánh  nặng  nghĩa  vụ  đến  mức  người  ta  không  thể    cảm  nghĩ  nào  khác  hơn    một  sự  biết  ơn  sâu  xa  đối  với  bà.


                                             CHƯƠNG  BA


                                             THỬ  THÁCH


          Với  ư  định  tường  thuật  theo  thứ  tự  thời  gian  những  sự  việc  hồi  thuở  ban  đầu  Hội  Thông  Thiên  Học  gồm  cả  những  ngày  liên  hệ  ban    giữa    HPB  với  tôi,  tôi  thấy  cần  nói  qua  vài  hiện  tượng  phóng  bút  của  bà,    tôi    ghi  chép  trong  quyển “Người  Về  Từ  Cơi  Âm”.


          Như  đă  nói  trước  đây,  những  hiện  tượng  của    HPB  dường  như  do  tác  động  của  một  vong  linh  mệnh  danh  John  King,  vốn    linh  hồn  đă  thoát  xác  của  một  tay  hải  tặc  lừng  danh  khi  xưa  tên  Henry  de  Morgan,  đă  từng  được  Anh  Hoàng  Charles  II  tấn  phong  Hiệp  Sĩ,  nhưng  thật  sự  chỉ    một  cái  tên  giả  để  tạm  gọi  những  âm  binh  hay  tinh  linh  dưới  quyền  sai  khiến  của    HPB.


          Trong  một  buổi  họp  nơi    trú  ngụ  tại  một  khách  sạn    Philadelphia  vào  buổi  tối,  ngày  6  tháng  1  năm  1875,  nhân  dịp  J. K.  đang làm  các  hiện  tượng  lạ,  tôi  nói:


         “Nếu  quả  thật  anh    một  vong  linh  tốt  lành  như  anh  tự  nhận,  anh  hăy  thi  thố  một  vài  quyền  năng  của  anh  cho  tôi  xem.  Chẳng  hạn,  anh  hăy  làm  ra  một  bổn  sao  của  một  bức  thơ    tôi  đang  cất  trong  “ bóp “    đựng  trong  túi  áo  của  tôi.”


           Không  ai  để  ư    đến  lời  yêu  cầu  của  tôi  chiều  hôm  ấy,  nhưng  qua  đến  tối  hôm  thứ  ba,  sau  đêm  hôm  đó  hai  ngày,  trong  khi    HPB    tôi  đang  ngồi    cạnh  bàn  làm  việc,  những  tiếng    nhịp  rất  lớn  vang  lên.  Theo  tiếng  nhịp,  tôi  liền  viết  ra  những  nguyên  âm  chữ  cái    đọc:


         “Ông  vui  ḷng  đưa  cho  tôi  cuốn  tự  điển  xuống  dưới  gầm  bàn.”
           Trên  bàn  lúc  ấy    quyển  tự  điển  Nga- Anh  của    HPB,  tôi  bèn  cầm  lấy    ĐƯA  XUỐNG  gầm  bàn  theo  lời  yêu  cầu.  (Tôi  chỉ  đưa,  chứ  không  phải  BỎ  RƠI  xuống  đất,  dường  như  đưa  cho  một  người  khuất  mặt  nào  đó    dưới  gầm  bàn  cầm  lấy  quyển  tự  điển  dầy  cộm). Kế  đó,  những  tiếng  nhịp    yêu  cầu  tôi  đưa  xuống  một  lọ  keo  ( hồ ) để  dán,    một  con  dao  nhỏ  chuốt  viết  ch́.  Những  vật  liệu  này  cũng  được  đưa  xuống  gầm  bàn,    sau  một  cơn  im  lặng  kéo  dài  độ  một  lúc,  tiếng  nhịp    báo  hiệu  “Đă  xong!”. Chúng  tôi  thâu  hồi  cuốn  tự  điển,  con  dao    lọ  keo,    nhận  thấy  trên  một  trang  giấy  rời  trong  quyển  tự  điển,    một  phó  bổn  phóng  bút  của  bức  thơ  nói  trên.    HPB  giải  thích  tác  dụng  của  con  dao  như  sau:
           “Một  phần  rất  nhỏ  chất  kim  khí  của  lưỡi  dao  được  giải  thể  thành  chất  hơi    dùng  để  phóng  ra  những  hàng  chữ  màu  đen.  Keo  hồ  cũng  được  chuyển  thành  trạng  thái  chất  hơi,      tác  dụng  hàn  gắn  các  nguyên  tử  chất  kim  khí  trong  cuộc  thí  nghiệm.”


         Cái  “bóp  phơi” đựng  bức  thơ  vẫn    trong  túi  áo  của  tôi  từ  khi  tôi  đến  thành  phố  này  cho  đến  cái  đêm  làm  cuộc  biểu  diễn.  Độ  nửa  giờ  trước  đó,  tôi  đă  đặt    lên  cái  kệ  phía  trên    sưởi,    ngay  trước  tầm  mắt  của  tôi mỗi  khi  tôi  ngẩng  mặt  nh́n  lên  từ  quyển  sách  tôi  đang  đọc.    HPB  vẫn  ngồi  gần  bên  tôi    cạnh  bàn    đang  chăm  chú  viết,  ngoài  ra  chúng  tôi  không    một  người  nào  trong  gian  pḥng.  Khi  tôi  so  sánh  bức  thơ    phó  bổn,  bằng  cách    cả  hai  tờ  giấy  lên  nhau,  th́  tuy  rằng  hai  bức  đều  giống  nhau,  nhưng  không  phải  rập  theo  nhau  từng  chi  tiết,  điều  này  lại  càng  làm  cho  hiện  tượng  phóng  bút  thêm  phần  thú  vị.


                                                             II

           Trong  thời  gian    Philadelphia,    rất  bận  rộn  công  việc  viết  bài  vở  cho  các  báo  chí,  trước  hết  nói  về  Thần  Linh  Học,    sau  đó,  về  khoa  Huyền  Môn  của  Đông  Phương.  Việc  phát  hành  quyển  sách  của  tôi  cũng  đă  đưa  đến  những  kết  quả  quan  trọng,    gây  nên  những  cuộc  b́nh  luận  kéo  dài  trong  báo  giới  Anh-Mỹ,  trong  đó    HPB    tôi  đều    đóng  góp  bài  vở    thiết  lập  những  mối  t́nh  thân  hữu  thêm  bền  chặt  với  nhiều  bạn  Đạo:  trong  sự  giao  dịch  bằng  thơ  từ,  chúng  tôi  đă  giải  bày  với  họ  toàn  bộ  các  vấn  đề  Huyền  Học  Đông  Phương    Tây  Phương.


            Không  bao  lâu,  chúng  tôi  đă  nhận  được  rất  nhiều  thơ  tín  từ  khắp  nơi  trên  thế  giới,  trong  số  đó    những  người  t́m  hiểu  nhờ  giải  đáp  thắc  mắc ; cũng    những  kẻ  đối  nghịch  gởi  thơ  chống  bang,  đả  kích ; và  những  cảm  t́nh  viên  gửi  lời  khen  tặng    khích  lệ.  Ông  Alexandre Aksakof,  trong  Hội  đồng    Vấn  của  Nga  Hoàng      một  nhà  Thần  Linh  Học  rất  hăng  say,  đă  yêu  cầu    HPB  dịch  quyển  sách  của  tôi  ra  tiếng  Nga,    chịu  đài  thọ  mọi  phí  tổn  ấn  loát    phát  hành.    nhận  lời    sau  đó  ít  lâu,  đă  xuất  hiện  tại  St. Petersburg  một  cuốn  văn  thư  khen  tặng  với  lời  lẽ  rất  khả  ái  của  giáo    N.A. Wagner,  một  chuyên  gia  Khoa  Học  thượng  thặng  của  trường  Đại  Học  Hoàng  Gia,  trong  đó  ông  tuyên  bố  rằng  trong  công  việc  điều  tra  sưu  tầm  của  tôi  về  các  hiện  tượng  Thần  Linh,  tôi  đă  thực  hiện “ĐÚNG  THEO  NHỮNG  ĐIỀU  KIỆN  CẦN  THIẾT  CỦA  MỘT  CUỘC  KHẢO  SÁT  KHOA  HỌC  NGHIÊM  CHỈNH    THẬN  TRỌNG”. Đó    một  chứng  thư    đương  nhiên  tôi  cảm  thấy  rất  lấy  làm  hănh  diện.  Các  nhà  bác  học  William  Crookes,  Alfred  Wallace  của  Anh,    Camille  Flammarion  của  Pháp,  cũng  đă  bày  tỏ  những  cảm  t́nh  ưu  ái  rất  nồng  hậu    thân  hữu.


          Vài  tháng  sau  đó, ông  C. C.Massey, một  người  Anh  từ  Luân  Đôn  sang  Mỹ  để  kiểm  chứng, bằng  cách  đích  thân  quan  sát  tại  chỗ, những lời  tường  thuật  của  tôi  về  các  hiện  tượng  hồn  ma  hiện  h́nh    nông  trại  Eddy. Chúng  tôi  vẫn  thường  xuyên  tiếp  xúc  với  nhau, và  đă  thông  cảm  nhau  đến  mức  nảy  sinh  một  t́nh  thân  hữu  đậm  đà giữa  chúng tôi, một  t́nh  bạn  thâm  giao  vẫn  kéo  dài  cho  đến  ngày  nay.


          Ngoài  ra, tôi  cũng    giao  dịch  bằng  thơ  từ    kết  thân  với  một  người bạn  khác, là  ông  Stainton Moses, Tiến    Văn  Khoa  tốt  nghiệp  Đại  Học  Oxford, làm  giáo    Văn  Chương    Anh  Ngữ  tại  trường  đại  học  Luân  Đôn. Tôi    gửi  cho  y  một  quyển  sách của  tôi    chúng  tôi  đă  trao  đổi  thơ  từ qua  lại  hầu  như  hàng  tuần  trong  nhiều  năm  liên  tiếp. Bức  thư  đầu  tiên  của  y  thảo  luận  về  những  điều  kiện    kết  quả  của  những hiện  tượng đồng  tử trong  những  buổi  họp  đàn. Y lưu ư tôi  đến  sự  kiện  này  là:


            “Sự    mặt  của  vài  hạng  người  trong  những  buổi  họp  đàn  gây  chướng  ngại  trầm  trọng      khi  làm    liệt  các  hiện  tượng.  Nguyên  nhân  không  phải  lỗi  tại  họ  hay    do  một  thái  độ  tinh  thần    đó ( chẳng  hạn  như  thiếu  đức  tin,.v..v…), mà    do  bầu  không  khí  chung  quanh  họ  gây  nên.  Người  đồng  tử  càng  nhạy  cảm  bao  nhiêu, th́  điều  đó càng  rỏ  rệt  bấy  nhiêu.”


           Ông Stainton Moses  viết  tiếp :


           “ Sự    mặt  của  nhiều  người  bạn  tôi  làm  cho  mọi  hiện  tượng  của  tôi  đều  ngưng  trệ,  điều  đó  làm  tôi  rất  bực  ḿnh    tôi  không  làm  sao  sửa  đổi  được.”


           Bàn  về  hiện  tượng  giải  thể ( biến  mất  xác ) của  người  đồng  tử ( như  trường  hợp  của    Compton,  được  diễn  tả  trong  cuộc  sống  của  tôi ), y  cho  rằng  đó    hiện  tượng  lạ  kỳ  nhất, mà  y  không  thể  giải  thích,  nhưng  y  tin  rằng  điều  đó  không  lạ    đối  với  các  nhà  Thuật    phương  Đông. Những    tôi  đă  tŕnh  bày  trong  một  Chương  trước  đây  về  quyền  năng  che  lấp  thị  giác  của  người  khác  bằng  thuật  thôi  miên  làm    liệt  các  dây  thần  kinh  trong  cặp  mắt  họ,  giải  đáp  được  điều    hiểm  này    loại  trừ  nhiều  sự    tín  dị  đoan  khác,  kể  cả  việc  cho  đó    ma  thuật.


          Thật  không  uổng  công  lao    viết  quyển  sách  đó,  nhờ      tôi    hai  người  bạn  tâm  giao  trọn  đời  như  Stainton moses    Massey,  nhưng  lại  c̣n  hơn  thế  nữa,    đă  thay  đổi  cuộc  đời  tôi    đánh  dấu  một  giai  đoạn  lịch  sử.  Trong  thời  gian  ông  Massey  lưu  trú  tại  Mỹ  Quốc,  chúng  tôi  đă  cùng  nhau  viếng  thăm  nhiều  nhà  đồng  tử,    ông    một  trong  những  người  đầu  tiên  đă  theo    HPB    tôi  để  thành  lập  Hội  Thông  Thiên  Học  Thế  Giới  vào  khoảng  cuối  năm  ấy ( 1875 ).

                                   
                                                           III

          Trước  đây  tôi    nói  về  Sigor B. , một  nghệ    người  Ư    phép  thuật  thần  thông,  đă    lần  đến  viếng    HPB  tại  New  York.  Một  buổi  tối  mùa  thu,  năm  1875,  ngay  sau  khi  thành  lập  Hội  Thông  Thiên  Học  tôi  đă  chứng  kiến  hiện  tượng  lạ  lùng  của  y  làm  mưa  bằng  cách  sai  khiến  những  tinh  linh  trong  không  gian.


          Đó    một  đêm  trăng  tṛn,  bầu  trời  xanh  biếc  không    một  cụm  mây  che.  Y  gọi    HPB    tôi  ra  ngoài  bao  lơn    dặn  tôi  hăy  b́nh  tĩnh    hoàn  toàn  im  lặng,    việc    xảy  ra.  Kế  đó,  y  lấy  trong  túi  áo    đưa  về  phía  mặt  trăng  một  tờ  giấy  cứng  độ  bằng  khuôn  khổ  tập  vở  học  tṛ,  trên  một  mặt  giấy    vẽ  bằng  màu  nước  một  số  h́nh  vuông  vức  trong  mỗi  ô  vuông    một  con  số  dị  kỳ,  nhưng  y  không  cho  tôi  cầm  lấy  hoặc  xem  xét.  Tôi  đứng  gần  bên    sau  lưng  y,      thể  cảm  thấy  thân  ḿnh  y  cứng  đơ  dường  như  trong  một  cơn  tập  trung  ư  chí  mănh  liệt.


           Độ  một  lát,  y  chỉ  vào  mặt  trăng    chúng  tôi  thấy  những  luồng  mây  đen  từ  vành  trăng  tuôn  ra    bay  về  phía  chân  trời.  Tôi  bất  giác  thốt  lên  một  tiếng  kêu  ngạc  nhiên,  nhưng  nhà  phù  thủy  nắm  chặt  tay  tôi  với  một  bàn  tay  cứng  như  sắt    ra  hiệu  cho  tôi  hăy  im  lặng.  Luồng  mây  đen  bay  ra  mỗi  lúc  càng  mau,    kéo  ra  càng  dài.    lan  dần  thành  h́nh  rẽ  quạt,    trong  chốc  lát,  những  đám  mây  đen  khác  xuất  hiện  trên  nền  trời  rải  rác  mỗi  chỗ  một  ít,  rồi  hợp  thành  khối    di  chuyển  rất  mau.  Nền  trời  đă  trở  nên  u  ám    mây  đen  bao  phủ,  mặt  trăng  biến  mất  dạng,    một  cơn  mưa  rơi  xuống  khiến  chúng  tôi  phải  lui  vào  nhà.  Không    sấm  sét,  cũng  không    gió,    chỉ    một cơn  mưa  rào  được  tạo  nên  trong  ṿng  một  khắc  đồng  hồ  bởi  con  người  kỳ    ấy.


           Khi  chúng  tôi  đến  gần  ánh  sáng  của  ngọn  đèn,  tôi  nhận  thấy  gương  mặt  nhà  phù  thủy  biểu  lộ  những  nét  rắn  rỏi  cương  nghị  như  sắt  thép    hai  hàm  răng  nghiến  chặt,  giống  như  sắc  thái    người  ta  nh́n  thấy  trên  gương  mặt  của  những  binh    tác  chiến  ngoài  mặt  trận.  Quả  thật  vậy,  y  vừa  mới  chiến  đấu    chinh  phục  những  đạo  binh  tinh  linh  ngũ  hành,  một  kỳ  công   đ̣i  hỏi  sự  tận  dụng  tất  cả  mọi  nghị  lực  trong  con  người.


            Signor B.  không    lại  với  chúng  tôi  lâu,    hối  hả  cáo  từ  ra  về,      đêm  đă  khuya,  nên  tôi  cũng  lui  về  pḥng  riêng  vài  phút  sau  đó.  Nền  đá  trên  đường  lộ  đă  trơn  ướt    mưa,  không  khí  lạnh    ẩm.  Tôi  vừa  vào  pḥng  ngồi  hút  thuốc  th́  nghe  tiếng  chuông  reo,    khi  ra  mở  cửa  trước,  tôi  thấy  Signor B.  đứng  trên  ngưỡng  cửa,  gương  mặt  tái  xanh    một  phần  đă  kiệt  sức.  Y  xin  lỗi    đă  làm  phiền  rộn  tôi    xin  một  ly  nước  uống.  Tôi  mời  y  bước  vào  nhà,  sau  khi  y  đă  uống  nước    ngồi  nghỉ  một  lát ,  chúng  tôi  mới  nói  chuyện  về  những  vấn  đề  huyền  học    câu  chuyện  kéo  dài  trong  một  lúc  khá  lâu.  Tôi  nhận  thấy  y  sẵn  sàng  thảo  luận  về  các  vấn  đề  văn  chương,  nghệ  thuật  hay  khoa  học,  nhưng  lại    cùng    dặt  khi  nói  về  khoa  Huyền  Môn    kinh  nghiệm    nhân  của  y  trong  việc  phát  triển  tâm  linh.  Tuy  nhiên,  y  giải  thích  rằng  tất  cả  những  giống  tinh  linh  ngũ  hành  đều    thể  chịu  sự  kiểm  chế  của  con  người  khi  y  đă  phát  triển  được  những  tiềm  năng  thiên  phú  của  ḿnh.  Chừng  đó,  ư  chí  của  y  sẽ  trở  nên  một  sức  mạnh    địch  làm  cho  tất  cả  những  giống  sinh  vật  thấp  kém  hơn  gồm  cả  các  loại  tinh  linh  ngũ  hành,  đều  phải  chịu  khuất  phục.


          Tôi  không    thật  sự  nh́n  thấy  luồng  khói  đen  từ  trong  vành  trăng  bay  ra,  đó  chỉ    một  ảo  giác  được  tạo  ra  bởi  sự  tập  trung    tưởng  của  y  trên  mặt  trăng,  nhưng  tôi  quả  thật    nh́n  thấy  những  đám  mây  đen  xuất  hiện  trên  nền  trời  trong  sáng    nh́n  thấy  mưa  rơi.  Y  lưu  ư  tôi  đến  sự  kiện  ấy  để  tôi  suy  gẫm.  Nhưng  bây  giờ  y  lại  đưa  cho  tôi  một  lời  khuyên    làm  cho  tôi  rất  ngạc  nhiên.


         Tôi  đă  thấy  y  rất  thuận  thảo  với    HPB,  họ  đă  từng  nói  chuyện  rất  cởi  mở   rất  thân  hữu  với  nhau  về  các  vấn  đề  thế  sự  cũng  như  về  khoa  học  huyền  môn,    cùng  so  tài  trong  việc  làm  các  hiện  tượng  như  hiện  tượng  hai  con  bướm  trắng.  Bởi  vậy,  tôi    cùng  ngạc  nhiên  khi  thấy  y  làm  ra  vẻ    mật    cảnh  giác  tôi  hăy  nên  đoạn  tuyệt  mọi  sự  giao  du  thân  mật  với  bà.  Y  nói      một  phụ  nữ  độc  ác  rất  nguy  hiểm,    sẽ  đem  tai  họa  đến  cho  tôi  nếu  tôi  cứ  tiếp  tục  mối  liên  hệ  giữa  tôi  với  bá.  Y  nói  y  đến  cảnh  giác  tôi  điều  ấy    do  lệnh  của  một  vị  Chân  Sư,    tôi  đă  từng  nghe  y  nhắc  đến  thánh  danh  trong  những  câu  chuyện  với    HPB    tôi.  Tôi  nh́n  thẳng  vào  mặt  y  để  thử    xem    một  ư  nghĩa  ẩn  dấu    chăng  trong  những  lời  nói      đó,    sau  cùng  tôi  nói:
         “Thưa  ông,  tôi  biết  rằng  đấng  Cao  Cả    ông  vừa  nhắc  đến  quả    thật.  Sau  khi  đă  nh́n  thấy  ông  trổ  phép  thuật  thần  thông  vừa  rồi,  tôi    đủ  mọi    do  để  ngờ  rằng  chắc  ông    liên  hệ  với  Ngài  hay  với  Quần  Tiên  Hội.  Tôi  sẵn  sang  tuân  lịnh  ngài  cho    phải  hy  sinh  tính  mạng  tôi.  Bây  giờ  tôi  yêu  cầu  ông  hăy  đưa  ra  một  bằng  chứng  cụ  thể  để  chứng  minh  một  cách    ràng,  tích  cực    không  thể  nghi  ngờ,  rằng    HPB    người  yêu  phụ    ông  diễn  tả,    Chân    muốn  tôi  phải  chấm  dứt  mọi  sự  liên  hệ  với  bà.”
          Người  phù  thủy  Ư  do  dự,  nói  lắp  bắp  vài  lời    nghĩa,    đổi  đề  tài  nói  qua  chuyện  khác.  Tuy  y    thể  kéo  mây  đen  ra  khỏi  mặt  trăng,  y  vẫn  không  thể  gieo  sự  ngờ  vực  hắc  ám  vào  ḷng  tôi  đối với  người  bạn  Đạo    người  hướng  dẫn  tôi  đi  xuyên  qua  những  ngơ  ngách    hiểm  của  khoa  Huyền  Môn.  Sau đó, tôi có kể lại sự vệc này cho bà HPB nghe! Bà mỉm cười nói  rằng  tôi  đă  vượt  qua  cuộc  thử  thách    đẳng  đó  một  cách  tốt  đẹp,    viết  vài  chữ  cho  Signor B.  khuyên  ông  ta  hăy  “ quên  đường  đưa  đến  nhà  bà”.


                                         CHƯƠNG BỐN

                                 NHÀY VÀO V̉NG CHIẾN


Những
  cuộc  tranh  luận    bút  chiến    các  bài  phóng  sự    quyển  sách  của  tôi  đă  gây  ra  trong  các  giới,  trong  đó    PHB    tôi  đều    dự  phần ; sự  tố  giác    bênh  vực  các  đồng  tử  Holmes; và  những  cuộc  b́nh  luận  sôi  nổi  kéo  dài  về  khoa  Thần  Linh  Học  trong  báo  giới  Âu-Mỹ,  đă  đưa  đến  vài  hậu  quả  thuận  lợi,  trong  đó    hai  điều  quan  trọng  là :


         1._  Việc  tŕnh  bày  những  quan  niệm  Huyền  Môn  của  Đông  Phương,  làm  cho  thế  giới  Tây  Phương  phải  chú  ư; 


         2._  Việc  khai  sinh  ra  hội  Thông  Thiên  Học  thế  giới.  Sự  thành  lập  Hội  Thông  Thiên  Học  không  phải    do  phép  mầu  của  các  Chân    theo  những  chuyện  bịa  đặt  láo  lếu,    chỉ    do  hậu  quả  tự  nhiên  của  những  giai  đoạn  diễn  biến  tuần  tự,  như  độc  giả  sẽ  thấy  trong  những  thơ  từ    chúng  tôi  viết  cho  các  báo  trong  những  thuở  ban  đầu,    trích  lục  vài  đoạn  dưới  đây.  Những  chi  tiết    vẻ  khô  khan,  nhưng    tầm  mức  quan  trọng  như  những  tài  liệu  lịch  sử.


         Như  đă  nói  trước  đây,  sự  công  kích    tính  cách  tự  quảng  cáo  của  bác    Beard,  một  vị  lương  y  chuyên  khoa  chữa  trị  bằng  điện    New  York,  nhằm  vào  các  đồng  tử  Eddy,    sự  tuyên  bố  láo  rằng  ông  ta    thể  tạo  ra  những  hiện  tượng  đó  “với  những  đồ  y  trang  rẻ  tiền  chỉ  tốn  chừng  ba  đô  la”,  đă  làm  cho    HPB  phẫn  nộ  đến  mức    đă “lột  da  sống”  ông  ta  trong  một  bức  thơ  trả  lời  nẩy  lửa  đăng  trên  nhật  báo  Graphic,    thách  đố  ông  ta  dám  đánh  cuộc  năm  ngàn  đô  la  ăn  thua  với    về  sự  việc  trên.


          Chính  việc  ấy  đă  làm  cho  quần  chúng  Mỹ  lần  đầu  tiên  biết  đến  tên  tuổi  bà.  Lẽ  tự  nhiên,    sự  kết    thành  hai  nhóm  đối  lập : nhóm  Thần  Linh  Học    các  đồng  tử  theo  về  phe    HPB , c̣n  những  kẻ  chống  đối,  nhất    các  nhà  bác  học    khuynh  hướng  duy  vật,  th́  đứng  về  phía  những  người  ủng  hộ  bác    Beard.  Kẻ  thủ  lợi  trong  việc  tranh  chấp  này  lại  chính    ông  Beard,    đó    một  mánh  khóe    tác  dụng  quảng  cáo  cho  tên  tuổi  ông    khoa  điện  y  của  ông  với  kết  quả  quá  mức  dự  liệu.  Các  nhật  báo  Mỹ  đều  b́nh  luận  về  bức  thơ  khiêu  khích  nẩy  lửa  của    HPB  chống  bác    Beard.    cũng  đă  trả  lời  các  báo,  do  đó  tên  tuổi  của    càng  ngày  càng  vang  dội  khắp  nơi  khi  cuộc  tranh  luận  càng  kéo  dài.


         Như  đă  nói  trước  đây,    đứng  trên  lập  trường  của  một  nhà  Thần  Linh  Học,  không  những  tin  tưởng    c̣n  BIẾT    rằng  những  trí  lực  “nhiếp”  vào  các  đồng  tử  để  giáng  ngôn  giáng  bút,  làm  các  hiện  tượng  hữu  h́nh,    hiện  h́nh  toàn  diện  hoặc  cục  bộ,  chẳng  hạn  như  chỉ  hiện    những  gương  mặt,  bàn  tay  hoặc  bàn  chân,  hay  những  phần  khác  trong  thân  ḿnh,  tất  cả  đều    do  tác  động  của  những  vong  hồn  người  chết,  không  hơn  không  kém.


           Về  sau,    HPB  cho  tôi  biết  rằng  sự  bộc  phát  của  những  hiện  tượng  thông  linh    khắp  nơi,  chính    do  Quần  Tiên  Hội  phát  động  như  một  khí  cụ  để  trợ  giúp    Tiến  Hóa.  Như  vậy,  những  hoạt  động    bút,  đồng  tử,  không  thể  bị  coi  như  tuyệt  đối  bất  hảo  như  vài  nhà  cực  đoan  Thông  Thiên  Học  đă  tuyên  bố,    theo  chỗ  tôi  biết  về  các  đấng  Chân  Sư,  th́  người  ta  không  thể  quan  niệm  rằng  các  ngài  lại  dùng  một  phương  tiện  hoàn  toàn  bất  hảo,  dẫu  rằng    sự  lợi  ích  của  nhân  loại.


          Trong  số  báo  của  tờ  Daily  Graphic      HPB  đă  gởi  đăng  bức  thơ  chống  bác    Beard,  cũng    đăng  tiểu  sử  của    do    cung  ứng  tài  liệu  theo  lời  yêu  cầu  của  ṭa  soạn.  Bà viết:


       … “Năm  1858,  tôi  trở  về  Paris      dịp  làm  quen  với  nhà  Thần  Linh  Học  Daniel  Home… Ông  này  đă  cải  hóa  tôi  theo  Thần  linh  Học… Sau  đó,  tôi  trở  về  Nga    cải  hóa  cha  tôi  theo  thần  Linh  Học”

            Trong  một  bài  báo  bênh  vực  các  nhà  đồng  tử  Holmes  chống  những  kẻ  đả  kích,    nói  về  Thần  Linh  Học  như “tín  ngưỡng  của  chúng  tôi”,  “lư  tưởng  của  chúng  tôi”; và    một chỗ  khác,    viết:


           “Nếu bọn  Thần  Linh  Học  chúng  tôi  bị  người  ta  chê  cười,  nhạo  bang, chế  diễu, châm  chọc,  chúng  tôi  phải  biết  ít  nhất  lư do  tại  sao?”


           Trong  tờ  báo  Spiritual  Scientist  (Khoa  Học  Tâm  Linh) ra  ngày  8-3-1875,    nói    vài  khuynh  hướng  chỉ  rằng  mặc  dầu  tính  cách  chân  thực  thiêng  liêng  của  khoa  Thần  Linh  Học  chúng  ta,    giáo    của  những  vị  bảo  trợ    h́nh  của  chúng  ta (những  vong  linh  khuất  mặt  của  những  họp  đàn),  vài  nhà  Thần  Linh  Học  đă  không  biết  thừa    hội  đó  để  học  bài  học vô      công  bằng.

Đó    một  việc  làm  rất  can  đảm,  đầy  hào  khí,  hoàn  toàn  biểu  lộ  cái  đặc  tính  của    khi    nhảy  vào  ṿng  chiến    bất  cứ  mọi    tưởng  nào      đảm  nhận  như  cái  chính  nghĩa  của  ḿnh.  Như  đă  nói  trược  đây,  chính    ḷng  yêu  tự  do    chính  nghĩa      đă  cùng  với  một  nhóm  phụ  nữ  chiến  đấu  trong  hàng  ngũ  của  nhà  ái  quốc  Garibaldi    mạo  hiểm  lao  ḿnh  vào  trận  đánh  ác  liệt    Mentana.  Bây  giờ,  khi  thấy  cần  phải  binh  vực  cái    tưởng  Tâm  Linh  để  chiến  đấu  chống  lại  Khoa  Học  Duy  Vật,  th́    chấp  nhận  cả  sự  ô  nhiễm  khi  phải  tiếp  xúc  với  bọn  đồng  tử  giả  mạo,  với  những  loại  âm  binh  bất  hảo,  hay  với  phe    luân  trong  giới  Thần  Linh  Học  chủ  trương  tự  do  luyến  ái    thoát  ly  gia  đ́nh.  Không  một  điều  bất  lợi  nào  trong  những  sự  việc  kể  trên  làm  cho    do  dự    chỉ  trong  một  lúc,  khi    thấy  cần  đứng  vào  hàng  ngũ  của  phái  thần  Linh  Học  chống  lại  Duy  Vật  chủ  nghĩa.


          Đường  lối  của      thể  bị  vài  người  lên  án,  ngôn  ngữ  của      thể  bị  coi  như  hoàn  toàn  đồng  ư    chấp  nhận  cái  Thần  Linh  Học    về  sau    đă  lên  tiếng  công  kích  thậm  tệ  không  tiếc  lời.  Nhưng  nếu  lấy  công  tâm    xét  đoán,  người  ta  phải  nhận  định    cái  t́nh  trạng    hội  của  thời  bấy  giờ.

 
          Người  ta  phải  nhận  định    cái  kiến  thức  sâu  rộng  của  bà,  trên    thuyết  lẫn  cả  thực  hành,  về  những  hiện  tượng  huyền  linh    người  đời  cần  phải  biết  trước  khi  bị  lôi  cuốn  theo  cái  trào  lưu  độc  hại  của  chủ  nghĩa  Duy  Vật.  Nhiều  người  trong  chúng  ta    lẽ  đă  dùng  một  ngôn  ngữ    dặt  cẩn  thận  hơn  để  tránh  khỏi  bị  kẹt  vào  bao  nhiêu  sự  mâu  thuẫn    rối  rắm  về  sau  này.  Nhưng  trường  hợp  của    hoàn  toàn  khác  hẳn,      một  nhân  vật  độc  đáo  trên  tất  cả  mọi  phương  diện,  về  trí  lực    quyền  năng  thần  bí,  cũng  như  về  khí  chất    về  phương  pháp  tranh  luận.  Một  mục  đích  của  tập  Hồi    này    để  chỉ  rằng,  với  tất  cả  những  sự  thiếu  sót  rất  cận  nhân  tính    tật  chứng  ngáo  ngổ    người  ta    thể  gán  cho  bà,    vẫn    một  nhân  vật  đặc  biệt,  phi  phàm,  một  người  dành  trọn  cuộc  đời  làm  một  công  việc    đại  phụng  sự  thế  gian,  nhưng  lại  bị  người  đời  phê  phán  một  cách    quáng      ơn  bạc  nghĩa.


                                                  II

          Trong  những  cuộc  thí  nghiệm  riêng    giữa  chúng  tôi  về  những  hiện  tượng  thần  linh,    HPB  đă  chỉ  dẫn  cho  tôi  biết  về  sự  hiện  hữu  của  giới  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH.  Nhờ  đó,  tôi  mới  biết  phân  biệt  hai  loại  sinh  vật  khác  nhau  trong  việc  tạo  nên  các  hiện  tượng, là  những  tinh  linh  ngũ  hành    những  vong hồn  người  chết.

Vào  khoảng  cuối  năm  1874-75,  nhờ  một  dịp  may  hiếm    được  đọc  qua  những  quyển  sách  quư  về  Khoa  Học  Huyền  Môn  tại  thư  viện  Watkinson,  nên  tôi  được  chuẩn  bị  khá  nhiều  về  phần  kiến  thức  để    thể  hiểu  những  lời  giải  thích  khẩu  truyền  của      những  hiện  tượng  thông  linh  kỳ  diệu  do    tạo  ra  để  chứng  minh  cho  những  lời  giải  thích  đó.  Thời  kỳ  học  hỏi  của  tôi  lúc  ấy  qua  sách  vở,  lời  dẫn  giải  khẩu  truyền    sự  quan  sát  các  hiện  tượng,  cũng  đủ  chuẩn  bị  cho  tôi    được  một  bản  lĩnh  khá  vững  vàng  về  Khoa  Học  Huyền  Môn  cho  đến  khi    bắt  đầu  công  việc  soạn  bộ  sách “Vén  màn  Isis” và  mời tôi  cùng  cộng  tác.

Khoảng  đầu  năm  1875,  chúng  tôi  bắt  đầu  lưu  ư  đến  tờ  “Khoa  Học  Tâm  Linh”  một  tờ  tạp  chí  tiến  bộ    độc  lập  tại  Boston  do  ông  Gerry  Brown  làm  chủ  bút    chủ  nhiệm.


          Nhu  cầu  cấp  bách  của  thời  bấy  giờ    một  tờ  báo  vừa  được  coi  như  một    quan  ngôn  luận  của  Thần  Linh  Học,  lại  vừa    thể  khuyến  khích  các  nhà  Thần  Linh  Học  hăy  quan  sát  chặt  chẽ  hơn  tác  phong  hạnh  kiểm    khả  năng  thông  linh  của  những  đồng  tử  của  họ,    hăy  kiên  nhẫn  lắng  nghe  những    thuyết  về  các  vong  linh    cơi  âm  cùng  sự  giao  tiếp  của  họ  với  người  sống.  Những  tạp  chí  khác    kỹ  hơn  thuộc  loại  này  lại  quá  bảo  thủ,  c̣n  tờ  báo  của  ông  Brown  dường  như  đang  tiến  bước  bằng  cách  mạnh  dạn  chỉ  trích  những  sự  lạm  dụng  đương  thời.  Một  bức  thơ  của  chúng  tôi  gởi  cho  ông  Brown  dăng  trên  tạp  chí  ấy  ngày  8-3-1875  khởi  đầu  những  mối  liên  hệ  giữa  chúng  tôi,    trong  ṿng  một  tháng  sau,  y  đă  được  đặt  dưới  sự  chăm  sóc  biệt  đăi  của  những  thế  lực  hỗ  trợ  sau  lưng    HPB.
          Trong  số  tạp  chí  tháng    năm  ấy,  tôi    đăng  một  bản  thông    đặc  biệt  với  tựa  đề: “THÔNG    QUAN  TRỌNG  CHO  CÁC  NHÀ  THẦN  LINH  HỌC”.  Điều  quan  trọng  của    đối  với    ông  Gerry  Brown    lời  hứa  trợ  giúp  bài  vở    tài  chánh  cho  y,  c̣n  đối  với  công  chúng  hâm  mộ  phong  trào  Thần  Linh  Học,  th́    cho  biết  rằng  tờ  tạp  chí  ấy  sẽ  được  sử  dụng  như    quan  của  một  phong  trào  mới,  nhằm  mục  đích  đặt  khoa  Thần  linh  Học    Mỹ  trên  một  nền  tảng  triết  học    trí  thức  hơn  trước,  thay    chỉ  chú  trọng  đến  những  thông  điệp    bút    những  hiện  tượng  tầm  thường,  không  đủ  thỏa  măn  những  đầu  óc  khoa  học.


          Chính  tôi  tự  thảo  ra  tờ  thông    đó,  tự  sửa  chữa  lấy  bản  kẽm  in    tự  đài  thọ  phí  tổn  ấn  loát.  Nói  thế    nghĩa    ngoài  tôi  ra,  không  một  ai  nhúng  tay  vào  công  việc  này,  hoặc  thêm  bớt  một  chử  nào  trong  bản  thảo,  hoặc  điều  khiển  hành  động  của  tôi  bằng  bất  cứ  cách  nào.  Tôi  viết  bản  Thông    ấy  để  thi  hành  ư  định  của  Chân  Sư,  ngài  dạy  chúng  tôi  hăy  trợ  giúp  vị  chủ  nhiệm  tờ  tạp  chí  ấy  trong  giai  đoạn  khó  khăn  hiện  tại  bằng  đủ  mọi  cách  về  phương  tiện  tài  chánh  cũng  như  đóng  góp  bài  vở.


            Khi  bản  Thông    đă  soạn  thảo  xong    đem  lên  máy  in,  tôi  hỏi    HPB  trong  một  bức  thơ  rằng  theo  ư    th́  tôi    nên    tên  vào  bản  thông    ấy  không.    tră  lời  rằng  theo  ư  muốn  của  các  Chân  Sư,  th́    phải  được    tên  như  sau: “Thay  mặt  HỘI  ĐỒNG  TIÊN  THÁNH,  PHÂN  BỘ  LUXOR (AI  CẬP )”. Tôi  làm  y  theo  lời,    bản  Thông    được  công  bố.


           Sau  đó,    giải  thích  rằng  công  việc  làm  của  chúng  tôi  được  giám  sát  bởi  một  Ủy  Ban  gồm  Bảy  vị  Chân    thuộc  phân  chi  Ai  Cập  của  Quần  Tiên  Hội.      chưa  đọc  qua  bản  Thông    lần  nào,  lúc  ấy  tôi  mới  cầm  đưa  cho    một  bản      bắt  đầu  đọc  một  cách  chăm  chú.  Đọc  xong,    bất  giác  cười  lớn,    bảo  tôi  nh́n  xem  những  chữ  cái  khoản  thủ    đầu  câu  của  mỗi  doạn  văn  trong  đó.  Tôi  lấy  làm  ngạc  nhiên    cùng    nhận  thấy  rằng  những  chữ  cái  đó  nếu  đem  ráp  lại  th́  hợp  thành  thánh  danh  của  vị  Chân    Ai  Cập,    phụ  của  tôi  lúc  ấy.  Sau  đó  ít  lâu,  tôi  nhận  được  một  chứng  thư  viết  bằng  mực  vàng  trên  một  tờ  giấy  xanh,  dầy,  cho  biết  rằng  tôi  được  chính  thức  liên  hệ  đến    quan  này,    đặt  dưới  sự  giám  sát  của  ba  vị  Chân  Sư.


            Trong  những  kinh  nghiệm  huyền  linh  của  tôi  hồi  thuở  ban  đầu,  không      gây  một  ấn  tượng  sâu  xa  vào  trí  óc  tôi  hơn    những  sự  việc  trên.  Điều  ấy  chứng  minh  cho  tôi  thấy  rằng  sự  chuyển  di    tưởng  giữa  Chân      đệ  tử  vẫn    một  việc  xảy  ra  thường  xuyên,    không  gian  không  hề  làm  ngăn  cách,  chướng  ngại.    cũng  chứng  tỏ  rằng  trong  công  việc  phụng  sự  thế  gian,  người  đệ  tử  thường  được  các  đấng  Cao  Cả  d́u  dắt,  hướng  dẫn  để  làm  những  công  tác    các  ngài  muốn  được  thực  hiện  trong  khi  đó  người  đệ  tử  vẫn  không  hề  hay  biết  chi  cả.


          Trong  toàn  bộ  lịch  sử  hội  Thông  Thiên  Học  thế  giới,  ai  đă  biết  được    bao  nhiêu  trường  hợp    mỗi  người  trong  chúng  ta    t́nh  đă  làm  những    cần  phải  làm,  nhưng  những  việc  đó    lẽ  đă  không  được  thi  hành  nếu  không    một  ảnh  hưởng  nào  từ  bên  ngoài  đến  thúc  đẩy  chúng  ta?. Và    bao  nhiêu  lỗi  lầm  tai  hại    mỗi  người  trong  chúng  ta  đă  làm,  bởi    chúng  ta  được  tự  do  hành  động  theo  những  dục  vọng    nhân,  kết  quả  của  sự    minh,  hèn  kém,  hay  thành  kiến  chật  hẹp  riêng    của  chính  ḿnh?  Người  ta  thường  tự  hỏi  tại  sao  những  vụ  tranh  chấp,  xung  đột,  những  cơn  biến  động  gây  ra  bao  nhiêu  tai  tiếng,  xúc  phạm  đến  thanh  danh  của  Hội,  lại  không  được  các  Chân    tiên  liệu  trước    ngăn  chận  đừng  để  cho  chúng  xảy  ra?  Tại  sao    HPB  không  được  cho  hay  trước  về  những  hành  động  của  những  kẻ  phản  bội,    trong  những  cơn  khủng  hoảng  nghiêm  trọng  nhất  của  hội  Thông  Thiên  Học,  không  hề  thấy    sự  trợ  giúp  nào,    không    một  vị  hướng  dẫn  tâm  linh  nào  xuất  hiện?


            Lẽ  tất  nhiên,  những  câu  hỏi  đó  thật  rất    lư.  Các  Chân    vốn  đă  nắm  vững  định  luật  Nhân  Quả,  không  thể  xử  dụng  chúng  ta  như  những  h́nh  nộm  để  cho  các  ngài  giật  dây,  hoặc  như  những  con  thú  nhà  đă  được  tập  luyện  cho  biết  làm  theo  ư  chủ.  Các  ngài  không  thể  xử  dụng  chúng  ta  một  cách  máy  móc  theo  những  đường  lối  đă  định  sẵn,  can  thiệp  vào  nghiệp  quả  của  mỗi  người,    xâm  phạm  đến  quyền  tự  do  hành  động  của  chúng  ta.


            Vào  một  thời  kỳ  nhất  định,  trong    tiến  hóa  của  nhân  loại,    lẽ  cần    một  người  nào  đó  phải  làm,  viết,  hoặc  nói  một  điều    đó,    những  điều  này,  khi  đă  thực  hiện  xong  sẽ  đưa  đến  cả  một  loạt  những  hậu  quả  mong  muốn.  Nếu  điều  đó  không  tạo  nên  nghiệp  quả  bất  lợi  cho  đương  sự,  th́  sự  thúc  đẩy    vi  để  làm  công  việc  cần  thiết  đó  sẽ  được  đưa  đến  cho  y.


         Thí  dụ, vận  mạng  của  thế  giới  nằm  trong  tay của  vài  ba  nhà  lănh  tụ  hay  nguyên  thủ  quốc  gia  của  một  vài  nước  siêu  cường.  Nếu  một  biến  cố  nhỏ  nhặt  nào  đó  xảy  ra  một  quốc  gia    thể  bị  tiêu  diệt,  hoặc  một  triều  đại  trở  thành  một  tai  họa  cho  cả  một  dân  tộc,  hoặc một  thời  kỳ  ḥa  b́nh    tiến  bộ  cho  nhân  loại    thể  mở  màn. Nếu  trong  giai  đoạn  lịch  sử  đó, một  trong  những  điều  kể  trên  cần  phải xảy  ra    sự  lợi  ích  chung  của  toàn  thể  nhân loại, và  nếu  KHÔNG    MỘT  CÁCH  NÀO  KHÁC  để  gây  nên  cơn  khủng  hoảng  cần  thiết,  th́  chừng  đó  sự  gợi  ư  cho  một  vị  lănh  tụ  ra  tay  hành  động    thể  đến  từ  bên  ngoài.


           Đây    một  trường  hợp  đơn  giản  hơn,  đă  xảy  ra  trong  lịch  sử.  Trong  khoa  cổ  học  Ai  Cập,  người  ta  đă  đạt  tới  một  tŕnh  độ    sự  tiến  bộ  của  thế  giới  đ̣i  hỏi  một  cái  ch́a  khóa  tinh  vi  hơn  để  đọc  những  cổ  tự    mật  trong  các  Kim  Tự  Tháp.  Thời  giờ  đă  điểm  để  tiết  lộ  thêm  những  chân    thâm  sâu      cùng  quan  trọng  hàm  xúc  trong  khoa  cổ  tự  của  nền  văn  minh  cổ  Ai  Cập.    không    cách  nào  khác,  một  người  nông  dân    Rập  được  gợi  ư  để  cho  y  đào  xới  một  khoảnh  đất  nào  đó,  hoặc  khai  quật  một  ngôi  mả  đá    cậy  bật  lên  một  cái  nắp  ḥm  đựng  xác  ướp.  Người  ta  t́m  thấy  một  bia  đá  hoặc  một  mớ    chỉ-thảo    khắc  cổ  tự,  y  bèn  đem  bán  cho  một  nhà  khảo  cổ,  rồi  người  này  truyền  đến  tay  các  nhà  Ai  Cập  học  uyên  bác  như  Champollion,  Young  hay  Ebers.  Các  ông  này  mới  t́m  thấy  cái  ch́a  khóa  đă  mất,    nhờ  đó  mới  đọc  được  nhiều  bản  văn  cổ  xưa    cùng  quan  trọng.  Sự  gợi  ư    vi  cho  người  nông  dân  thất  học  đào  xới  lên  những  tài  liệu  cổ  đă  bị  chôn  lấp  từ  lâu,    do  bàn  tay  trợ  giúp  của  các  đấng    h́nh,  tuy  ẩn  tàng  nhưng  luôn  luôn  d́u  dắt  sự  tiến  bộ  của  nhân  loại.


          Xin  kể  một  trường  hợp    nhân  gần  gũi  với  chúng  ta  hơn:  một  ngày  nọ  tôi  được  gợi  ư  đi  mua  một  tờ  báo;  trong  đó  tôi  đọc  thấy  một  chuyện    đó,    thúc  đẩy  tôi    một  hành  động  tự  nhiên;  việc  ấy  làm  cho  tôi  tiếp  xúc  với    HPB,    bởi  đó  mới    hội  Thông  Thiên  Học  ra  đời,    những  hậu  quả  do  Hội  này  đem  đến.  Khi  làm  cái  bước  đầu  tiên,  tôi  không    công  đức    cả.  Nhưng  nếu  việc  ấy  gây  nên  những  hậu  quả  tốt  lành,  nếu  tôi  đóng  góp  công  lao  sức  lực  để  làm  việc  với  một  tinh  thần  hiến  dâng  nhiệt  thành    vị  tha,  th́  chừng  đó  tôi  cũng  được  chia  xẻ  những  nghiệp  tốt    việc  ấy  đem  đến  cho  nhân  loại.


            lần  tôi  thấy  những  người  dân  Tích  Lan    tỉnh  Galle  tranh  nhau  đưa  tay  ra  sờ  vào  những  rổ  thúng  đựng  đồ  vật  thực  của  những  nhà  giàu  đem  đi  cúng  dường  cho  các    tăng.  Hỏi  ra  mới  biết    họ  tin  tưởng  rằng  do  ḷng  ưu  ái  chân  thành  đối  với  hành  động  bố  thí  của  kẻ  khác,  họ  cũng  được  chia  xẻ  một  phần  công  đức  của  các  thí  chủ.  Tôi  nghiệm  thấy  điều  ấy  rất  đúng,      ghi  nhận  cái  ư  tưởng  đó  trong  quyển “PHẬT  GIÁO  VẤN  ĐÁP” của  tôi  soạn.


                                            CHƯƠNG NĂM


                         SỰ LỢI HẠI  CỦA  VẤN  ĐỀ  ĐỒNG  CỐT


          Mọi  người  đều  đồng  ư  rằng  những  người  đồng  cốt  chuyên  nghiệp, mà  vấn  đề  cơm  áo  hàng  ngày  tùy  thược  nơi  khả  năng  của  họ  để  tạo  nên  các  hiện  tượng  thông  linh  khi    thân  chủ  đến  viếng,  trong  ngững  cơn  nguy  cấp,  túng  thiếu,  thường  bị  bắt  buộc  làm  những  hiện  tượng  giả  trá  để  thay  thế  vào  khi    những  hiện  tượng  thật  không  thể  xuất  hiện. Hầu  hết  các  giới  đồng  cốt  hành  nghề  đều  nghèo,  thường    những  người  phế  tật,  nhưng  bắt  buộc  phải  nuôi  con  hay  bảo  dưỡng  những  ông  chồng  lười  biếng  hay  bệnh  hoạn.  Vấn  đề  sinh  kế  của  họ  thật    cùng  bấp  bênh,  bởi    trạng  thái  đồng  cốt  tùy  thuộc  những  điều  kiện  tâm  sinh    cũng  như  những  điều  kiện  thời  tiết  ngoài  khả  năng  kiểm  soát  của  họ.  Bởi  vậy,  nên  không  phải    một  chuyện    nếu  trong  những  cơn  túng  quẩn,  dưới  sự  thúc  đẩy  của  những  nhu  cầu  cấp  bách,  họ  không  c̣n  đặt  nặng  vấn  đề  lương  tâm.  Lẽ  tự  nhiên,  họ  đễ  bị  lung  lạc  trước  sự  cám  dỗ    những  thân  chủ    tín  bày  ra  trước  mắt  họ,  những  người  này  không  đ̣i  hỏi    hơn    trả  tiền  để    bị  gạt.    sao,  đó    những  điều    các  đồng  tử  chuyên  nghiệp  giải  thích  cho  tôi  nghe.


           Họ  đă  kể  lại  cho  tôi  nghe  cuộc  đời  khốn  khổ  của  họ,  việc  họ “có đồng” đă  tác  hại  thế  nào  trong  thời  thơ  ấu,  làm  cho  họ  bị  lẩn  tránh    ngược  đăi  bởi  những  bạn  học  cùng  lớp,  bị  theo  dơi    chọc  ghẹo  bởi  những  kẻ    ṃ, bị  dùng  làm  một  hiện  tượng  lạ  mắt  bởi  những “gánh  xiếc” lưu  động trả  tiền  cho  cha  mẹ  họ  thụ  hưởng,    mang  lấy  những  chứng  bệnh  hoạn  thần  kinh,  bệnh  lao  phổi,  hay  tràng  nhạc,  làm  tàn  phá  sức  khỏe  của  họ.


           Hardinge  Britten,  một  nhà  chuyên  môn  khảo  cứu  về  vấn  đề  thông  linh      nhiều  kinh  nghiệm  về  các  giới  đồng  cốt, có  nói  rằng  bà ít  khi  thấy  một  đồng  tử  nào    không    một  khí  chất  bệnh  hoạn,  thường      bệnh  tràng  nhạc  hay  bệnh  lao    sự  khám  nghiệm cơ  thể  cho  thấy  rằng  họ  cũng    thường  hay    những  ám  tật  nơi    quan  sinh  dục.  Trong quyển “Art  Magic”, bà  viết:


          “MỘT  SỰ  VIỆC    Ư  NGHĨA  ĐỂ  LƯU  Ư  CÁC  NHÀ  SINH      TÂM    HỌC,    DƯỜNG  NHƯ  NHỮNG  NGƯỜI  MẮC  BỆNH   TRÀNG  NHẠC VÀ  BỆNH  SƯNG  HẠCH  TUYẾN,  THƯỜNG    NHỮNG  MÔI  TRƯỜNG  THUẬN  LỢI  ĐỂ  CHO  CÁC  VONG  LINH  TÁC  ĐỘNG  TRÊN  ĐỊA  HẠT  VẬT  CHẤT  HỮU  H̀NH.  NHỮNG  PHỤ  NỮ  H̀NH  VÓC  MẢNH  MAI,  YẾU  ĐUỐI,    NHỮNG  NGƯỜI    TÍNH  CHẤT  KHIẾT  BẠCH,  NGÂY  THƠ,    TỘI,  NHƯNG  HỆ  THỐNG  HẠCH  TUYẾN  CỦA  HỌ  ĐĂ  BỊ  GẬM  NHẤM  BỞI  CHỨNG  BỆNH  TRÀNG  NHẠC,  THƯỜNG  DỄ  TRỞ  NÊN  NHỮNG  KHÍ  CỤ  HỮU  HIỆU  CHO  SỰ  TÁC  ĐỘNG  CỦA  CÁC  VONG  LINH  TRÊN  CƠI  VẬT  CHẤT  HỒNG  TRẦN”.


           Những  hoạt  động  đồng  cốt  thực  hành    những  nơi  công  cộng,    một  hiểm  họa  trầm  trọng  trên  phương  diện  sức  khỏe  thể  chất  cũng  như  trên  phương  diện  tinh  thần.  Tất  cả  mọi  y    đều  nói  rằng  ngủ  trong  một  gian  pḥng  không    thoáng  khí,  chung  lộn  với  một  số  đông  người  hỗn  tạp,  trong  số  đó    người  bệnh  tật    một  điều    cùng  nguy  hiểm      thể    một  tai  họa  làm  chết  người.  Nhưng  nguy    này  c̣n  không  thấm  vào  đâu  so  với  cái  hiểm  họa  ŕnh  rập  một  bên  người  đồng  cốt  hành  nghề  công  cộng,  phải  chấp  nhận  sự    mặt    chịu  sự  xâm  nhập  từ  điển  của  tất  cả  mọi  người  đủ  các  giới    đủ  mọi  thành  phần.  Trong  số  đó,  đương  nhiên    người  tốt  kẻ  xấu  lẫn  lộn,  gồm  cả  những  người  bệnh  tật  về  thể  xác  cũng  như  về  tinh  thần,  những  kẻ  thô  bạo,  dâm  ác,  vật  chất,  ô  trược,    đạo,    tín  ngưỡng,  sa  đọa,  tội  lỗi  trong    tưởng,  lời  nói,  hay  việc  làm    trái  ngược  lại.  Thật  tội  nghiệp  thay  cho  những  người  đồng  cốt  bất  hạnh  ấy;  chẳng  khác  nào  những  gái  làng  chơi    tiền    cung  hiến  thể  xác  cho  mọi  người,  họ  để  cho  phần  tâm  linh  của  họ  chịu  sự  ô  nhiễm,  dày    của  khách  bốn  phương!  Thật  hạnh  phúc  thay  cho  những  người  nào    thể  phát  triển    thực  hành  những  khả  năng  thông  linh  của  ḿnh  trong  những  hoàn  cảnh  tịnh  khiết    lành  mạnh,  giữa  một  tập  đoàn  chọn  lọc  gồm  những  người  ưu  tú,  tốt  lành: đó    trường  hợp  của  những  nhà  nữ  đồng  tử    linh  thị  thời  cổ  xưa,   được  giữ  ǵn,  bảo  dưỡng    chăm  sóc  cẩn  thận  trong  các  đền  thờ…

                                                  II

          Mùa    năm  1875, một  phụ  nữ  tên  Youngs  hành  nghề  đồng  tử  để  sinh  sống  tại  Nữu  Ước. Hiện  tượng  chính  của    này    sai  khiến  âm  binh  nâng  cao  lên  một  cây  đàn  dương  cầm  lớn  hạng  nặng,    làm  cho    nghiêng  qua  nghiêng  lại  hai  đầu  để  làm  nhịp trong  khi    ấy  đánh  đàn.


           Tôi  nghe  nói  vậy, bèn  mời    HPB  cùng  đi  với  tôi  đến  nơi  để  xem  hiện  tượng  lạ  ấy.  Tôi  đem  theo  ba  vật  đựng  trong  túi  để  thử  khả  năng  đồng  tử  của    kia,    một  quả  trứng    c̣n  sống,    hai  hột  hồ  đào.  Tôi  không  cần  phải  sử  dụng  trí  nhớ,    tôi  c̣n  cất  giữ  bài  tường  thuật  chính  xác  về  sự  việc  này  đăng  trên  báo  NEW  YORK  SUN  ra  ngày  4 tháng 9 năm  1875.  Hôm  ấy    tất  cả  mười  lăm  người  đến  dự  buổi  họp  đàn.  Phóng viên nhật  báo  ấy  viết  như  sau:


          “CUỘC  BIỂU  DIỄN  BẮT  ĐẦU  BẰNG  VIỆC  DỞ  HỔNG  CÂY  ĐÀN  DƯƠNG  CẦM (PIANO ) BỞI  NHỮNG  SỨC  MẠNH   H̀NH, TRONG  KHI    ĐỒNG  TỬ  YOUNGS  ĐẶT  NHẸ  HAI  BÀN  TAY  LÊN  MẶT  ĐÀN.  CÁC  VONG  LINH  KHUẤT  MẶT  SẼ    NHỊP  BA  CÁI  HOẶC  MỘT  CÁI  TRÊN  CÂY  ĐÀN  ĐỂ  TỎ  Ư  THUẬN  HAY  KHÔNG  THUẬN  LÀM  CUỘC  BIỂU  DIỄN.  KHI  ĐĂ  SẴN  SÀNG    NGỒI  XUỐNG  GHẾ    BẮT  ĐẦU  CHƠI  VÀI  BẢN  NHẠC, TRONG  KHI  ĐÓ  CÂY  ĐÀN  TỰ  ĐỘNG  LÊN  CAO  XUỐNG  THẤP  THEO  NHỊP  ĐÀN.  KẾ  ĐÓ,    ĐỨNG  QUA  MỘT  BÊN    GỌI  ĐẠI    OLCOTT    NHỮNG  NGƯỜI    MẶT  MUỐN  LÀM  CUỘC  THÍ  NGHIỆM,  MỖI  NGƯỜI  HĂY  ĐẶT  BÀN  TAY  TRÁI  CỦA  M̀NH  PHÍA  MẶT  DƯỚI  CÂY  ĐÀN,  C̉N    CŨNG  ĐẶT  NHẸ  MỘT  BÀN  TAY  Y  NHƯ  VẬY.  XONG  RỒI,  THEO  LỜI  YÊU  CẦU  CỦA    ĐỒNG  TỬ,  MỘT  ĐẦU  CỦA  CÂY  ĐÀN  DƯƠNG  CẦM  RẤT  NẶNG  ĐƯỢC  DỞ  HỔNG  LÊN  KHỎI  SÀN  GẠCH    KHÔNG    SỰ  DÙNG  SỨC  CỐ  GẮNG  CỦA  MỘT  NGƯỜI  NÀO.  ĐẾN  ĐÂY,  ĐẠI    OLCOTT  YÊU  CẦU    ĐỒNG  TỬ  CHO  ÔNG  LÀM  MỘT  THÍ  NGHIỆM  KHÁC.    NÀY  VUI  L̉NG,  ĐẠI    LIỀN  ĐƯA  RA  MỘT  QUẢ  TRỨNG    ĐỰNG  SẴN  TRONG  MỘT  CÁI  HỘP,    YÊU  CẦU    ĐẶT  QUẢ  TRỨNG  GIỮA  BÀN  TAY      MẶT  DƯỚI  CỦA  CÂY  ĐÀN,  RỒI  YÊU  CẦU  CÁC  VONG  LINH  NÂNG  CÂY  ĐÀN  LÊN.    ĐỒNG  TỬ  NÓI  RẰNG  TRONG  THỜI  GIAN  HÀNH  NGHỀ  ĐỒNG  TỬ , BÀ  CHƯA  TỪNG  LÀM  CUỘC  THÍ  NGHIỆM  NHƯ  VẬY  BAO  GIỜ,      KHÔNG  CHẮC  SẼ  THÀNH  CÔNG,  NHƯNG    CŨNG  BẰNG  L̉NG  LÀM  THỬ.    CẦM  LẤY  QUẢ  TRỨNG  ÁP  VÀO  MẶT  DƯỚI  CÂY  ĐÀN  THEO  LỜI  DẶN,  VỚI  BÀN  TAY  KIA    VỖ  VÀO  THÙNG  CÂY  ĐÀN    YÊU  CẦU  CÁC  VONG  LINH  HĂY  THỬ  RA  SỨC.  NGAY  TỨC  KHẮC,  CÂY  ĐÀN  LẠI  NÂNG  CAO  LÊN  NHƯ  TRƯỚC    TREO    LỬNG  MỘT  LÚC  TRÊN  KHÔNG  TRUNG. CUỘC  THÍ  NGHIỆM  ĐỘC  ĐÁO    MỚI  LẠ  NÀY  ĐĂ  THÀNH  CÔNG  TRỌN  VẸN.”


         Kế  đó,    Youngs  yêu  cầu  những  vị  nào  mập  mạp  nặng  cân  nhất  trong  cử  tọa  hăy  ngồi  lên  mặt  đàn  dương  cầm,    sau  khi    bảy  người  thân  h́nh  đồ  sộ  vừa  nam  vừa  nữ  đă  ngồi  lên,    đánh  một  bản  nhạc  hành  khúc,    tất  cả  nội  vụ,  cả  người  lẫn  dương  cầm,  đều  được  dở  hổng  lên  một  cách  dễ  dàng.  Đến  đây,  Đại    Olcott  mới  đưa  ra  hai  hột  hồ  đào ( walnut ) và  yêu  cầu  các  vong  linh  khuất  mặt  hăy  làm  bể  những  cái  vỏ  cứng  bên  ngoài  dưới  chân  cây  đàn    không  làm  giập  cái  nhân    bên  trong,  mục  đích    để  chứng  minh  rằng    sự  tác  động  của  một  sức  mạnh  khác  hơn    của    đồng  tử    cái  sức  mạnh  ấy    sự  điều  khiển  của  một  trí  lực  thông  minh.  Những  vong  linh  tỏ  ư  bằng  ḷng,  nhưng    những  cây  chân  đàn  dương  cầm  đều  đặt  trên  các  bánh  xe  lăn,  nên  đành  phải  bỏ  cuộc  thí  nghiệm    không  thể  thực  hiện  được.  Kế  đó,  Đại    Olcott  yêu  cầu    nọ  để  cho  ông  cầm  quả  trứng    đặt    mặt  dưới  cây  đàn,  c̣n    đặt  bàn  tay  dưới  bàn  tay  của  ông,  để  chứng  minh  một  cách  tuyệt  đối  sự  kiện  rằng  không    một  sự  dùng  sức  cố  gắng  nào  của    đồng  tử.  Cuộc  thí  nghiệm  này  cũng  được  chấp  thuận    thi  hành  ngay  tức  khắc.  Cây đàn cũng  được  nâng  nhẹ  lên  như  trước.  Sau  cùng,  buổi  họp  đàn  chiều  hôm  ấy  kết  thúc  bằng  việc  NÂNG  NHẸ  CÂY  ĐÀN  LÊN  KHÔNG  TRUNG    KHÔNG    VIỆC  ĐỤNG  CHẠM  HAY  ĐẶT  NHẸ  BÀN  TAY  CỦA    ĐỒNG  TỬ.

 
           Đó  hẳn    sự  biển  lộ  rất  độc  đáo  của  một  sức  mạnh    h́nh.  Không  những  một  cây  đàn  dương  cầm  hạng  lớn    rất  nặng    sức  một  người  không  thể  dở  nổi  một  đầu,  lại  được  nâng  nhẹ  lên  dễ  dàng    không    sự  dùng  sức  cố  gắng  của  người  đồng  tử  hay  của  một  người  nào    mặt  tại  chỗ,  trong  một  gian  pḥng  thắp  đèn  sang,    c̣n    sự  tác  động  của  một  trí  lực  thông  minh,  hiểu  biết    làm  đúng  theo  mọi  lời  yêu  cầu.


         Việc  này  hẳn    không    bao  nhiêu  giá  trị  tâm  linh,  nhưng    hàm  xúc  một  ư  nghĩa  làm  đảo  lộn  những    thuyết  của  Khoa  Vật    Học  hiện  đại.

                                                  III

           Một  hiện  tượng  đồng  tử  khác    tính  chất  thi  vị  hơn    hứng  thú  hơn  nữa    của    Mary  Baker  Thayer, ở  Boston,    tôi  đă  dành  trọn  hết  năm  tuần  để  theo  dơi,  cũng  trong  mùa    năm  ấy. Bà  này    khả  năng  đặc  biệt    làm  cho  các  thứ  cỏ  cây  hoa    rơi  rụng  như  mưa  chung  quanh    trong  khi  họp  đàn,  những  cành      bông  hoa  này  đều  c̣n  tươi  tốt  dường  như  mới  vừa  ngắt  bẻ  từ  các  cây  lớn,    khi    những  loại  cây  cỏ  lạ  từ  phương  xa  đem  về  trồng    xứ  này.


          Trong  các  buổi  họp  đàn,  khi  các  quan  khách  đă  tụ  họp  đông  đủ,  một  vị  khách  khả  kính  được  mọi  người  đồng  ư  yêu  cầu  đứng  ra  xem  xét  các  pḥng    bàn  ghế  trong  nhà,  khép  kín  các  cửa  sổ,  khóa  chặt  cửa  cái    cất  giữ  ch́a  khóa.  Người  đồng  tử  cũng  chịu  để  cho  tôi  khám  xét  kỹ  lưỡng  để  biết  chắc      không    dấu  bông  hoa  hay  những  vật    khác  trong  ḿnh.    khi,    c̣n  để  cho  tôi  trói    nhốt    trong  một  cái  bao  bố  cho    không  thể  cử  động  hoặc  sử  dụng  tay  chân  để  làm  bất  cứ  một  động  tác  nào.  Kế  đó,  mọi  người  mới  ngồi  chung  quanh  một  cái  bàn  ăn  lớn,  nắm  tay  nhau  thành  ṿng ( luôn  cả    đồng  tử ),  tắt  hết  đèn  để  pḥng  tối  thui    chờ  đợi  hiện  tượng  xảy  ra.  Sau  một  lát,  người  ta  nghe    tiếng  động  nhẹ  của  vật    rơi  trên  mặt  bàn  trống  trơn,    mùi  thơm  tỏa  ra  khắp  pḥng.  Khi  đó    Thayer  mới  yêu  cầu  thắp  đèn  lên,  th́  người  ta  thấy  trên  bàn    đầy  những  hoa  thơm  cỏ  lạ,  đôi  khi  lại  thấy  những  cành  hoa  cắm  vào  áo  hay  gài  trên  tóc  của  các  quan  khách  ngồi  tham  dự.  Thỉnh  thoảng,    vài  con  bươm  bướm,  hoặc  một  con  chim  quyên,  chim  yến,  hay  chim  hoàng  anh,  hay  vài  loại  chim  nhỏ  vừa  kêu  ríu  rít  vừa  bay  lượn  khắp  pḥng;  hoặc  một  con    vàng  hăy  c̣n  ướt  nhảy  trên  mặt  bàn,  dường  như  vừa  mới  lấy  ra  từ  trong  hồ  nước.  Đôi  khi,  những  người    mặt  cũng  thốt  lên  những  tiếng  kêu  ngạc  nhiên  khi  họ  nhận  thấy  nằm  trong  tay  họ  một  cái  hoa  hay  một  nhánh  kiểng    họ  đă  nghĩ  trong  trí    thầm  lặng  yêu  cầu  được  đem  đến  cho  họ.


         Trong  một  buổi  họp  đàn  khác,    một  cây  thạch  thảo  xuất  hiện  trước  các  quan  khách,  c̣n  nguyên  những  rễ  cây    đất  bám  vào  như  vừa  mới  được  bứng  lên,  lại    cả  ba  con  trùng  đất  c̣n  đang  ngo  ngoe  quằn  ḿnh  giữa  đám  rễ.  Nhưng  tôi  c̣n  chứng  kiến  một  việc  lạ  hơn  nữa.


          Một  buổi  trưa  hè,  tôi  đến  viếng  một  nghĩa  địa    ngoại  ô  thành  phố  Boston,    khi  đi  qua  một  vườn  kiểng,  tôi  chú  ư  đến  một  giống  cây  lạ  với  những    hẹp    dài,    sọc  trắng    xanh  lợt,    khoa  Thảo  Mộc  Học  gọi    cây  Long  Huyết ( Dracaena  Regina ).  Tôi  lấy  bút  ch́  xanh  vẽ    mặt  dưới  một  lá,  cái  h́nh  một  ngôi  sao  sáu  góc    âm  thầm  kêu  gọi  bằng    tưởng  các  âm  binh  hăy  đem  cái    ấy  đến  cho  tôi  tại  nhà    Thayer  trong  buổi  họp  đàn  tối  hôm  sau.


          Tối  hôm  đó,  tôi  ngồi  bên  cạnh    đồng  tử,    nắm  hai  bàn  tay    để  bảo  đảm  cho  chắc  rằng    vẫn  trung  thực.  Trong  bóng  tối,  tôi  cảm  giác  được  một  vật    mát  lạnh    ướt  rơi  trên  một  bàn  tay  tôi,    khi  đèn  được  thắp  sáng  trở  lại,  th́  thấy  vật  ấy  chính    cái    cây  Long  Huyết    tôi  đă  làm  dấu  ngày  hôm  qua!  Để  phối  kiểm  lại  cho  chắc, tôi  đă  trở  lại  vườn  kiểng    nhận  thấy  cái    của  tôi  làm  dấu,  thật  sự  đă  bị  ngắt  ra  khỏi  nhánh    cái    ấy    tôi  đem  theo  trong  túi,  đem  ráp  lại  th́  đúng  với  chỗ  bị  ngắt!  Nhiều  sự  kiện  tương  tự  cũng  đă  làm  cho  tôi  tin  chắc  rằng    Thayer    một  người  đồng  tử  chân  chính.  Ngoài  ra,  c̣n    một  hiện  tượng  sinh    không  những  đă  làm  tăng  thêm  ḷng  tin  của  tôi,    c̣n  làm  sáng  tỏ  thêm  toàn  bộ  vấn  đề  đồng  tử.  Khi  tôi  nắm  hai  bàn  tay    trong  hai  bàn  tay  tôi,  tôi  nhận  thấy  rằng  đúng  vào  lúc    những  cỏ  cây  hoa    bắt  đầu  rơi  trên  mặt  bàn  th́    đồng   tử  rung  ḿnh,  thở  dài,    hai  bàn  tay  trở  nên  lạnh  ngắt  như  đồng.  Một  lúc  sau  đó,  hai  bàn  tay    mới  trở  lại  nhiệt  độ  b́nh  thường.  Điều  đó  chỉ  rằng  dường  như    một  sự  hoàn  toàn  biến  đổi  về  nhiệt  độ  trong    thể  của  người  đồng  tử  trong  khi  thực  hành  các  hiện  tượng.


          Khi    HPB  kêu  gọi  một  vong  linh  hiện  nguyên  h́nh  từ  trong  pḥng  của    đồng  tử  Holmes  trong  một  cuộc  biểu  diễn  trước  đây,    nắm  chặt  lấy  bàn  tay  tôi  một cách  xúc  động, và  bàn  tay    trở  nên  lạnh  như  nước  đá.  Bàn  tay  của  Signor B., nhà  phù  thủy  Ư  cũng  lạnh  ngắt  sau  hiện  tượng  làm  mưa;    sự  chuyển  biến  từ  trạng  thái  lên  đồng  qua  trạng  thái  xuất  thần  nhập  hóa    những  giai  đoạn  thâm  sâu  hơn  của  trạng  thái    thức  đều  đi  kèm  với  hiện  tượng  hạ  thấp  nhiệt  độ  của    thể  một  cách  b́nh  thường.


                                                  IV


      Trong  một  buổi  họp  đàn  khác  chỉ    ba  người  tham  dự,      Hougton, vợ  của  một  vị  luật    tên  tuổi    Boston,  một  phụ  nữ  khác,    tôi.  Chúng  tôi  ngồi  lại  một  bàn,  tôi  nắm  hai  bàn  tay    đồng  tử, một    khách đi  đóng  các  cửa  trong  nhà  c̣n  một    coi  việc  đèn  đuốc. Khi  đèn  đă  tắt,  chúng  tôi  ngồi  đợi  ít  lâu  trong  bong  tối,  nhưng  không  nghe có tiếng  hoa  rơi  trên  bàn.  Bỗng  nhiên,  tôi    cảm  giác  một  cánh  hoa  mát    ướt  rơi  nhẹ  trên  lưng  bàn  tay  tôi.  Khi  đèn  thắp  sáng,  th́  thấy  đó    một  cái  hoa  hường  rất  đẹp,  vừa  mới  nở  được  một  nửa,  hăy  c̣n  đượm  những  giọt  sương  lung  linh  ướt.    đồng  tử  vừa  giật  ḿnh  dường  như    người  khuất  mặt  nói  chuyện  với    từ  đằng  sau,    nói:


         “Thưa  Đại  Tá,  những  âm  binh  nói  rằng  cánh  hoa  này    quà  tặng  cho    HPB”.


         Tôi  bèn  đưa  cái  hoa  cho    Houghton,  rồi    này  trao  lại  cho    HPB  khi  chúng  tôi  về  đến  nhà,  tại  đây  chúng  tôi  thấy    HPB  đang  vừa  hút  thuốc    vừa  nói  chuyện  với  luật    Houghton.


            HPB  cầm  lấy  cái  hoa  đưa  lên  mũi  để  thưởng  thức  mùi  thơm  của  nó,  gương  mặt  đăm  chiêu  với  một  cái  nh́n  xa  vắng  trong  cặp  mắt,    những  bạn  thân  của    thường  thấy  mỗi  khi    làm  các  hiện  tượng  thần  thông.  Cơn  mộng    của    bị  gián  đoạn  bởi  luật    Houghton  khi  ông  nói:


        “Thưa  bà,  cái  hoa  này  thật  đẹp, bà  hăy  đưa  cho  tôi  xem  một  chút”.


            đưa  cái  hoa  cho  ông  cũng  vẫn  với  cái  vẻ  mặt  đăm  chiêu,    với  một  cử  chỉ      máy  móc.  Vị luật sư  ngửi  hoa,  rồi  th́nh  ĺnh  kêu  lên:


        “Ủa !  Sao hoa nặng  vậy? Tôi  chưa  hề  thấy  hoa  nào  như  cái  hoa  này.  Quí  vị  hăy  xem,  sức  nặng  của    làm  cong  cái  cuống  hoa!”


          Tôi  mới  cầm  lấy  cái  hoa  để  xem  lại,    mới  lúc  năy  khi    c̣n    trên  tay  tôi,  không  thấy      khác  thường.  Nhưng  bây  giờ  th́  lạ  thật,    lại  rất  nặng.  Lúc ấy, bà  HPB  mới  nói:


         “Hăy cẩn  thận,  đừng  làm    gẫy”


         Tôi  gượng  nhẹ  nâng  cái  hoa  lên  giữa  ngón  tay  cái    ngón  trỏ  của  bàn  tay  mặt    nh́n  xem  cho  kỹ,  nhưng  không  thấy    do    làm  cho      sức  nặng.  Bỗng  nhiên,  tôi  thấy    một  chấm  nhỏ  ánh  sáng  màu  vàng  chiếu  nơi  trung  tâm  cái  hoa,    trước  khi  tôi    th́  giờ  nh́n  lại  lần  nữa,  th́  một  cái  nhẫn  vàng  nặng  lớn  bản    trơn  bong  từ  trong  nụ  hoa  nhảy  vọt  ra,  dường  như  do  sức  đẩy  của  một  cái    xo,    rơi  xuống  đất  ngay  dưới  chân  tôi.  Cái  hoa  liền  đứng  ngay  trở  lại  trên  cái  cuống,  không  c̣n  nặng  như  lúc  năy,    trở  lại  trạng  thái  b́nh  thường.


          Ông  Houghton    tôi  đều    luật  sư,  vốn    bản  năng  thận  trọng  của  nghề  nghiệp,  chúng  tôi  bèn  xem  xét  kỹ  lại  bên  trong  cái  hoa,  nhưng  không  thấy    dấu  vết    khả  nghi  chỉ  rằng    bàn  tay  người  sờ    vào:  những  cánh  hoa  được  xếp   lên  nhau  một  cách  đều  đặn    chặt  chẽ,    người  ta  không  thể  nhét  cái  nhẫn  vàng  vào  bên  trong    không  làm  sứt  mẻ  cái  nụ  non    giữa.  Vả  lại,  làm  sao    HPB    thể  chơi  cái  tṛ  giả  mạo  ấy  ngay  trước  mắt  chúng  tôi,  dưới  ánh  sáng  của  ba  ngọn  đèn,  trong  khi    cầm  cái  hoa  trong  bàn  tay  mặt  chỉ    độ  hai  phút  trước  khi  đưa    cho  ông  Houghton?
          Hiện  tượng  này    thể  giải  thích  bằng  khoa  Huyền  Môn:  vật  chất  trong  chiếc  nhẫn    vật  chất  trong  những  cánh  hoa    thể  đă  được  nâng  cao  từ  chiều  đo  thứ  ba  lên  chiều  đo  thứ  tư,    phục  hồi  trở  lại  chiều  đo  thứ  ba  vào  lúc  chiếc  nhẫn  nhảy  vọt  ra  ngoài  cái  hoa.  Quả  thật  sự  việc  đă  xảy  ra  đúng  y  như  vậy.  Cái  nhẫn  ấy  cân  nặng  ba  chỉ,    tôi  đang  đeo    trong  lúc  này.    không  phải  được  tạo  ra  từ  chỗ    không,    chỉ    một  vật  được  di  chuyển  xuyên  qua  không  gian.


          Một  năm  rưỡi  sau  đó,  sau  khi  Hội  Thông  Thiên  Học  Thế   Giới  được  thành  lập  độ  một  năm,    HPB    tôi    trú  tại  New  York  trong  hai  gian  pḥng  khác  nhau  cùng  trong  một  nhà.  Một  ngày  nọ,    em  gái  tôi,      W.H. Mitchell,  đi  cùng  với  chồng  đến  viếng  chúng  tôi,    trong  câu  chuyện  hàn  huyên  tâm  sự,    yêu  cầu  cho  xem  chiếc  nhẫn    nói  cho    nghe  câu  chuyện  lịch  sử  của  nó.  Khi  xem  xong,    đeo  thử  vào  ngón  tay  rồi  tháo  ra  đặt  nằm  trong  ḷng  bàn  tay    để  trả  lại  cho    HPB.    HPB  cứ  để    nằm  y  như  thế    không  động  đến,  khép  các  ngón  tay    em  tôi  trên  chiếc  nhẫn,  nắm  bàn  tay  ấy  trong  một  lúc,  rồi  buông  ra    bảo    em  tôi  hăy  nh́n  lại  xem.  Th́  ra    không  c̣n    một  chiếc  nhẫn  trơn  nữa,    chúng  tôi  thấy  trên  cái  khoen  vàng    cẩn  ba  hột  kim  cương  nhỏ  xếp  thành  h́nh  tam  giác.


         Việc ấy  được  thực  hiện  bằng  cách  nào?  Giả  thuyết  ít  huyền  diệu  nhất      HPB  đă  cho  một  thợ  kim  hoàn  cẩn  ba  hột  kim  cương  trên  chiếc  nhẫn  từ  trước,    dùng  thuật  thôi  miên  che  mắt  để  chúng  tôi  không  nh́n  thấy,  cho  đến  khi  thị  giác  của  chúng  tôi  được  giải  tỏa  vào  lúc    em  tôi  mở  bàn  tay  ra.  Điều  này    thể  hiểu  được  như  một  phép  thuật  thôi  miên;  tôi  đă  từng  thấy  những  hiện  tượng  đó,    chính  tôi  cũng    thể  làm  được  như  vậy.  Người  ta    thể  làm  che  khuất  tầm  nhăn  quang  của  kẻ  khác,  không  những  đối  với  vài  hột  kim  cương,    c̣n    thể  làm  che  dấu  một  người,  một  cử  tọa  đông  đảo,  một  cái  nhà,  một  cái  cây,  một  quả  núi,  hay  bất  cứ  vật  ǵ:  thuật  thôi  miên  dường  như    khả  năng  tác  động    giới  hạn.  Hiện  tượng  chiếc  nhẫn  nạm  kim  cương    thể  được  giải  thích  ra  sao  tùy  ư; nó  vẫn    một  sự  thành  công  hoàn  toàn.

                                                   V

         Những  sự  việc  kể  trên  sẽ  giúp  cho  độc  giả   một  ư  niệm  về  những  hiện  tượng  lạ          ng  vẫn  tiếp  diễn  hồi  thời  đó    các  xứ  phương  Tây. Ở  phương  Đông  thỉnh  thoảng  người  ta  cũng  từng  nghe  nói  về  những  sự  di  chuyển  đồ  vật  tương  tự  xuyên  qua  không  gian,  nhưng  luôn  luôn  với  một  sự  kinh  khiếp,  sợ  hăi,    những  người  chứng  kiến  không  hề  nghĩ  đến  việc  đem  các  hiện  tượng  ấy  ra  làm  những  đề  tài  khảo  cứu  khoa  học.  Trái  lại,  chúng  bị  coi  như  những  việc  chẳng  lành,  do  tác  động  của  những  vong  linh  bất  hảo,  thường    những  vong  hồn  đọa  lạc  của  những  bạn  bè,  thân  quyến  hăy  c̣n  bám  víu  cơi  Trần    người  ta  chỉ  muốn  tảo  trừ  những  sự  việc  ấy  như  những  chuyện  quấy  rầy,  phiền  nhiễu.


          Đối  với  người  Đông  Phương,  vốn    một  truyền  thống  tâm  linh  vững  chắc  từ  lâu  đời,  th́  sự  giao  tiếp  giữa  người  sống  với  vong  linh  người  chết    một  bằng  chứng  chỉ  rằng  người  chết  vẫn  chưa  đoạn  tuyệt  một  cách  thoải  mái  nhẹ  nhàng  với  cuộc  đời  thế  gian,    như  vậy,  họ  bị  ngăn  trở  trên  con  đường  tiến  hóa  tự  nhiên  để  vượt  lên  cơi  giới  tinh  thần.  Người  Á  Đông  coi  việc  biểu  diễn  những  hiện  tượng  thuộc  loại  kể  trên  như  những  bằng  chứng  chỉ  rằng  các  người  biểu  diễn  ấy  chỉ    những  quyền  năng  thuộc  loại  thấp  kém.


         Trong  thời  gian    Ấn  Độ,  tôi  đă  từng  nghe  nhiều  người  bổn  xứ  nói  rằng  thật    một  điều  đáng  tiếc    thấy    HPB  biểu  diễn  các  hiện  tượng  thần  thông,  bởi    việc  ấy  chỉ  rằng    chưa  đạt  tới  tŕnh  độ  cao  siêu  trong  pháp  môn  Yoga.  Thật  vậy,  Đạo    Patanjali,  cũng  như  Phật  Thích  Ca,  đă  từng  cảnh  cáo  các  môn  đồ  không  nên  biểu  diễn  phép  thuật  thần  thông  khi  họ  phát  triển  được  những  quyền  năng  thần    trong  diễn  tŕnh  tiền  hóa  tâm  linh  của  họ.  Tuy nhiên,  chính  đức  Phật  đôi  khi  cũng  đă  làm  các  hiện  tượng  thần  thông,  nhưng  ngài  chỉ  làm  như  vậy  trong  khi  thuyết  pháp  để  kêu  gọi  sự  chú  ư  của  quần  chúng    thúc  đẩy  họ  cố  gắng  công  phu  tu  luyện  sau  khi  đă  thanh  lọc  bản  thể  cho  bớt  nhiễm  trần.  Phần  nhiều  các  bậc  giáo  chủ  khác  cũng  áp  dụng  phương  pháp  đó. Phải  chăng    HPB  cũng  làm  giống  y  như  vậy?  Trong  khi  làm  các  phép  thuật  thần  thông,  phải  chăng    đă    cảnh  giác  tất  cả  mọi  người  rằng  đó  chỉ    những  điều  phụ  thuộc  nhỏ  mọn,  không  đáng  kể  trên  đường  Đạo?  Không  ai    thể  phủ  nhận  điều  ấy;  mọi  người  đều  nh́n  nhận      vẫn  luôn  luôn  dạy  rằng  các  hiện  tượng  thần  thông  chỉ    tác  dụng    để  thực  nghiệm  khoa  triết  học  tâm  linh,  cũng  như  những  cuộc  thí  nghiệm  hóa  chất  đối  với  khoa  Hóa  Học  vậy.


            hẳn    đă  sai  lầm    phung  phí  thần  lực  trong  các  hiện  tượng  huyền  linh  để  làm  ngạc  nhiên  những  quan  khách  tầm  thường,  không  quan  trọng,  thần  lực  ấy    thể  dùng  một  cách  hữu  hiệu  hơn  nhiều  để  phá  hủy  bức  rào    tín  ngưỡng    độc  đoán  của  khoa  học  duy  vật  Tây  Phương.  Tuy  nhiên,  nhờ  đó    đă  thuyết  phục  được  một  số  người,  chịu  ảnh  hưởng  của      đă  đóng  góp  công  lao  tích  cực  vào  phong  trào  Thông  Thiên  Học    đại  của  chúng  ta,    vài  người  trung  kiên  nhất  trong  số  đó  đă  từ  bỏ  khoa  Thần  Linh  Học  Tây  Phương  để  bước  vào  Huyền  Môn  Đông  Phương  qua chiếc  cầu  trung  gian  của  những  hiện  tượng  diệu  huyền.


          Về  phần  tôi,  tôi    thể  nói  rằng  những  loạt  hiện  tượng  thần  thông  đa  h́nh  đa  dạng      HPB  đă  biểu  diễn  cho  tôi  xem,  đă  làm  cho  tôi  hiểu  được  dễ  dàng  những    thuyết  cổ  truyền  Đông  Phương  của  Khoa  Học  Tâm  Linh.  Tôi  rất  tiếc  rằng  những  người  khác,  nhất    những  bạn  Đạo  phương  Đông  của  tôi,  vốn    một  tâm  hồn đă  từng  được  chuẩn  bị  hoàn  toàn  chu  đáo,  lại  không    được  một    hội  may  mắn  như  tôi.


                                            CHƯƠNG SÁU


             VIỆC THÀNH LẬP HỘI THÔNG  THIÊN  HỌC  THẾ  GIỚI

 

Tất  cả  những  hội  viên  nhiệt  thành  của  Hội  Thông  Thiên  Học  sẽ  thích  thú    được  biết  rằng  kể  từ  tháng  7  năm  1875,    HPB  đă  khẳng  định  sự  hiện  diện  của  các  đấng  Chân  Sư,  tuyên  bố  sự  thật  về  Quần  Tiên  Hội,  về  kho  tàng  minh  triết  thiêng  liêng  do  các  ngài  ǵn  giữ,    về  mối  liên  hệ    nhân  của    với  các  ngài.  Bà nêu lên  vấn  đề  quan  trọng  là:


        “Khoa  Thần  Linh  Học,  trong  tay  của  một  Chân  Sư, trở  thành  khoa  Phương  Thuật,    ngài  đă  tinh  thông  lăo  luyện  về    thuật  sử  dụng  những  định  luật  trong  Càn  Khôn    Trụ,    không  vi  phạm  một  định  luật  nào    không  hành  động  trái  nghịch  với  thiên  nhiên. Trong  tay  của  một  đồng  tử  thiếu  kinh  nghiệm,  khoa  ấy  trở  thành  Bàn  Môn  Tả  Đạo    ư  thức,    y    t́nh  mở  rộng  cửa  giao  thông  giữa  thế  giới  hữu  h́nh      h́nh, và  giải  tỏa  những  sức  mạnh    quáng  của  Thiên  Nhiên  cùng  những  loại  âm  binh    vong  linh  bất  hảo.”
          Kể  từ  nay,    tưởng  Huyền  Môn  đă  được  phát  động  một  cách    rệt,    luôn  luôn  được  nhắc  đến  trong  những  sách  vở  báo  chí    thơ  tín  riêng    của  chúng  tôi.  Trong  một  bài  báo  nhan  đề “ĐỜI  SỐNG  BẤT  TỬ”  đăng  trên  báo  Nữu  Ước  Diễn  Đàn  ngày  28  tháng  8  năm  1875,  tôi    tuyên  bố  rằng  tôi  đă  từng  tin  nơi  các  hiện  tượng  đồng  tử  từ  một  phần    thế  kỷ  nay,  nhưng  tôi  không  bao  giờ  tin  rằng  những  trí  lực  đằng  sau  các  hiện  tượng  đồng  tử  từ  một  phần    thế  kỷ  nay,  nhưng  tôi  không  bao  giờ  tin  rằng  những  trí  lực  đằng  sau  các  hiện  tượng  đó  quả  thật    những  ông  nọ    kia  như  họ  giả  danh  hay  mạo  nhận.  Tôi  khẳng  định  sự  tin  tưởng  của  tôi  về  sự  thật  của  khoa  Huyền  Môn  thời  cổ,    nói  lên  sự  kiện  rằng  tôi  t́nh  cờ  được  giao  tiếp  với  những  người  c̣n  sống,  họ  đă  từng  thi  thố  ngay  trước  mặt  tôi  những  pháp  thuật  diệu  huyền  xứng  đáng  với  bản  lĩnh  của  các  nhà  Phương    trứ  danh  thời  xưa.


         Khi  tôi  nói  lên  điều  ấy,  tôi  không  phải  chỉ  đề  cập  đến  những  hiện  tượng  thần  thông  của    HPB,  hay  sự  giao  tiếp  của  tôi  với  các  Chân      thôi,    c̣n  muốn  nhắc  đến  sự  việc  này:  đó    việc  làm  cho  những “TINH  LINH  NGŨ  HÀNH”  xuất  hiện  ngay  trước  mắt  tôi    trong  pḥng  ngủ  của  tôi,  do  một  người  lạ  mặt    tôi  t́nh  cờ  gặp  tại  New  York,  một  ngày  trước  khi  tôi  viết  bài  báo  trên.


          Người  lạ  mặt  đến  nhà  tôi  do  một  sự  hứa  hẹn  trước.  Chúng  tôi  mở  những  cửa  ngăn  pḥng  khách  với  buồng  ngủ,  ngồi  trên  ghế  đối  diện  với  cửa  ra  vào,    th́nh  ĺnh,  dưới  ảnh  hưởng  của  một  phương  pháp  huyền  diệu  để  tạo  ra  ảo  giác (Mâya), tôi  nh́n  thấy  pḥng  ngủ  của  tôi  biến  thành  một  khoảng  không  gian  vuông  vức.  Những  giường  tủ, bàn  ghế  đă  biến  mất  khỏi  tầm  mắt  của  tôi,và  lần  lần  xuất  hiện  những  cảnh  trời  nước  mênh  mông, mây    bao  phủ  không  gian, hang  động  dưới  ḷng  đất, và  một  hỏa  diệm  sơn  phun  lửa. Mỗi  hoạt  động  trong  ngũ  hành  đều  loi  ngoi, những  sinh  vật  sống  động  với  những  h́nh  thể,  những  gương  mặt,  ẩn  hiện  chập  chờn  khi  mờ  khi  tỏ.  Vài  h́nh  thể  sinh  vật  đó  coi  xinh  đẹp, hiền  ḥa, những  loại  khác    h́nh  dáng  bất  hảo, dữ  tợn, có  loại  rất  hung   ác    coi  thật  rùng  rợn. Chúng  xuất  hiện  trước  mắt  tôi  một  cách  nhẹ  nhàng  giống  như  những  bọt  nước  trên  một  gịng  suối, hoặc  phóng  nhanh  xuyên  qua  không  gian    biến  mất, hoặc  chơi  giỡn    đùa  với  nhau  trong  ánh  lửa  hồng  hay  trên  gịng  nước.


         Một  lát  sau  đó, một  quái  vật  h́nh  thù  dị  hợm  trợn  mắt  nh́n  tôi    phóng  tới  trước, dường  như  muốn  chụp  lấy  tôi  cũng  như  một  con  cọp  bị  thương  chụp  mồi, nhưng  rồi  lại  biến  mất  khi    vừa  tới  làn  mức  chu  vi  của  khoảng  không  gian  vuông  vức, là  nơi    hai  gian  pḥng  nối  liền  với  nhau. Việc  ấy  làm  cho  thần  kinh  tôi  bị  căng  thẳng  cực  độ, nhưng  sau  những  kinh  nghiệm  về  hồn  ma  hiện  h́nh    tôi  đă  từng  trải  qua    nông  trại  Eddy, tôi  cố  gắng  giữ  vững  tinh  thần  ḷng  không  rung  động. Đến  đây, người  lạ  mặt  tuyên  bố  hài  ḷng  về  kết  quả  cuộc  thử  thách  tâm  linh  này, và  khi  chia  tay  từ  giă  c̣n  nói  thêm  rằng  chúng  tôi    thể  sẽ  gặp  nhau  trở  lại. Nhưng  cho  đến  nay  chúng  tôi  không  hề  gặp  nhau  lại  nữa. Người  ấy    h́nh  dáng  giống  như  một  người  Đông  Phương, màu  da  lợt, nhưng  tôi  không  thể  phát  hiện  được    quốc  tịch  nào, tuy  hồi  đó  tôi  nghĩ  rằng    lẽ  ông  ta    người  Ấn  Độ. Người  đó  nói  Anh  Ngữ  rất  thông  thạo  cũng  như  tôi.


                                                    II

        Sự  dọn  đường  cho  việc  thành  lập  Hội  Thông  Thiên  Học  Thế  Giới  đă  được  chuẩn  bị  do  sự  tranh  luận  sôi  nổi  trong  các  giới, trước  nhất  về  Thần  Linh  Học    sau  đó  về  một  vài  quan  niệm  của  Huyền  Môn  Đông  Phương. Cuộc  tranh  luận  vẫn  tiếp  diễn  kể  từ  khi  những  bài  tường  thuật  của  tôi  về  các  hiện  tượng  thần  linh    nông  trại  Eddy  bắt  đầu  xuất  hiện  trên  nhật  báo  New  York  Sun  vào  tháng  8  năm  1874. Nó  càng  trở  nên  sôi  động  thêm  gấp  mười  lần  từ  khi  tôi      HPB  gặp  nhau  tại  Chittenden, và  sử  dụng  báo  chí  để  tŕnh  bày  những  quan  điểm  lạ  thường  của  chúng  tôi. Những  bài  báo  châm  biếm  của  bà, những  chuyện  đồn  đăi  về  những  phép  thuật  thần  thông  của  bà, và  sự  quả  quyết  của  chúng  tôi  về  sự  hiện  diện  của  những  chủng  loại  sinh  vật  trong  cơi    h́nh, đă  thu  hút  đến  với  chúng  tôi  nhiều  nhân  vật  Đạo  tâm, trí  thức  thông  minh  lỗi  lạc. Trong  số  những  người  này    những  nhà  bác  học, ngôn  ngữ  học, nhà  văn, nhà  khảo  cổ, vài  vị  linh mục    tinh  thần  rộng  răi  cởi  mở, luật  gia, y  sĩ, vài  nhà  Thần  Linh  Học  tên  tuổi, vài  nhà  báo      muốn  kiếm  đề  tài  hấp  dẫn  để  viết  bài.


          Thật    một  việc  táo  bạo    dám  đứng  ra  công  khai  tuyên  bố  nền tảng  khoa  học  của  Khoa  Huyền  Môn  cổ  xưa, bất  chấp  mọi    luận  thành  kiến  của  người  đời, ở  vào  thời  đại  hoài  nghi  của  khoa  học  vật  chất  ngày  nay. Chính  hành  động  táo  bạo  đó  đă  thu  hút  sự  chú  ư  của  quần  chúng    đưa  đến  cái  hậu  quả  đương  nhiên    với  thời  gian  qua, những  người  cùng  đồng  quan  điểm  sẽ  họp  chung  lại  với  nhau  thành  một  Hội  để  khảo  cứu  về  các  vấn  đề  Huyền  Môn. Mưu  toan  thành  lập  một  Câu  Lạc  Bộ  Huyền  Linh  đă  thất  bại  vào  tháng  5, năm  1875, th́  nay  một    hội  khác  đă  đến, khi  một  học  giả  chuyên  khoa  Ai  Cập  Học    ông  George  Felt  thuyết  tŕnh  trước  một  nhóm  bạn  hữu  của  chúng  tôi  tại  nhà    HPB  vào  ngày  7  tháng  9  năm  1875. Đó    một  sự  thành  công  mỹ  măn: cái  hột  giống  của  một  cây  đại  thọ  bao  trùm  khắp  thế  giới  đă  được  gieo  trên  mảnh  đất  tốt    đă  nẩy  mầm.


           Tối  hôm  7  tháng  9, ông  Felt  thuyết  tŕnh  về  đề  tài: “QUY  TẮC  TỶ  LỆ  CỦA  NGƯỜI  CỔ  AI  CẬP”. Ông    một  nhà  kỹ  nghệ   họa  rất  tài  t́nh, và  đă  vẽ  một  số  họa  đồ  rất  khéo  để  diễn  tả    thuyết  của  ông  cho  rằng  những  quy  tắc  tỷ  lệ  kiến  trúc  của   người  Ai  Cập  cũng  như  của  các  đại  kiến  trúc  gia  Hy  Lạp, hiện   được  ǵn  giữ  trong  những  chữ  mật  tự  khắc  trên  các  đền  thờ  cổ  của  xứ  Ai  Cập. Ông  nói  rằng  bằng  cách  sử  dụng  vài  loại ch́a  khóa    mật, người  ta    thể  áp  đặt  một  đồ  h́nh    người  ta  gọi  là “NGÔI  SAO  TOÀN  MỸ” trên  vách  một  ngôi  đền, rồi  đọc  trong  đó  toàn  bộ  các    quyết  của  vấn  đề  tỷ  lệ  kiến  trúc    h́nh  học. Những  chữ  mật  tự    ngoài  ṿng  cái đồ  h́nh  đặt  lên  vách  chỉ    những  chữ  giả  tạo  để  đánh  lạc  hướng  những  kẻ    ṃ, bởi    nếu  đọc  liên  tục  với  những  chữ    trong  cái  đồ  h́nh, th́  đó  chỉ    những  câu    nghĩa, hoặc  chỉ    một  câu  chuyện    vị, tầm  thường.


        Cái  đồ  h́nh  này  gồm    một  ṿng  tṛn  với  một  h́nh  vuông    trong    một    ngoài,  chứa  đựng  một  h́nh  tam  giác  thường, hai  h́nh  tam  giác  Ai  Cập    một  h́nh  năm  góc. Ông  Felt  áp  dụng  cái  đồ  h́nh  ấy  vào  những  h́nh  ảnh, tượng  điêu  khắc,  cổng  đền, h́nh  vẽ  chữ  mật  tự, Kim  Tự  Tháp, lăng  tẩm    dinh  thự  lâu  đài  của  xứ  cổ  Ai  Cập, và  cho  thấy  rằng  chúng  thật  hoàn  toàn  đúng  khớp  với  những  tỷ  lệ  của  đồ  h́nh  đến  mức  biểu  lộ  một  quy  tắc  kiến  trúc  chung  cho  tất  cả  các  công  tŕnh  xây  dựng  của  thời  xưa. Quả  thật, đó  chính    cái  quy  tắc  kiến  trúc  thật  sự  của  Thiên  Nhiên.


           Tiến Sĩ  Pancoats, một  nhà  Huyền  Học  ưu      mặt  trong  buổi  họp, lúc  ấy  mới  hỏi  ông  felt    thể  chứng  minh  cụ  thể  sự  hiểu   biết  của  ông  về  những  quyền  năng  thần    của  các  nhà  đạo    thời  xưa  hay  không, chẳng  hạn  như  việc  kêu  gọi  các  vong  linh  khuất  mặt  trong  cơi    h́nh. Ông Felt trả lời  rằng:


         “Ông    thể  làm  cho xuất  hiện  hằng  trăm  những  h́nh  bóng  các  vong  linh giống  như  h́nh  người, nhưng  ông  không  thấy  những  dấu  hiệu  chỉ  rằng  chúng   trí  khôn”.


           Trong  buổi  thuyết  tŕnh, ông  Felt  cho  chúng  tôi  biết  rằng  trong  khi  khảo  cứu  về  môn  cổ  học  Ai  Cập, ông  đă  phát  hiện  rằng  những  vị  giáo    Ai  Cập  thời  xưa  đều    những  pháp    lăo  luyện  tinh  thông  về  khoa  Phương  Thuật. Họ    quyền  năng  kêu  gọi    sai  khiến  những  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH      để  lại  những  chân  ngôn  thần  chú  để  sử  dụng  âm  binh. Ông  sẵn  ḷng  chỉ  dẫn    thuật  này  cho  những  người    thiện  chí    hứa  sẽ  làm  cho  các  loại  tinh  linh  xuất  hiện  trước  mắt  chúng  tôi  trong  một  loạt  các  bài  diễn  thuyết.


         Buổi  thuyết  tŕnh    cùng  hấp  dẫn      thú  hôm  đó  được  nối  tiếp  theo  bằng  một  cuộc  thảo  luận  sôi  nổi. Trong  khi  cuộc  bàn  căi  đang  tiếp  diễn, tôi  bỗng    ư  nghĩ  rằng    lẽ    một  điều  hay  nếu  một  hội  được  thành  lập  để  khuyến  khích  sự  học  hỏi  khảo  cứu  về  khoa  Huyền  Môn, và  sau  khi  đắn  đo  suy  nghĩ, tôi  mới  viết trên  một  mảnh  giấy  gịng  chữ  sau  đây:


        “PHẢI  CHĂNG    MỘT  ĐIỀU  TỐT  NẾU  CHÚNG  TA  THÀNH  LẬP  MỘT  HỘI  ĐỂ  KHẢO  CỨU  VỀ  NHỮNG  VẤN  ĐỀ  NÀY?”


          Tôi  đưa  mảnh  giấy  cho  ông  W. Judge, một  luật    lúc  ấy  đang  đứng  giữa  tôi      HPB  ngồi    một  ghế  đối  diện  để  nhờ  ông  chuyển  cho  bà. Bà đọc xong, liền  gật  đầu  tỏ  ư  bằng  ḷng. Tôi  bèn  đứng  dậy, và  với  vài  lời  mở  đầu  câu  chuyện, tôi  bèn  đưa  ra  đề  nghị  trên. Ṿng  cử  tọa  lấy  làm  thích  thú, và  khi  ông  Felt, nhân  dịp  trả  lời  một  câu  hỏi, nói  rằng  ông  sẵn  ḷng  chỉ  dẫn  cho  chúng  tôi  phương  pháp  kêu  gọi    kiểm  chế  các  loại  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH, th́  toàn  thể  hội  trường  đều  đồng  thinh  chấp  thuận  việc  thành  lập  Hội  nói  trên. Theo  lời  đề  nghị  của  ông  Judge, tôi  được  bầu  làm  Hội  Trưởng    với  đề  nghị  của  tôi, ông  Judge  được  bầu  làm    Thơ  buổi  họp. V́  lúc  ấy  đêm  đă  khuya, buổi  họp  được  đ́nh  lại  đến  tối  hôm  sau  để    một  quyết  định  chính  thức. Những  quan  khách  tối  hôm  đó  được  yêu  cầu  đem  theo  những  bạn    thân  hữu    cảm  t́nh  viên  vào  đêm  sau  để  cho  họ    thể  gia  nhập  hội  nếu  họ  muốn.


          Một  tờ  nhật  báo    New  York    tường  thuật  buổi  họp  tối  hôm  đó, tóm  tắt  đại  khái  như  sau:


         “Một  phong  trào  rất  quan  trọng  vừa  được  khai  trương  tại  New  York  dưới  sự  lănh  đạo  của  Đại    Henry  S. Olcott  trong  việc  thành  lập  một  hội  gọi    Hội  Thông  Thiên  Học  Thế  Giới. Đề  nghị  khởi  xướng  nên  công  việc  này    một  điều  hoàn  toàn  không    dự  tính  trước, và  được  phát  động  vào  tối  hôm  mùng  7  tại  pḥng  khách  nhà    HPB. Cử  tọa  gồm  mười  bảy  vị  quan  khách  nam    nữ  trong  giới  thượng  lưu  trí  thức  đă  hội  họp  để  nghe  ông  George  Henry  Felt  thuyết  tŕnh  về  một  vài  khía  cạnh  của  Huyền  Môn  Ai  Cập    cùng    thú    hấp  dẫn….


           Trong  cuộc  thảo  luận  sau  đó, thừa  dịp  thuận  tiện, Đại    Olcott  đứng  lên  phát  biểu  ư  kiến. Sau  khi  phác  họa  t́nh  trạng  của  phong  trào  Thần  Linh  Học  đương  thời; thái  độ  của  các  nhà  Duy  Vật  chống  lại  phong  trào  ấy; sự  xung  đột  ư  kiến  giữa  khoa  học    tôn  giáo; tính  cách  triết  học  của  nền  Đạo    cổ  truyền, khả    dung  ḥa  tất  cả  mọi    thuyết tương  phản  hiện  hữu; và  công  tŕnh  siêu  việt  của  ông  Felt  đă  khám  phá  được    quyết  cấu  tạo  của  Thiên  Nhiên  do  những  tàn  tích  cổ  xưa  của  khoa  Huyền  Môn  Ai  Cập. Ông  đề  nghị  thành  lập  một  hội  tinh  thần  để  quy  tụ  tất  cả  những  người    khuynh  hướng  tâm  linh, sẵn  sàng  làm  việc  chung  với  nhau  để  sưu  tập    truyền    những  kiến  thức  huyền  môn. Chương  tŕnh  của  ông    tổ  chức  một  Hội  các  nhà  Huyền  Học    bắt  đầu  lập  ngay  một  thư  viện, kế  đó    phổ  biến  những  giáo    về  những  định  luật  huyền    trong  Thiên  Nhiên    người  cổ  Ai  Cập    Trung  Đông  đều  biết  rơ, nhưng  lại  hoàn  toàn  xa  lạ  đối  với  thế  giới  khoa  học  của  chúng  ta  hiện  nay,v..v …”


          Tài  liệu  đó  cho  thấy  tâm  trạng  của  tôi  khi  tôi  đề  nghị  thành  lập  Hội  Thông  Thiên  Học  Thế  Giới. Quan  niệm  về  t́nh  Huynh  Đệ  Đại  Đồng  trong  nhân  loại  chưa  được  nêu  ra    chúng  tôi  cũng  chưa  kịp  nghĩ  đến, bởi    đề  nghị  thành  lập  Hội  chỉ  đột  xuất  từ  cái  đề  tài  đang  thảo  luận. Tuy  nhiên, khi  ṿng  ảnh  hưởng  của  Hội  nới  rộng  để  bao  gồm  cả  những  dân  tộc  phương  Đông  cùng  những  tôn  giáo    những  chế  độ    hội  của  họ, th́  t́nh  Huynh  Đệ  Đại  Đồng  đă  trở  nên  một  điều  cần  thiết, và  trên  thực  tế, là  nền  tảng  cho  toàn  thể    cấu  xây  dựng  Hội. Hội  Thông  Thiên  Học    một  công  tŕnh  tuần  tự  phát  triển   tiến  hóa; chứ  không  phải    một  sự  tạo  dựng    mưu  tính  trước (trên  cơi  giới  hữu  h́nh).


         Khi  Hội  đă  được  chấp  thuận  trên  nguyên tắc, một  phiên   họp  sau  được  tổ  chức  để  soạn  thảo  bản  Điều  Lệ, Nội  Quy, và  bầu  một  ban  chấp  hành  để  quản  trị  công  việc  Hội. Ngày  30  tháng  10, bản  Điều  Lệ    Nội  Quy  được  chấp  thuận, và  một  ban  chấp  hành  được  tuyên  bố  như  sau:


             HỘI  TRƯỞNG…………………….HENRY S. OLCOTT

 

             PHÓ  HỘI  TRƯỞNG:    B.S  PANCOATS    G.H.FELT


             TỔNG  THƯ    NGOẠI  VỤ:       H.P. BLAVATSKY


             TỔNG  THƯ    NỘI  VỤ:            JOHN S. COBB


             THỦ  BỔN:                                    HENRY  NEWTON


             QUẢN    THƯ  VIỆN:                CHARLES  SOTHERAN


            LUẬT    NHIỆM  CÁCH:           WILLIAM Q.  JUDGE


               năm  vị  CỐ  VẤN.


Phiên
  họp  lại  tái  nhóm  vào  ngày  17  tháng  11  năm  1875  để  đọc  bản  Tuyên  Ngôn  của  Hội, và  để  nghe  vị  Hội  Trưởng  Đại    Henry S.  Olcott, đọc bài  diễn  văn  khai  trương. Thế    Hội  Thông  Thiên  Học  Thế  Giới  được  chính  thức  thành  lập  vào  ngày  17  tháng  11  năm  1875.


                                                      III
 
           khi  đoạn  Hồi    này  của  tôi  được  đăng  trong  tạp  chí  “THE  THEOSOPHIST” tháng  11, năm  1892, số  tạp  chí  ấy  cũng    đăng  tiểu  sử  hay    lịch  của  nhiều  vị  trong  Ban  Chấp  Hành  của  Hội, trong  số  đó    một  chuyện  lạ  về  kinh  nghiệm  huyền  linh  của  ông  W. L. Alden.


           Ông  Alden  hồi  đó    một  biên  tập  viên  của  tờ “NỮU  ƯỚC  THỜI  BÁO”, rất  nổi  tiếng  về  những  bài  phê  b́nh  hài  hước    sắc  xảo  của  ông  đối  với  những  vấn  đề  thời  sự  hàng  ngày. Khi  chúng  tôi  mới  quen  nhau, ông  ấy    gặp  một  chuyện  khá  thú  vị. Lúc  ấy  ông  viết  bài    luận  cho  báo  Graphic, c̣n  tôi  th́  viết  phóng  sự  về  các  hiện  tượng  huyền  linh    Chittenden  cũng  cho  tờ  báo  nhật  báo  này. Những  chuyện  hồn  ma  hiện  h́nh    nông  trại  Eddy  đă  hấp  dẫn  một  số  đông  người  hiếu  kỳ  hằng  ngày  đến  ṭa  soạn  để  hỏi  những  chuyện  bâng  quơ    lư. Họ  làm  quấy  rầy  vị  Chủ  Bút, ông  Groly, đến  mức  làm  cho  ông  này phải  công  bố  một  tấm  h́nh  lớn vẽ  ông  ta  đứng  chận  cửa  vào  ṭa  soạn, với  một  khẩu  súng  lục    một  cặp  kéo  lớn   trong  tay, để  tự  vệ  chống  lại  sự  đột  nhập  của  những  kẻ    tích  sự  làm  phiền  nhiễu    mất  thời  giờ.


           Một  ngày  nọ, có  một  vị  trưởng  lăo  mặc  y  phục  theo  lối  Đông  Phương  bước  vào  ṭa  soạn, tay  cầm  một  quyển  sách  h́nh  dáng  lạ  kỳ, và    vẻ  rất  cũ. Ông  ta  chào  các  nhân  viên  ṭa   bài  phóng  sự  của  tôi, và  về  khoa  Thần  Linh  Học  Tây  Phương    Đông  Phương. Tất  cả  mọi  người  đều  rời  khỏi  bàn  viết    tề  tựu  chung  quanh  ông  lăo. Khi  nói  về  Khoa  Phương  Thuật, ông  lăo  lẳng  lặng  quay  về  phía  ông  Alden, mà  cho  đến  khi  đó  không  ai  biết    về  những  sở  thích  Huyền  Môn  của  ông  ta, và  hỏi:


          “Thưa  ông, ông  có tin  sự  thật  của  khoa  Phương  Thuật  không?”


             cùng  ngạc  nhiên    câu  hỏi  đột  ngột, ông  Alden  đáp:
         “À, tôi    đọc  quyển  ZANONI (*)[7], và  nghĩ rằng  trong  đó    lẽ    ít  nhiều  sự  thật.”


           Đáp  lời  yêu  cầu  của  vài  người, ông  lăo  đưa  quyển  sách  dị  kỳ  của  ông  ta  cho  mọi  người  xem. Th́  ra  đó    một  quyển  cổ  thư  dạy  về  Khoa  Phương  Thuật, viết  bằng  chữ  Á  Rập  hay  một  thứ  chữ  Đông  Phương, có  rất  nhiều  h́nh  ảnh  xen  lẫn  với  chữ  viết. Tất  cả  mọi  người  đều  rất  thích  thú, nhất    ông  Alden, và  khi  chia  tay  từ  giă, ông  này  hỏi  vị  trưởng  lăo    thể  nào  họ  sẽ  gặp  lại  nhau  để  nói  chuyện  thêm. Ông  lăo  gật  đầu  mỉm  cười, và  đưa  cho  ông  Alden  một  địa  chỉ. Nhưng  khi  ông   Alden  đi  đến  nơi, th́  đó  chỉ    một  địa  chỉ  ma, một  cửa  hàng  bán  h́nh  tượng    kinh  sách  Gia    Giáo!


         Ông  bạn  tôi  vẫn  không  thất  vọng, và  nhiều  tháng  sau  đó, để  mắt  theo  dơi  những  người    ông  tiếp  xúc  hay  gặp  gỡ  ngoài  đường  với  niềm  hy  vọng  sẽ  gặp  lại  ông  lăo    mật. Ông  Croly  cho  tôi  biết  rằng  người  lạ  mặt  cũng  không  hề  trở  lại  viếng  thăm  ṭa  soạn  một  lần  nào  nữa, dường  như  ông  ta  đă  biến  mất  vào  trong  ruột  quả  địa  cầu!


          Sự  xuất  hiện  bất  ngờ    th́nh  ĺnh  biến  mất  của  những  người    mật  để  đem  những  quyển  sách  quư  cho  người    căn  duyên; hoặc  để  đưa  những  lời  khuyên  hữu  ích, hoặc  để  chỉ  đường  dẫn  lối  cho  người  tầm  Đạo giữa  những  khó  khăn  chướng  ngại    y  đang  cố  gắng  vượt  qua  để  đi  đến  chân  lư, vốn  không  phải    một  kinh  nghiệm  lạ  thường. Có  nhiều  trường  hợp  như  vậy  đă  được  ghi  nhận  trong  lịch  sử  tôn  giáo. Sự  xuất  hiện  đó  đôi  khi  xảy  ra  trong  khi  thức  tỉnh, hoặc  đôi  khi  trong  những  cơn  linh  ảnh  vào  những  giờ  ban  đêm.


          Sự  mách  bảo    khi  đến  như  những “tia sáng” xẹt  qua  trong  trí  óc, những  tia  sáng  trực  giác (Buddhi) rọi  vào  cái  trí  suy  luận (Manas) đem  lại  những  phát  minh  lớn  lao  về  khoa  học, chẳng  hạn  như  ư  niệm  về  kiếng  quang  phổ (Spectroscope) xẹt  qua  trí  óc  của  fraunhofer; ư  niệm  về  tính  chất  của  sấm  sét    ống  thu  lôi  trong  trí  của  Franklin; ư  niệm  về  máy  điện  thoại  trong  trí  của  Edison, và  về  hằng  muôn  ngàn  sự  việc    đại  hay  định  luật  lớn  lao  khác  nữa  vẫn  chiếu  rọi  ánh  sáng  vào  tâm  hồn  những  người  thụ  cảm  sẵn  sang  tiếp  nhận  nguồn  cảm  hứng  thiêng  liêng.


          Dường  như    một  điều  quá  đáng    nói  rằng  mỗi  người  tầm  Đạo  đều      duyên  đạt  tới  sự  hiểu  biết  một  lần  trong  đời  ḿnh, nhưng  tôi  tin  rằng  số  người  may  mắn  gặp  được    duyên  đó  c̣n  gấp  trăm  lần  nhiều  hơn    người  ta  tưởng. Thật    một  điều  bất  hạnh  cho  đương  sự  nếu   quan  niệm  sai  lầm, y  tưởng  rằng  vị  sứ  giả  đem    duyên  tới  cho  y  phải    một  h́nh  dáng  hay  cốt  cách  đặc  biệt  như  thế  nào  đó, hoặc  bức  thông  điệp  gởi  cho  y  phải  đi  kèm  với  những  hiện  tượng  diệu  huyền  thuộc  loại  nào. Rồi  với  những  thành  kiến  đó  làm  che  ám  lu  mờ, có  khi “y  giao  tiếp  với  một  vị  thiên  thần    không  hề  hay  biết”, hoặc  chạm  trán  với  quư  nhân    ngoài  đường    không  hề cảm  thấy  một  rung  động  khác  lạ  để  làm  cho  y  phải  chú  ư, thay    mải  lo  chăm  chú  nh́n  cảnh  vật    chung  quanh. Tôi nói những    tôi  biết.


                                                        IV

          Theo  chương  tŕnh  đă  định, tối  hôm  18  tháng  9, ông  George H. Felt  tiếp  tục  cuộc  thuyết  tŕnh    thú  về  Huyền  Môn  Ai  Cập    tŕnh  bày  những  đồ  h́nh    màu  để  diễn  tả  những  sự  khám  phá  của  ông. Vài  thính  giả  sau  đó  cho  biết  rằng  họ  thấy  ánh  sáng  chập  chờn  trên  những  đồ  h́nh, nhưng  tôi  nghĩ  rằng  điều  đó có  lẽ  một  phần    do  sự  tự  kỷ  ám  thị, c̣n  một  phần, có  thể  như  ông  Felt  nói, là  do  những  đặc  tính  huyền  diệu  của  các  đồ  h́nh. Riêng  tôi  không  nh́n  thấy      tính  chất  huyền  linh, cũng  như  những  người  khác  trong  cử  tọa, trừ  ra  một  thiểu  số  rất  ít.


           Trong  buổi  thuyết  tŕnh, ông  felt  khẳng  định  không  chút  do  dự  sự  hiện  hữu  của  các  giới  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH, ảnh  hưởng  của  chúng  đối  với  loài  vật    sự  liên  hệ  của  chúng  tôi  đối  với  loài  người. Trên  một  bài  báo  gởi  đăng  trên  tạp  chí “London  Spiritualist” ngày  19  tháng  6 năm  1878, ông  Felt  viết:


          “….TÔI  ĐƯỢC  BIẾT  CHẮC  CHẮN  RẰNG  CÁC  LOẠI  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH  QUẢ    THẬT  NHỞ  NHỮNG  CUỘC  SƯU  TẦM  CỦA  TÔI  VỀ  MÔN  KHẢO  CỔ  AI  CẬP. TRONG  KHI  TÔI  VẼ  HỌA  ĐỒ  NHỮNG  V̉NG  HOÀNG  ĐẠO  AI  CẬP  ĐỂ  CỐ  GẮNG  T̀M  RA  NHŨNG  ĐIỂM  TƯƠNG  QUAN  VỀ  SỐ  HỌC  GIỮA  CHÚNG  VỚI  NHAU, TÔI  NHẬN  THẤY  DÔI  KHI    NHỮNG  TRIỆU  CHỨNG  RẤT  LẠ  LÙNG  KHÔNG  THỂ  GIẢI  THÍCH. NGƯỜI  NHÀ  TÔI  NHẬN  THẤY  RẰNG    NHỮNG  LÚC    CON  CHÓ    CON  MÈO  CỦA  TÔI, BIỂU  LỘ  NHỮNG  CẢM  ỨNG  RẤT  DỊ  KỲ, VÀ  HỌ  LƯU  Ư  TÔI  VỀ  CHÚNG. CHỪNG  ĐÓ, TÔI  MỚI  THẤY  RẰNG  MỖI  KHI  TÔI  BẮT  ĐẦU  LÀM  NHỮNG  CUỘC  KHẢO  CỨU  VỀ  LOẠI  NÀO  ĐÓ, TH̀  CON  MÈO  TRƯỚC  HẾT  LỘ  VẺ  BĂN  KHOĂN  RAY  RỨT, VÀ  TRONG  MỘT  LÚC  CON  CHÓ  LẠI  GẦN  ĐỂ  TRẤN  AN  NÓ, NHƯNG  KHÔNG  BAO  LÂU  CON  CHÓ  CŨNG  LẠI  TỎ  VẺ  SỢ  HĂI  MỘT  VẬT    ĐANG  ĐỘT  NHIÊN  XUẤT  HIỆN  TRONG  PH̉NG.


           DƯỜNG  NHƯ  CON  MÈO    NHỮNG  GIÁC  QUAN  TINH  VI  BÉN  NHẠY  HƠN, KHI  ĐÓ  CẢ  HAI  CON  ĐỀU  MUỐN  ĐƯỢC  TÔI  ĐƯA  RA  KHỎI  PH̉NG, VÀ  CHÍNH  CHÚNG    CŨNG  TỰ  T̀M  CÁCH  THOÁT  RA  BẰNG  CÁCH  LAO  ĐẦU  XUYÊN  QUA  KIẾNG  CỬA  SỔ. KHI  ĐĂ  ĐƯỢC  THẢ  RA  NGOÀI, CHÚNG  C̉N  KÊU    SỦA  TRỞ  LẠI, DƯỜNG  NHƯ  MUỐN  GỌI  TÔI  HĂY  ĐI  RA. CHÚNG  VẪN  TIẾP  TỤC  KÊU  NHƯ  THẾ  MỘT  HỒI  LÂU, VÀ  SAU  CÙNG  TÔI  PHẢI  BẮT  BUỘC  ĐI  ĐẾN  KẾT  LUẬN  RẰNG  CHÚNG  ĐĂ  CẢM  XÚC  ĐƯỢC  NHŨNG  SỰ  VẬT  HAY  ẢNH  HƯỞNG    H̀NH  NÀO  ĐÓ    TÔI  KHÔNG  NHẬN  THẤY.


          THOẠT  TIÊN, TÔI  CHO  RẰNG  NHỮNG  H̀NH  THÙ  GỚM  GHIẾC  ĐƯỢC  VẼ  TRÊN  CÁC  V̉NG  HOÀNG  ĐẠO  CHỈ    DO “ SỰ  TƯỞNG  TƯỢNG      CỦA  NHỮNG  BỘ  ÓC  BỆNH  HOẠN “, NHƯNG  VỀ  SAU  TÔI  MỚI  NGHĨ  RẰNG  ĐÓ    CÁCH  TR̀NH  BÀY  NHỮNG  SỰ  VẬT  TỰ  NHIÊN  THEO  MỘT  CÔNG  THỨC  NHẤT  ĐỊNH. SAU  KHI  ĐĂ  THỰC  HIỆN  MỘT  LOẠT  NHỮNG  CUỘC  THÍ  NGHIỆM  VỀ  VẤN  ĐỀ  NÀY, TÔI  MỚI  BIẾT  CHẮC  RẰNG  NHỮNG  H̀NH  VẼ  TRÊN  CÁC  V̉NG  HOÀNG  ĐẠO    CÁC  NGÔI  KIẾN  TRÚC, DỀN  ĐÀI  CỔ  AI  CẬP    SỰ  MIÊU  TẢ  NHỮNG  CHỦNG  LOẠI  SINH  VẬT    H̀NH  TRONG    SÁNG  TẠO, ĐƯỢC  TR̀NH  BÀY  DƯỚI  NHỮNG  NÉT  KHÁ  CHÍNH  XÁC , VÀ  XEN  LẪN  VỚI  H̀NH  ẢNH  CỦA  NHỮNG  SỰ  VẬT  TỰ  NHIÊN  KHÁC. TÔI  PHÁT  HIỆN  RẰNG  NHỮNG  SINH  VẬT  ĐÓ    NHỮNG  THỰC  THỂ    TRÍ  KHÔN, VÀI  LOẠI  ĐÓ    VẺ  HUNG  ÁC    GÂY  SỢ  HĂI  CHO  NHỮNG  THÚ  NHÀ, C̉N  NHỮNG  LOẠI  KHÁC, TRÁI  LẠI, CÓ  VẺ  HIỀN  LÀNH    NHỮNG  THÚ  NHÀ  RẤT  ƯA  THÍCH    LẤY  LÀM  THỎA  MĂN  KHI  CHÚNG  XUẤT  HIỆN.


          TÔI  TIN  RẰNG  CHÚNG  GỒM  THÀNH  PHẦN  NHỮNG  CHỦNG  LOẠI  SINH  VẬT  TRONG  MỘT  HỆ  THỐNG  TIẾN  HÓA  BẮT  ĐẦU  TỪ  NHỮNG  H̀NH  THỂ    TRI  BẤT  ĐỘNG  TRONG  THIÊN  NHIÊN, ĐI  XUYÊN  QUA  LOÀI  ĐỘNG  VẬT RỒI  ĐẾN  CÁC  CẤP  ĐẲNG  THIÊN  THẦN    TR̀NH  ĐỘ  PHÁT  TRIỂN  CAO  TỘT. VÀI  LOẠI  KHÔN  NGOAN    THỂ  ĐƯỢC  KIỂM  CHẾ  KHI  CON  NGƯỜI  LẦN  LẦN  CÀNG  QUEN  THUỘC  NHIỀU  HƠN  VỚI  CHÚNG, HAY  KHI  CON  NGƯỜI  LẦN  LẦN  CÀNG  SINH  HOẠT  ĐIỀU  H̉A  HƠN  VỚI  THIÊN  NHIÊN. SỰ  TINH  KHIẾT  CỦA  TÂM  HỒN    THỂ  XÁC    YẾU  TỐ  RẤT  HỮU  HIỆU, VÀ  TÔI  THẤY  RẰNG  CHÚNG  ĐẶC  BIỆT  GHÊ  TỞM  SỰ  HÚT  THUỐC, NHAI  THUỐC      NHỮNG  THÓI  QUEN  BẤT  HẢO  KHÁC.


           TÔI  NHẬN  THẤY  RẰNG  KHI  NHỮNG  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH  KHÔNG  BỊ  HOÀN  TOÀN  CHẾ  NGỰ, CHÚNG  TRỞ  NÊN  TINH  QUÁI, NGUY  HIỂM, VÀ    THỂ  GÂY  THƯƠNG  TỔN, TÁC  HẠI  CHO  LOÀI  NGƯỜI….”


                                                                              G.H.FELT
                                                 (LONDON SPIRITUALIST, 19-6-1878)


          Tuy  bài  diễn  văn  khai  trương  của  tôi  được  toàn  thể  cử  tọa  vỗ  tay  hoan  nghinh, nhưng    hơi    vẻ  dại  dột  sau  mười  bảy  năm  kinh  nghiệm  phũ  phàng. Một  phần  lớn  những  kết  quả  tiên  liệu  đă  được  thực  hiện, nhưng  nhiều  sự  dự  liệu  đă  biến  chất.
          Điều    chúng  tôi  tin  tưởng  như  cái  nền  tảng  thực  nghiệm  tốt  đẹp  cho  mọi  dự  tính  về  sau, tức    sự  chứng  minh của  ông  Felt  về  sự  hiện  hữu  của  các  chủng  loại  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH, đă  trở  nên  một  sự  thất  vọng  đau  đớn  hoàn  toàn. Với  tất  cả  những    ông  ta  đă  làm  theo  chiều  hướng  đó, ông  ta  vẫn  không  chỉ  cho  chúng  tôi  thấy  được    cả, chí  đến  cái  chót  đuôi  của  một  Tinh  Linh  nhỏ    nhất. Y  làm  cho  chúng  tôi  trở  thành  cái  tṛ  cười  của  giới  Thần  Linh  Học    các  giới  Duy  Vật  hoài  nghi. Y    một  người    những  sở  đắc  phi  thường, và  đă  thực  hiện  những  khám  phá  đáng  kể. Tôi  tin  rằng  y  đă  thực  hiện  những    y  đă  tuyên  bố, và  nếu  y  chỉ    bền  chí  theo  đuổi  đến  cùng  những    y  đă  khởi  đầu, th́    lẽ  y  đă  vang  dội  tên  tuổi  trong  số  những  người  nổi  tiếng  nhất  của  thời  đại  chúng  ta.


          đă  thường  thấy    HPB  sử  dụng  Tinh  Linh  Ngũ  Hành  để  làm  các  hiện  tượng, Signor B.  cũng  đă  nhiều  lần  làm  như  vậy    người  khách  kỳ  lạ  làm  cho  chúng  xuất  hiện  ngay  trong  pḥng  của  tôi, th́  tại  sao  tôi  không  tin  rằng  ông  Felt  cũng    thể  làm  giống  như  thế, nhất    khi    HPB  nói  với  tôi  rằng  y    thể ? Bởi  vậy, với  sự  táo  bạo  của  nhà  khai  sáng    sự  nhiệt  thành  của  một  người  lạc  quan  ḷng  đầy  hứng  khởi, tôi  đă  để  cho  óc  tưởng  tượng  của  tôi  tự  do  hoạt  động, và  tiên  liệu  trong  bài  Diễn  Văn  của  tôi  những  kết  quả    thể  thực  hiện  nếu  ông  Felt  làm  đúng  như  lời  hứa. V́  nhu  cầu  tài  chính, ông  Felt  đă   yêu  cầu  Thủ  Quỹ  Newton  ứng  trước  cho  y  một  trăm  đô  la  để  đài  thọ  phí  tổn  trong  các  cuộc  thí  nghiệm, nhưng  rốt  cuộc  vẫn  không  làm  xuất  hiện  được  Tinh  Linh  Ngũ  Hành! Các  hội  viên   lấy  làm  bất  măn; sau  cùng, y  ra  khỏi  Hội; và    thấy  không  c̣n  trông  cậy  được    nữa    nơi  y, một  số  hội  viên  cũng  biến  mất  luôn, chỉ    chúng  tôi  c̣n    lại  để  nỗ  lực  làm  việc  với  sức  cố  gắng  tối  đa.


          Đó  quả    một  công  việc  nặng  nhọc, như  tất  cả  các  hội  viên  hoạt  động  hồi  thời  kỳ  đó  đều  nhớ  rơ. Mục  tiêu  của  chúng  tôi    học  hỏi, bằng  cách  thực  nghiệm, bất  cứ  những      thể  học  được  về  những  thành  phần  cấu  tạo  của  con  người, và  vị   trí  của  y  trong  thiên  nhiên. Nhất    Trí  Lực, hoạt  động  tích  cực    cương  vị  Ư  CHÍ, vẫn    một  sự    hiểm  lớn  đối  với  chúng  tôi. Nhà  thuật    của  phương  Đông, chí  đến  nhà  truyền  nhân  điện  của  phương  Tây  đều  dùng  nó. Người  khai  triển  được    sẽ  trở  thành  một  vị  anh  hùng; người  khác  làm    liệt  nó, và  trở  thành  một  người  đồng  bóng. Tác  dụng    địch  của    làm  cho  tất  cả  mọi  sinh  vật    các  cơi  giới  vật  chất  đều  phải  chịu  khuất  phục, và  khi    cả  óc  tưởng  tượng  cùng  hoạt  động  đi  kèm, th́    SÁNG  TẠO,bằng  cách  phóng  ra  ngoại  giới  những  h́nh    tưởng  mới  tạo  nên.


           Như  vậy, mặc  dầu  ông  Felt  đă  bội  ước, và  chúng  tôi  không  thể  trông  cậy  nơi  một  cuộc  hành  tŕnh  trên  biển  lặng  song  êm, nhưng  chúng  tôi  vẫn  c̣n  nhiều  lănh  vực  cần  khảo  sát, và  chúng  tôi  cũng  đă  thăm  ḍ, thám  hiểm  những  lănh  vực  đó  ít  nhiều. Nhũng  văn  khố    cho  biết  rằng  chúng  tôi    trắc  nghiệm  những  đồng  tử, thử  làm  những  cuộc  thí  nghiệm  về  các  môn  phản  xạ, đọc    tưởng, truyền  nhân  điện, và  trao  đổi  thư  từ  với  các  báo  chí. Nhưng  chúng  tôi  đă  tiến  bước  rất  chậm, bởi    mặc  dầu  tất  cả  mọi  người  đều  đồng  ư    phải  giữ  vững  tinh  thần, nhưng  trong  thâm  tâm  mỗi  người  đều  chán  nản  về  sự  thất  bại  của  ông  Felt, và  dường  như  không    triển  vọng  t́m  người  thay  thế: Nhà  phù  thủy  làm  mưa, Signor B., đă  bị    HPB   cấm  cửa  đến  nhà  sau  vụ  mưu  toan  gây  sự  chia  rẽ  giữa  chúng  tôi; người  khách  kỳ  lạ  đă  kêu  gọi  âm  binh  xuất  hiện  trước  mắt  tôi  không  c̣n  trở  lại  nữa; và    HPB, mà  từ  nay  tất  cả  mọi  người  đều  trông  đợi  sự  giúp  đỡ, lại  từ  chối  không  chịu  làm  bất  cứ  một  hiện  tượng  nhỏ  nhặt  nào  nữa  trong  những  buổi  họp.
           Thế    số  hội  viên  cứ  thưa  thớt  lần  lần  cho  đến  khi, độ  một  năm  sau  đó, chỉ  c̣n  sót  lại  t́nh  trạng  sau  đây: cái  h́nh  thức  của  một  tổ  chức  tốt  với  một  chương  tŕnh  hoạt  động  phong  phú    lành  mạnh; một  tiếng  tăm  vang  dội  lẫy  lừng; vài  hội  viên  hững  hờ  tiêu  cực; và  một  trung  tâm  sinh  khí  dồi  dào  bất  tận  trong  niềm  hứng  khởi  cuồng  nhiệt  của  hai  người  bạn  đồng  môn, một  nam  một  nữ. Họ  không  bao  giờ    chút  mảy  may  nghi  ngờ, dù  chỉ  trong một  lúc, sự  hiện  hữu  của  các  đấng  Chân  Sư, tính  cách  thiêng  liêng  cao  quư  của  công  việc  được  giao  phó  cho  họ, hay  sự  thành  công  hoàn  toàn, và  tối  hậu  của  công  việc  ấy.


          Ông  Judge    một  người  bạn  trung  thành    sẵn  sàng  trợ  giúp, nhưng  lại  quá  non  nớt  về  tŕnh  độ  tâm  linh  để    thể  được  coi  như  một  người  thứ  ba  trên  cương  vị  b́nh  đẳng  với  chúng  tôi. Mỗi  buổi  tối  sau  khi  chúng  tôi  đă  thiết  lập  Trụ  Sở  của  Hội    ổn  định  nơi    trú, khi  các  quan  khách  đă  ra  về, bà  HPB    tôi    thói  quen  ngồi  mạn  đàm    hút  thuốc  nghỉ  ngơi  trước  khi  chia  tay. Nhiều  khi  chúng  tôi  phải  bật  cười    nghĩ  rằng thật là hiếm    thay  những  người    chúng  tôi    thể  trông  cậy  để  cùng  sát  cánh  hợp  tác  với  chúng  tôi  qua  tất  cả  những  bước  thăng  trầm, ch́m  nổi  của  cuộc  đời.


           Điều  duy  nhất    chúng  tôi  mỗi  lúc  càng  cảm  thấy    rệt  hơn  với  thời  gian  qua, là  hai  chúng  tôi  tuyệt  đối    thể  tùy  thuộc  lẫn  nhau      tưởng  phô  diễn  Đạo  Lư, dẫu  cho  trời  long  đất  lở  hay  đến  ngày  Tận  Thế. Những  kẻ  thù  nghịch  đôi  khi  đă  nói  rằng  khi  chúng  tôi  từ  giă  Mỹ  Quốc  lên  đường  sang  Ấn  Độ, th́  Hội  Thông  Thiên  Học    Mỹ  cũng  không  c̣n. Điều  này  cũng    một  phần  đúng, v́  do  nhiều  nguyên  nhân, Hội  không    làm    đáng  kể  trong  khoảng  thời  gian  sáu  năm  sau  đó. Cái  thành  phần  ṇng  cốt, vốn  luôn  luôn    yếu  tố  hữu  hiệu  nhất  trong  những  phong  trào  tương  tự, đă  bị  phân  tán; không  ai    thể  thiết  lập  một  thành  phần  cốt  cán  mới; người  ta  không  thể  tạo  nên  một  HPB  thứ  nh́; và ông  Judge, lúc  ấy    triển  vọng  tương  lai  duy  nhất  để  đóng  vai  tṛ  lănh  đạo    tổ  chức, lại  phải  lên  đường  sang  các  xứ  Nam  Mỹ    hoạt  động  nghề  nghiệp.
          Tuy  nhiên, suốt  thời  gian  những  năm  ấy, những  bức  thư  của  ông  Judge  gởi  cho  chúng  tôi  cho  thấy  rằng  sự  nhiệt  thành  của  y  đối  với  Hội  Thông  Thiên  Học    các  vấn  đề  Huyền  Môn  vẫn  không  suy  giảm. Sự  mong  ước  lớn  nhất  của  y    trong  tương  lai    ngày  y  sẽ  được  tự  do  để  dành  hết  thời  giờ    sức  lực  vào  công  việc  của  Hội  Thông  Thiên  Học. Nhưng, cũng    như  hột  giống  cây  xa  trục  thảo  bị  chôn  vùi  sâu  trong  ḷng  đất, bắt  đầu  nẩy  mầm  khi  những  người  đào  giếng  bươi    lên  khỏi  mặt  đất, th́  hột  giống    chúng  tôi  gieo  trong  tâm  hồn  dân  chúng  Mỹ  trong  khoảng  thời  gian  giữa  những  năm  1874    1878, cũng  đă  nẩy  mầm  khi  thời  giờ  của    đă  điểm; và  ông  Judge    người      duyên  tiền  định để  gặt  hái  kết  quả. Như  vậy, luật  Nhân  Quả  vẫn  luôn  luôn  tác  động  âm  thầm  để  chỉ  định  mỗi  vai  tṛ  khai  phá, gieo  giống    gặt  hái.
         Khả  năng  sinh  tồn  của  Hội  Thông  Thiên  Học  được  ủy  thác  cho  chúng  tôi    những  nhà  sáng  lập  trên  phương  diện  hữu  h́nh, nhưng  trên  khía  cạnh    vi  huyền  diệu  th́  sự  sống  c̣n  của  Hội  vốn  đă  định  sẵn  nơi  cái    tưởng  căn  bản  của      nơi  các  đấng  Cao  Cả  thể  hiện  cái    tưởng  ấy, các  ngài  đă  giáo  hóa  chúng  tôi    gieo  vào  tâm trí  chúng  tôi  ánh  sáng  thiện  chí  của  các  ngài. V́  cả  hai  chúng  tôi  đă  nhận  thức    điều  ấy, và    chúng  tôi  được  cái  ân  sủng  làm  việc  cho  Hội    hợp  tác  với  các  ngài, nên  giữa  hai  chúng  tôi    một  sợi  dây  liên  lạc  chặt  chẽ  mật  thiết  hơn  với  bất  cứ  mối  liên  hệ  thường  t́nh  nào  của  người  thế  gian.


            Điều  ấy  làm  cho  chúng  tôi  dung  ḥa  với  những  khuyết  điểm  của  nhau    chịu  đựng  tất  cả  những  sự  va  chạm  khổ  đau  đi  liền  với  sự  cộng  tác  giữa  hai    tính  hoàn  toàn  tương  phản,  trái  ngược. Riêng  phần  tôi, nó  làm  cho  tôi  gạt  bỏ  như  những  vật    giá  trị  tất  cả  những  mối  liên  hệ  trói  buộc  thường  t́nh  cùng  những  điều  mong  ước    tham  vọng  trần  gian. Thật  vậy, trong  thâm  tâm  tôi  cảm  thấy  rằng  thà  làm  một  người  lao  công  giữ  cửa, hay  chí  đến  một  vai  tṛ  ti  tiện  thấp  kém  hơn  nữa  trong  công  việc  phụng  sự  Thiên  Cơ, c̣n  hơn    sống  trên  nhung  lụa  giữa  chốn  xa  hoa  đài  các    cuộc  đời    thể  cung  hiến  cho  tôi. Bà  HPB  cũng  chia  sẻ  những  quan  niệm  của  tôi    niềm  hăng  say  phấn  khởi    tận  của    trong  công  việc  Đạo  Sự    một  tấm  gương  khích  lệ  cho  bất  cứ  người  nào  đến  tiếp  xúc  với  bà. Khi  đă  cảm  nghĩ  như  thế, và      thế  sẵn  sàng  làm  tất  cả  mọi  sự  hy  sinh  cho    tưởng  như  trường  hợp  của  chúng  tôi, th́  sự  phá  sản  của  hội  Thông  Thiên  Học  chắc  chắn    một  điều  không  thể  xảy  ra.


CHƯƠNG BẢY


VÉN
  MÀN  ISIS (*)[8]

 

Nếu  một  bộ  sách    thể  được  coi  như  đánh  dấu  một  giai   đoạn  lịch  sử, th́  đó  hẳn    bộ  sách  này. Xét  về  một  phương  đầu  tiên  của  Darwin  trên  một  phương  diện  khác. Cả  hai  đều    những  gịng  thủy  triều  lên  cao  trong  trào  lưu    tưởng  cận  đại: mỗi  bộ  sách  này  đều    tác  dụng  tảo  trừ  những  điều  dị  đoan  sống  sượng  của  khoa  thần  học    thay  thế  đức  tin  nơi  phép  lạ  bằng  sự  tin  tưởng  nơi  định  luật  thiên  nhiên. Tuy  vậy, trường  hợp  khởi  đầu  viết  bộ  sách  này  cũng  rất  đơn  giản    b́nh  thường  chứ  không      đặc  biệt.


           Một  ngày  nọ  vào  mùa    năm  1875, bà  HPB  đưa  cho  tôi  xem  vài  tờ  bản  thảo  của    viết, và  nói:


          “Tôi  viết  cái  này  đêm  hôm  qua, do “LỊNH  DẠY”, nhưng  để  dùng  làm    th́  tôi  không  biết. Có  thể  dùng  làm  một  bài  báo, có  thể  để  làm  sách, cũng    thể  để  không  làm    cả. Tuy   nhiên, tôi viết v́  tuân  lệnh  dạy    thôi.”


          Rồi  đó, bà  cất  bản  thảo  đó  vào  một  hộc  tủ, và  không  nói    đến    nữa  trong  một  thời  gian. Nhưng  ít  tháng  sau  đó, bà  đi  Syracuse ( New York ) thăm  hai  người  bạn  mới    ông    Corson, giáo    trường  Đại  Học  Cornell, và  tiếp  tục  công  việc  viết  lách. Bà  viết  thư  cho  tôi  biết  đó  sẽ    quyển  sách  nói  về  lịch  sử    triết  học  của  các  Đạo  Phái  phương  Đông, và  những  mối  tương  quan  giữa  các  Đạo  Phái  ấy  với  những  môn  phái  của  thời  đại  bấy  giờ. Bà  cho  biết  rằng    viết  về  những  vấn  đề      chưa  bao  giờ  học, và  chú  thích  những  quyển  sách      chưa  từng  đọc  qua  trong  đời  bà. Bà  cho  biết  thêm  rằng, để  kiểm  chứng  những  điều    viết, Giáo    Corson  đă  so  sánh  những  đoạn  chú  thích  của    với  những  bộ  sách  cổ  điển  trong  thư  viện  của  trường  Đại  Học, th́  thấy    đúng.
         Khi    trở  về  New  York, bà  không  chăm  chú  lắm  vào  công  việc  này, mà  chỉ  viết  một  cách  rời  rạc, không  liên  tục.  Nhưng  độ  một  hay  hai  tháng  sau  việc  thành  lập  Hội  Thông  Thiên  Học, bà    tôi  cùng  thuê  một  ngôi  nhà  hai  tầng    đường  34th  West, bà    tầng  dưới, tôi    tầng  lầu  trên, từ  đó  trở  đi  công  việc  viết  bộ  Isis  mới  được  thực  hiện  liên  tục  không  gián  đoạn  cho  đến  khi  hoàn  thành  vào  năm  1877.


           Trong  suốt  cuộc  đời  bà, bà  chưa  từng  viết  văn  viết  sách  bao  giờ, tuy  thế  tôi  không  thấy  một  nhà  văn  hay  nhà  báo  nào    thể  làm  việc  một  cách  dẻo  dai  bền  bỉ    hăng  say  như  bà. Mỗi  ngày, bà  ngồi  vào  bàn  viết  từ  sáng  mai  cho  đến  khuya, tôi  với    không  bao  giờ  đi  ngủ  trước  hai  giờ  sáng. Lúc  ban  ngày, tôi  phải  làm  việc  nghề  nghiệp  riêng  của  tôi, nhưng  luôn  luôn  sau  bữa  cơm  chiều    chúng  tôi  ngồi  chung  lại  một  bàn    làm  việc  chẳng  khác  nào  như  người  ta  làm  giờ  phụ  trội  để  t́m  sống, cho  dến  khi  thân  xác  mỏi  mệt  bắt  buộc  chúng  tôi  phải  nghỉ.


           Thật    một  kinh  nghiệm  quư  báu  cho  tôi. Trong  khoảng  gần  hai  năm  đó, tôi  đă  học  hỏi  được  rất  nhiều  điều    đáng  lẽ  người  ta  phải  dành  trọn  cả  một  đời  người  để  đọc  sách    suy  gẫm  mới    thể  đạt  được. Tôi  không  phải  chỉ  làm  công  việc  của  một  người  ghi  chép  hay  sửa  bài, mà    làm  cho  tôi  trở  thành  một  cộng  tác  viên. Bà  làm  cho  tôi  phải  sử  dụng  tất  cả   những    tôi  đă  đọc    suy  tư, và  kích  thích  bộ  óc  của  tôi  làm  việc  để  t́m  giải  đáp  cho  những  vấn  đề  mới      đặt  ra  cho  tôi  trên  địa  hạt  Huyền  Môn    siêu  h́nh. Những  vấn  đề  này  hoàn  toàn  vượt  ngoài  sự  học  hỏi    tầm  kiến  thức  của  tôi, mà  tôi  chỉ    thể  hiểu  được  lần  lần  khi  trực  giác  của  tôi  được  khai  mở    phát  triển  nhờ  bởi  phương  pháp  cưỡng  ép  đó.


           Bà không  viết  theo  một  chương  tŕnh  hay  kế  hoạch  định  sẵn, mà  những  ư  kiến  từ  đâu  tuôn  tràn  xuyên  qua  trí  óc    như  gịng  suối  chảy  không  ngừng, trường  lưu  bất  tận. Có  khi     đang  viết  về  đấng  Phạm  Thiên ( Brahma ), một  lát  sau  đó    đă  xoay  qua  vấn  đề  hiện  tượng  điện  khí  của  Babinet. Trong  một  lúc, bà  trịnh  trọng  chú  thích  lời  của  Đạo    Porphyry, kế  đó    liền  trích  dẫn  một  đoạn  văn  rút  trong  một  tờ  báo  hằng  ngày, hay  trong  một  tập  văn  thư  mới  in    tôi  vừa  đem  về  nhà. Có  khi    đang  ca  tụng  những  đặc  tính  toàn  thiện  của  Chân  Sư, nhưng  một  lúc  sau    đă  chuyển  vận  toàn  lực để  công  kích  nặng  nề  Giáo    Tyndall  hay  vài  nhà  học  giả  nào  đó    bà ghét  nhất, bằng  những    búa  nẩy  lửa!


           Nếu    không    một  kế  hoạch  nhất  định, phải  chăng  điều  ấy  chứng  tỏ  rằng  công  việc  soạn  sách  này  không  phải  do    dự  định  từ  trước, mà    chỉ    một  đường  vận  hà để  cho  trào  lưu    tưởng  mới  mẻ  độc  đáo  này  tác  động  ảnh  hưởng  đến  t́nh  trạng ứ  đọng  của  sự  sinh  hoạt  tâm  linh  đương  thời? Như  một  phần  việc  huấn  luyện  cho  tôi, thỉnh  thoảng    yêu  cầu  tôi  viết  một  đoạn  về  một  đề  tài  đặc  biệt  nào  đó, và  gợi  ư  cho  tôi  về  những  điểm  quan  trọng  cần  khai  triển, hoặc    để  cho  tôi  tự  viết  lấy  với  sự  cố  gắng  tối  đa  để  sử  dụng  năng  khiếu  trực  giác  của  tôi. Khi  tôi  đă  viết  xong, nếu  đoạn  văn  ấy  không  được    vừa  ḷng, bà  thường  tỏ  dấu  bất  măn  bằng  cách  nói  nặng  lời, và  gọi  tôi  bằng  những  danh  từ  không  đẹp    tính  cách  khích  động  ḷng  tự  ái  đến  mức    thể  giết  người! Nhưng  khi  tôi  định    bỏ  đoạn  văn    phước  ấy, th́    liền  giật  ngay  lấy  từ  trên  tay  tôi  để  dùng    một  chương  khác  sau  khi  đă  sửa  chữa  lại  vài  chỗ, và  tôi  lại  bắt  tay  vào  việc.


          Kể  từ  ngày  tên  tuổi    xuất  hiện  lần  đầu  tiên  trên  mặt  báo  Daily  Graphic, năm  1874    suốt  thời  gian  lưu  trú  tại  Mỹ  Quốc, bà  luôn  luôn    khách  đến  viếng. Nếu  trong  số  quan  khách, ngẫu  nhiên    người  nào  hiểu  biết  tinh  tường  về  một  vấn  đề  nào  đó  liên  quan  đến  ngành  hoạt  động  của  bà, bà  liền  tiếp  xúc  riêng  với  người  ấy    nếu    thể  được, bà  nhờ  y  viết  lại  những  quan  điểm  hay    ức  của  y  trên  giấy  trắng  mực  đen  để  dùng  trong  quyển  sách  của  bà. Trong  số  những  trường  hợp  thuộc  về  loại  này, có  bài  tường  thuật  của  ông  O’Sullivan  về  một  cuộc  biểu  diễn  phương  thuật  trong  một  buổi  họp  đàn  tại  Paris; sự  diễn  tả    thú  những  cuộc  lễ  nhập  môn  huyền    của  giống  dân  Druses  xứ  Liban, cùng  những  bài  vở  hấp  dẫn  của  Bác    A. Wilder, và  nhiều  người  khác  nữa  đă  đóng  góp  vào, làm  cho  bộ  sách  này  càng  tăng  thêm  phần  giá  trị  với  những  tài  liệu    cùng  dồi  dào  phong  phú.


          Tôi  biết  một  vị  mục    Do  Thái  đă  từng  trải  qua  nhiều  giờ    nhiều  đêm  để  thảo  luận  về  Huyền  Môn  Kabala  với  bà, và  nghe  chính  y  thú  nhận  rằng  tuy  y  đă  từng  khảo  cứu  phần    truyền  của  tôn  giáo  y  trong  ba  mươi  năm, nhưng    đă  dạy  y  những  điều    y  chưa  từng  nghĩ  đến, và  đă  làm  sáng  tỏ  những  đoạn  kinh    chính  những  bậc  thầy  của  y  cũng  không  hiểu  nổi! Vậy  chứ  những  kiến  thức  thâm  sâu  huyền  diệu  đó,    đă  học  được    đâu, hồi  nào, và  do  đâu    có?


         Tất  nhiên  không  phải  do  các    quản  gia  đă  dạy    học  hồi  c̣n  thơ  ấu    nước  Nga; cũng  không  phải  do  một  vị  giáo    hay  thầy  học  nào  quen  thuộc  trong  gia  đ́nh; cũng  không  phải    đă  học  trên  những  chuyến  tàu  hay  xe  lửa  trong  khi    đi  châu  du  thiên  hạ  kể  từ  năm  mười  lăm  tuổi; cũng  không  phải    một  trường  trung  học  hay  đại  học  nào, v́    không  hề  thi  tốt  nghiệp    một  trường  học  nào  cả; cũng  không  phải    những  thư  viện  lớn  trên  thế  giới. Nhận  xét  qua  những  cuộc  đàm  thoại    những  thói  quen  của    trước  khi    bắt  tay  vào  công  việc  trước  tác  khổng  lồ  này, th́    không  hề  học  hỏi  qua  những  vấn  đề  ấy  bao  giờ    rằng  xuất  xứ  từ  đâu. Nhưng  khi    cần  đến  những  tài  liệu  đó, th́      sẵn, và  trong  những  lúc  cảm  hứng  dồi  dào  nhất, th́    làm  cho  những  nhà  thông  thái  phải  khâm  phục  về  kiến  thức  sâu  rộng, cũng  như    làm  cho  cử  tọa  quan  khách  phải  ngạc  nhiên  về  tài  hùng  biện  lưu  loát  cùng  sự  châm  biếm  hài  hước    trí  óc  thông  minh  tế  nhị  của  bà.


           Trong  khi  chúng  tôi  cùng  làm  việc  chung, tôi  sửa  chữa  mỗi  chương  bản  thảo  viết  tay  của    nhiều  lần, và  mỗi  chương   sắp  chữ  in; tôi  viết  nhiều  đoạn  giùm  cho  bà, thường    viết  lại  thành  câu  những  ư  nghĩ  của    cho  đúng  văn  phạm  Anh  Ngữ; tôi  giúp    t́m  những  lời  trích  dẫn  trong  các  sách, và  làm  những  việc  phụ  thuộc  khác. C̣n  th́  quyển  sách  vốn    công  tŕnh  của  bà, nói  về  việc  làm  trên  phương  diện  hữu  vi, thuộc  cơi  giới  vật  chất  hữu  h́nh, và    phải  nhận  lănh  tất  cả  về  sự  khen  chê  về  những  khuyết  điểm  hay  ưu   điểm  của  nó.


           Bộ  “Vén  Màn  Isis” đă  ghi  dấu  một  thế  hệ  lịch  sử, và  khi  viết  bộ  sách  ấy, bà  cũng  giúp  cho  tôi  học  hỏi  được  rất  nhiều  giáo    Huyền  Môn, và  chuẩn  bị  cho  tôi    đủ  khả  năng để  hoạt  động  truyền    giáo    Thông  Thiên  Học  trong  trên  hai  mươi  năm. Vậy    HPB  đă  lấy  tài  liệu    đâu  để  viết  bộ  sách  đó, mà  phần  nhiều  người  ta  không  thể  t́m  thấy  trong  những  sách  vở    các  thư  viện? Xin  nói  ngay  rằng  đó    do  sự  hỗ  trợ  của  phần    vi, một  phần  do  sự  giao  cảm  huyền  diệu  với  các  đấng  Chân  Sư, và  một  phần    do    tra  cứu  tài  liệu  trong  cơi    h́nh, được  phản  ảnh  trên  chất  Tinh  Quang

(Akasha) hay  Tiên  Thiên  Khí  Ảnh, tức    kho    Ức  của  Thiên  Nhiên  trong  Càn  Khôn    Trụ.


          Làm sao tôi biết  được  điều  này? Đó    nhờ  tôi  đă  cộng  tác  với    trong  hai  năm  để  viết  bộ “Vén  Màn  ISIS”, và  nhiều  năm  sau  nữa  để  soạn  những  bộ  sách  khác  như “Giáo    Truyền” (Doctrine Secrète),v…v…


          Theo  dơi  mọi  động  tác  của    trong  khi  làm  việc    một  kinh  nghiệm  hiếm      khó  quên. Chúng  tôi  thường  ngồi  đối  diện  nhau  bên  một  cái  bàn  lớn, và  tôi    thể  thấy    mọi  cử  chỉ  của  bà. Bà  viết  thao  thao  trên  một  trang  giấy, bỗng  nhiên     ngừng  lại, ngước  mặt  lên  nh́n  vào  không  gian  với  đôi  mắt  trống  không  của  nhà  linh  thị  sử  dụng  cặp  mắt  thần, đoạn, bà  thâu  ngắn  tầm  nhăn  quang  như  để  nh́n  vào  một  vật    h́nh  trong  khoảng  không    trước  mặt, và  bắt  đầu  chép  những      đă  thấy. Khi  đă  chép  xong  đoạn  văn  chú  thích, đôi  mắt    trở  lại  khí  sắc  b́nh  thường, và    tiếp  tục  viết  cho  đến  khi    ngừng  lại  một  lần  nữa  giống  y  như  trước.


          Tôi  c̣n  nhớ    hai  lần  tôi  được  nh́n  thấy    cầm  trên  tay  những  quyển  sách  lạ      làm  cho  hiện  h́nh  trước  mắt  tôi  để  tôi  kiểm  chứng  lại  bản  thảo, khi  tôi  từ  chối  không  chịu phê  nhận  để  đưa  lên  máy  in      chỗ  tôi  c̣n  nghi  ngờ    không  đúng. Tôi nói:


         “Tôi  không  thể  phê  nhận  câu  chú  thích  này, v́  tôi  chắc      đă  chép  sai”.


         Bà nói:


        “Không  sao, vậy    đúng; hăy  cứ  để  nguyên  như  thế”.


       Tôi từ  chối, sau  cùng    nói:


      “Vậy  ông  hăy  ngồi  yên  trong  một  phút, để  tôi  tra  lại”.


      Khi  đó  cái  nh́n  trống  không  lại  xuất  hiện  trên  cặp  mắt  bà; độ  một  lát, bà  chỉ  về  phía  cái  kệ  đặt  nơi  góc  pḥng, và  nói  bằng  một  giọng  trống  rỗng:


       “Ḱa, nh́n xem”.


        Kế đó bà trở  lại  khí  sắc  b́nh  thường:


      “Đấy, ở chỗ ấy đấy. Ông hăy tra lại  xem!”


       Tôi  bước  lại  chỗ  cái  kệ    thấy  hai  quyển  sách  lạ    tôi  biết  chắc    trước  đó  không  hề    trong  nhà. Tôi  phối  kiểm  câu  chú  thích  của    HPB  với  đoạn  văn  trong  sách, chỉ  cho    thấy  chỗ  chép  sai, sửa  lại  bản  thảo, và  theo  lời    yêu  cầu, đem  hai  quyển  sách  để  lại  chỗ  cũ. Tôi  trở  lại  bàn  ngồi  làm   việc, và  sau  đó  một  lúc, tôi  quay  lại  nh́n  ngay  chỗ  cái  kệ, th́  thấy  hai  quyển  sách  đă  biến  mất! Sau  khi  tôi  kể  lại  chuyện  này, những  kẻ  hoài  nghi  ngu  dốt    thể  nghi  ngờ  sự  sáng  suốt  lành  mạnh  của  tôi; tôi  hy  vọng    sẽ  hữu  ích  cho  họ. Sự  việc  này  lại  tái  diễn  một  lần  thừ  hai  trong  trường  hợp  tương  tự, nhưng  lần  này  quyển  sách  không  biến  mất    vẫn  c̣n    lại  với  chúng  tôi  cho  đến  ngày  nay.


II

         Bản  nháp  viết  tay  của    HPB    nhiều  khi  rất  khác  biệt  nhau  một  cách    rệt. Tuồng  chữ  của      một  tính  cách  lạ  lung  đặc  biệt, mà  người  nào  đă  từng  quen  đọc  tuồng  chữ  ấy  luôn  luôn    thể  nhận  ra  ngay    chữ  viết  của  bà. Tuy  nhiên, nếu  quan  sát  kỹ  lưỡng, người  ta  sẽ  phát  hiện  ra  ít  nhất  ba  hay  bốn  lối  viết  khác  nhau  tuy  rằng  của  một  tuồng  chữ    mỗi  lối  viết  như  thế  kéo  dài  trên  nhiều  trang  giấy, trước  khi  đổi  qua  lối  viết  khác.


        Một  lối  viết  đó  của    HPB  nét  chữ  rất  nhỏ  nhưng  đều  đặn; một  lối  khác  nét  đậm    tự  do  phóng  túng; một  lối  khác nữa  nét  vừa  phải    dễ  đọc; và  một  lối  nữa  chữ  viết  rất  tháu    khó  đọc. Về  cách  hành  văn  cũng  vậy, những  lối  chữ  khác  biệt  như  trên  cũng  kèm  theo  với  sự  sai  biệt  về  văn  phạm  Anh  Ngữ. Có  khi  tôi  phải  sửa  chữa  nhiều  chỗ  trong  một  gịng  chữ, nhưng  lại    khi  tôi    thể  thông  qua  suốt  nhiều  trang    không  cần  sửa  chữa  một  chữ  nào. Hoàn  toàn  nhất    những  trang  bản  thảo  được  viết  thay  cho    trong  khi    ngủ. Một  thí  dụ  điển  h́nh    đoạn  đầu  của  Chương  nói  về  nền  văn  minh  cổ  Ai  Cập ( Q.I, Ch. 14 ). Đêm  đó, như  thường  lệ  chúng  tôi  làm  việc  đến  hai  giờ  sáng, cả  hai  đều  mệt  nhoài, bèn  ngưng  công  việc  để  vừa  hút  thuốc  vừa  mạn  đàm  trước  khi  chia  tay. Bà  th́  hầu  như  ngủ  gật  ngay  trên  ghế  bành, c̣n  tôi  chúc    yên  giấc    lui  về  pḥng  tôi  trên  lầu. Sáng  hôm  sau, khi  tôi  đă  ăn  điểm  tâm  xong    bước  xuống  pḥng  khách, bà  đưa  cho  tôi  xem  một  chồng  bản  thảo  độ  ba  mươi  đến  bốn  mươi  trang  giấy  viết  tay  bằng  tuồng  chữ  của  bà, mà    nói  rằng  của  vị  Chân    X….  viết  cho    đêm  qua. Tập  bản  thảo  đó  hoàn  toàn  về  tất  cả  mọi  phương  diện, và  được  đưa  lên  khuôn    không  cần  phải  duyệt  xét  lại.


           điều  lạ, là  mỗi  lần    sự  khác  biệt  những  tuồng  chữ  viết  như  thế  đều  xảy  ra  sau  khi    HPB  rời  khơi  pḥng  độ  một  lúc, hay  bước  vào  trạng  thái  xuất  thần  khi  đó  đôi  mắt  trống  rỗng  của    nh́n  vào  cơi  xa  xăm  nào    lại  trở  về trạng  thái  b́nh  thường  ngay  sau  đó. Ngoài  ra, c̣n    một  sự  thay  đổi    rệt  về    tính, tác  phong, giọng  nói, cử  chỉ    trên  hết  mọi  sự, về  tính  khí  thất  thường: khi    rời  khỏi  pḥng, bà    một  nhân  vật  như  thế  nào  đó; một  lát  sau  khi  trở  lại  chỗ  ngồi, bà  lại    một  nhân  vật  khác. Khác  đây  không  phải  nói      thay  đổi  cái  thể  xác  hữu  h́nh, mà  khác  về  cử  chỉ, tác  phong, ngôn  ngữ, cách  điệu; cũng  khác  về  sự  linh  mẫn  của  trí  óc, về  quan  điểm  đối  với  sự  đời, khác  về  cách  sử  dụng  Anh  ngữ, và    điều  này  rất  đặc  biệt, là  khác  hẳn  về  khí  chất: khi  sáng  sủa  lành  mạnh      vẻ  từ  bi, khả  ái  như  thiên  thần; và  trong  những  cơn  khủng  hoảng  thịnh  nộ, th́  lại…trái  ngược  hẳn.


             khi  tôi  viết  lại  thành  câu  không  đúng  như  ư    muốn  tŕnh  bày, bà  kiên  nhẫn  bỏ  qua  một  cách  ưu  ái, vô  tư; những  lúc  khác, v́  một  lỗi  lầm  nhỏ  nhặt  không  đáng  kể, bà  dường  như  nổi  cơn  thịnh  nộ    muốn  thủ  tiêu  tôi  ngay  tại  chỗ! Những  cơn  bạo  khí  đó  đôi  khi    thể  giải  thích  bởi  t́nh  trạng  sức  khỏe  của  bà, và  đó  chỉ    sự  thường  t́nh, nhưng    do  đó  cũng  không  đủ  vững  để  giải  thích  vài  cơn  giận  dữ  khác. B́nh  phẩm  về  tính  cách  bất  thường  này  của    HPB, ông  Sinnet(Phó  Hội  Trưởng  Hội  Thông  Thiên  Học ) viết:


          “BÀ  HẲN    KHÔNG    NHỮNG  ĐỨC  TÍNH    NGƯỜI  TA  TRÔNG  ĐỢI  NƠI  MỘT  VỊ  ĐẠO  SƯ. LÀM  SAO      LẠI  VỪA    TINH  THẦN  CỦA  MỘT  TRIẾT  GIA, TỪ  BỎ  CUỘC  ĐỜI  THẾ  GIAN  ĐỂ  DỐC  L̉NG  TẦM  ĐẠO, NHƯNG  ĐỒNG  THỜI  LẠI    THỂ     RƠI  VÀO  NHỮNG  CƠN  NÓNG  GIẬN    NHỮNG  SỰ  BỰC  M̀NH  NHỎ  NHẶT  KHÔNG  ĐÂU, ĐÓ    MỘT  ĐIỀU    HIỂM  RẤT  KHÓ  HIỂU  ĐỐI  VỚI  CHÚNG  TA,V…V….”


            Tuy  nhiên, hăy  giả  thiết  rằng  khi    xác  thân  của    được  một  bậc  hiền  giả  thánh  đức  sử  dụng, th́    bắt  buộc  phải  hành  động  với  sự  b́nh  tĩnh, điềm  nhiên  của  nhà  hiền  giả, c̣n  nếu  không, th́  không, chừng  đó  điều    hiểm  kia  đă  được  giải  đáp. Chính    đă  diễn  tả  kinh  nghiệm  huyền  linh  này  khi  viết  bộ “Vén  Màn  Isis”, trong  một  bức  thư  gởi  về  cho  gia  đ́nh  như  sau:


          “KHI  TÔI  VIẾT  BỘ  ISIS, TÔI  VIẾT  RẤT  DỄ  DÀNG  ĐẾN  NỖI  ĐÓ  KHÔNG  PHẢI    MỘT  SỰ  KHÓ  NHỌC  NỮA, MÀ    MỘT  ĐIỀU  VUI  THÍCH  THẬT  SỰ. CÓ G̀ ĐÂU    NGƯỜI  TA  KHEN  TẶNG  TÔI?  KHI  ĐƯỢC  LỆNH  DẠY  TÔI  VIẾT,TÔI  NGỒI  XUỐNG    VÂNG  THEO  LỜI, VÀ  KHI  ĐÓ  TÔI    THỂ  VIẾT  DỄ  DÀNG  VỀ  BẤT  CỨ  VẤN  ĐỀ  G̀: SIÊU  H̀NH  HỌC,  TÂM    HỌC, TRIẾT  HỌC, TÔN  GIÁO, VẠN  VẬT  HỌC, TỰ  NHIÊN  HỌC, VÀ  V…V….TÔI  KHÔNG  HỀ  TỰ  ĐẶT  NGHI  VẤN: “ TÔI    THỂ  VIẾT  VỀ  VẤN  ĐỀ  NÀY  CHĂNG?”, HAY  LÀ:  “TÔI    ĐỦ  SỨC  VIẾT  CHĂNG?”, MÀ TÔI  CHỈ  NGỒI  XUỐNG    VIẾT, VẬY  THÔI. BỞI      MỘT  ĐẤNG  TOÀN  THÔNG, BIẾT  HẾT  CẢ  MỌI  SỰ, ĐỌC  CHO  TÔI  VIẾT. ĐÓ      PHỤ  TÔI, VÀ  ĐÔI  KHI  CŨNG    NHỮNG  VỊ  CHÂN    KHÁC  NỮA    TÔI  ĐƯỢC  BIẾT  TRONG  NHỮNG  CHUYẾN  ĐI  NGAO  DU  THIÊN  HẠ  TỪ  NHIỀU  NĂM  VỀ  TRƯỚC…..MỖI  KHI  TÔI  VIẾT  VỀ  MỘT  ĐỀ  TÀI    TÔI  CHỈ  BIẾT  ÍT, HOẶC  KHÔNG  BIẾT    CẢ, TÔI  BÈN  KÊU  GỌI  ĐẾN  CÁC  NGÀI, VÀ  MỘT  VỊ  CHÂN    GIÚP  NGUỒN  CẢM  HỨNG  CHO  TÔI, NGHĨA    NGÀI  ĐỂ  CHO  TÔI  CHÉP  NHỮNG    TÔI  NH̀N  THẤY  TRONG  CÁC  BỘ  SÁCH  CỔ  TỰ  HAY  CHỮ  IN  HIỆN  RA  TRƯỚC  MẮT  TÔI  TRONG  KHÔNG  GIAN, TRONG  KHI  ĐÓ  TÔI  HOÀN  TOÀN  THỨC  TỈNH, VÀ  KHÔNG  HỀ    MUỘI  DẦU  CHỈ  TRONG  CHỐC  LÁT”.


            lần  bà viết  thư  cho  chị  ruột      Nga      Veracũng  về  vấn  đề  ấy  như  sau:


         “CHỊ    THỂ  KHÔNG  TIN  TÔI, NHƯNG  TÔI  CHO  CHỊ  BIẾT  RẰNG  KHI  TÔI  NÓI  ĐIỀU  NÀY, TÔI  CHỈ  NÓI  SỰ  THẬT. TÔI  CHỈ  BẬN  RỘN, KHÔNG  PHẢI  VỚI  BỘ  “VÉN  MÀN  ISIS”, MÀ  CHÍNH    VỚI  NỮ  THẦN  ISIS  VẬY. TÔI  SỐNG  TRONG  MỘT  CẢNH  GIỚI    LY  TRƯỜNG  CỬU, MỘT  CUỘC  SỐNG  TRONG  CẢNH  GIỚI  LINH  ẢNH  THƯỜNG  XUYÊN  LUÔN  LUÔN  THỨC  TỈNH  VỚI  ĐÔI  MẮT  MỞ  LỚN    TUYỆT  NHIÊN  KHÔNG      LÀM  PHỈNH  LỪA  NHỮNG  GIÁC  QUAN  CỦA  TÔI! TÔI  NGỒI    THEO  DƠI  THƯỜNG  XUYÊN  VỊ  NỮ  THẦN  AI  CẬP.    TRONG  KHI  NỮ  THẦN  PHƠI  BÀY  TRƯỚC  MẮT  TÔI  CÁI  Ư  NGHĨA  ẨN  DẤU  CỦA  NHỮNG  ĐIỀU   NHIỆM  ĐĂ  BỊ  MẤT  ĐI  TỪ  LÂU  ĐỜI, VÀ  BỨC  MÀN  CHE  DẤU  CÀNG  TRỞ  NÊN  MỎNG  DẦN    THƯA  DẦN  VỚI  GIỜ  PHÚT  TRÔI  QUA, RỒI  TỪ  TỪ  RƠI  XUỐNG  TRƯỚC  MẮT  TÔI, TÔI  NÍN  THỞ  TRONG  CƠN  KINH  NGẠC    KHÔNG  C̉N  TIN  NƠI  NHỮNG  GIÁC  QUAN  CỦA  TÔI!...


           ….TRONG  NHIỀU  NĂM  LIÊN  TIẾP, ĐỂ  CHO  TÔI  KHÔNG QUÊN  NHỮNG    TÔI  ĐĂ  HỌC(*),[9]  TÔI  ĐƯỢC  LÀM  CHO  THẤY  THƯỜNG  XUYÊN  NGAY  TRƯỚC  MẮT  TÔI  TẤT  CẢ  NHỮNG    TÔI  CẦN  THẤY.


          BẰNG  CÁCH  ĐÓ, BẤT  CỨ  NGÀY  ĐÊM, NHỮNG  H̀NH  ẢNH  CỦA  QUÁ  KHỨ LUÔN LUÔN  ĐƯỢC  TR̀NH  DIỄN  LINH  ĐỘNG  TRƯỚC  NHĂN  QUANG  TÂM  LINH  CỦA  TÔI. TỪ  TỪ  CHẬM  RĂI, VÀ NỐI  TIẾP  NHAU  TRONG  IM  LẶNG  GIỐNG  NHƯ  NHỮNG  H̀NH  ẢNH  CỦA  MỘT  CUỐN  PHIM  CHỚP  BÓNG  DIỆU  HUYỀN, NHỮNG  BIẾN  CỐ  LỊCH  SỬ  TỪ  THẾ  KỶ  NÀY  ĐẾN  THẾ  KỶ  KHÁC  XUẤT  HIỆN  NGAY  TRƯỚC  MẮT  TÔI….TÔI  ĐƯỢC  KHUYẾN  KHÍCH  NỐI  LIỀN  NHỮNG  THẾ  HỆ  ĐÓ  VỚI  VÀI  BIẾN  CỐ  QUAN  TRỌNG  KHÁC, VÀ  TÔI  BIẾT  RẰNG  KHÔNG  THỂ    SỰ  SAI  LẦM. CÁC  CHỦNG  TỘC    QUỐC  GIA, NHỮNG  XỨ  SỞ    THÀNH  PHỐ  CỦA  MỘT  THẾ  KỶ  QUÁ  KHỨ  NÀO  ĐÓ  XUẤT  HIỆN, RỒI  LU  MỜ  DẦN    BIỆT  TÍCH  TRONG  MỘT  THẾ  KỶ  KHÁC    THỜI  ĐIỂM

CHÍNH  XÁC  ĐƯỢC  CHÂN    CHO  TÔI  BIẾT…..


             VĂNG  MẬP  MỜ  CỦA  THỜI  CỔ  XƯA  BIẾN  THÀNH  NHỮNG  THỜI  KỲ  LỊCH  SỬ, NHỮNG  HUYỀN  THOẠI  ĐƯỢC  GIẢI   THÍCH  BẰNG  NHỮNG  BIẾN  CỐ    NHÂN  VẬT  THẬT  SỰ  ĐĂ   TỪNG  SỐNG  TRONG  CÁC  THỜI  KỲ  ĐÓ; MỖI  BIẾN  CỐ  QUAN  TRỌNG    THƯỜNG    KHÔNG  QUAN  TRỌNG, MỖI  CUỘC  CÁCH  MẠNG, MỘT  TRANG  MỚI  LẬT  QUA  TRONG  QUYỂN  SÁCH  CỦA  ĐỜI  NGƯỜI    CỦA  CÁC  QUỐC  GIA  TRÊN  THẾ  GIỚI  ĐỀU  LƯU  LẠI  DẤU  VẾT  NHƯ  CHỤP  ẢNH    DƯỜNG  NHƯ  ĐƯỢC  KHẮC  IN TRONG  TRÍ  TÔI  VỚI  NHỮNG  MÀU  SẮC    RỆT  KHÔNG  THỂ  PHAI  MỜ…


          …..TÔI  NÓI  MỘT  CÁCH  NGHIÊM  CHỈNH  CHO  CHỊ  BIẾT  RẰNG  TÔI  ĐƯỢC  TRỢ  GIÚP. VÀ  NGƯỜI  TRỢ  GIÚP  TÔI  ĐÓ      PHỤ  CỦA  TÔI”.


          Trong  một  bức  thư  gởi  về  nhà  cho      ruột, bà  cho  biết  rằng:


           “KHI    PHỤ  TÔI  VẮNG  MẶT    BẬN  RỘN  VỚI  NHỮNG  CÔNG  VIỆC  KHÁC, NGÀI  LÀM  THỨC  ĐỘNG  CHÂN  NGĂ  CỦA  TÔI  ĐỂ  VIẾT  THAY  CHO  NGÀI…. NHỮNG  LÚC  ĐÓ, KHÔNG  PHẢI    TÔI  VIẾT  NỮA    CHÂN  NGĂ  CỦA  TÔI  SUY      VIẾT  THAY  CHO  TÔI. CÔ  THỬ  NGHĨ  XEM, TÔI  ĐÂU    HỌC  LỰC  UYÊN  THÂM  BAO  GIỜ    VIẾT  ĐƯỢC  NHỮNG  VẤN  ĐỀ  ẤY. VẬY  TH̀  NHỮNG  KIẾN  THỨC  ĐÓ  CỦA  TÔI  DO  ĐÂU    RA?......”


            Trong  những  thư  khác  gởi  về  cho  gia  đ́nh, bà  cũng  nh́n  nhận  rằng    những  lúc    được  các  Chân    mượn  xác  để  viết  giúp  bà. Các  ngài  cũng  dùng  phương  pháp  đó  để  dạy  Đạo  cho  tôi  qua  cửa  miệng  của  bà, và  đưa  ra  những  giáo    thâm  sâu      không  hề  biết  được  mảy  may  trong  trạng  thái  b́nh  thường.


           Chúng  tôi  đă  cùng  nhau  làm  việc  trong  nhiều  tháng    đă  sản  xuất  được  trên  870  trang  bản  thảo,  th́  một  ngày  nọ    HPB  hỏi tôi  rằng, để  thi hành  ư  muốn  của  Chân  Sư, tôi    sẵn  ḷng  chăng  để  bắt  đầu  làm  lại  tất  cả!  Tôi  c̣n  nhớ    cơn  xúc  động  mạnh    việc  ấy  đă  gây  cho  tôi, khi  nghĩ  rằng  tất  cả  những  tuần  lễ  nhọc  nhằn  lao khổ  thức  đêm  làm  việc, với  bao  nhiêu  cơn  song  gió    ạt  trên  phương  diện  tinh  thần, rốt  cuộc  chỉ    con  số  không!  Tuy  nhiên, v́  ḷng  kính  yêu    biết  ơn  của  tôi  đối  với  các  đấng  Chân    vốn  tuyệt  đối      biên, v́  các  ngài  đă  cho  tôi  cái  đặc  ân  cùng  chia  xẻ  công  việc  của  các  ngài, nên  tôi  vui  ḷng  chấp  nhận    chúng  tôi  lại  bắt  đầu  làm  lại  hết  tất  cả. Quyết  định  ấy  rất  thuận  lợi  cho  tôi, v́    chứng  tỏ  ḷng  trung  kiên    nhất  trí  của  tôi  với    HPB, nên  tôi  được  thọ  lănh  một  phần  thưởng  tâm  linh  dồi  dào. Những  nguyên  tắc  Huyền  Môn  được  các  ngài  giải  thích  cho  tôi  biết, vô   số  những  thí  dụ  điển  h́nh  được  tŕnh  bày  cho  tôi  thấy  bằng  những  hiện  tượng  thần  thông, tôi  được  trợ  giúp  để  tự  ḿnh  thí  nghiệm  lấy  những  điều  đă  học hỏi, được  giao  tiếp  với  nhiều  vị  Chân  Sư, và nói  chung, tôi  được  chuẩn  bị  đầy  đủ  cho  một  công  việc  đại  sự  lớn  lao  trong tương  lai    hồi  ấy  tôi  không  thể  ngờ  trước  được, nhưng  về  sau  đă trở  thành  một  vấn  đề  lịch  sử.


           Người  ta  thường  nói  thật    một  điều  rất  lạ  lùng, và  rất  khó  hiểu, khi  thấy  rằng  trong  số  tất  cả  những  người  đă  trợ  giúp  vào  phong  trào  Thông  Thiên  Học, thường    với  những  hy  sinh  lớn  lao  nhất, tôi  lại    người  duy  nhất  được cái  ân  sủng có  những  mối  liên hệ    tiếp  xúc    nhân  với  các  đấng  Chân  Sư, đến  nỗi  sự  hiện  diện  của  các  ngài  vốn    một  vấn  đề    tôi  biết    một  cách  thật  sự  chảng  khác  nào  như  sự  hiện  hữu  của  những  người  trong  gia  đ́nh  hay  bạn    thân  quyến  của  tôi. Chính  tôi  cũng  không  giải  thích  được  điều  đó. Tôi  biết  những    tôi  biết, chứ  không  biết  rằng  tại  sao  nhiều  bạn  đồng  môn  của   tôi  không  được  như  vậy.


           Nhiều  người  đă  nói  cho  tôi  biết  rằng  họ  đặt  đức  tin  nơi  các  đấng  Chân    nhờ  bởi  sự  chứng  minh  chắc  chắn    không  thể  nghi  ngờ  qua  kinh  nghiệm  bản  thân  của  tôi, nó  cũng  bổ   túc  thêm  vào  những  lời  tuyên  bố  của    HPB. Có  lẽ  tôi  được  cái  đặc  ân  đó  bởi    tôi  phải  phóng  con  thuyền  Thông  Thiên  Học  cùng  với    HPB  cho  các  đấng  Chân    của  bà, và  lái  con  thuyền  đó  xuyên  qua  bao  nhiêu  những  cơn  giông  tố  băo  bùng,  khi    chỉ    một  sự  hiểu  biết  chắc  chắn  về  cái  căn  bản  lành  mạnh  của  phong  trào  này  mới    thể  làm  cho  tôi  bám  sát  lấy  nhiệm  sở    giữ  vững  vai  tṛ  của  tôi  cho  đến  cùng.


CHƯƠNG TÁM


MỘT VÀI GIẢ  THUYẾT


            Chúng  ta  hăy  thử  phân  tích  trạng  thái  tinh  thần  của    HPB  khi    viết  bộ  sách  “VÉN  MÀN  ISIS”,  để  t́m  cách  giải  thích  những  sự  khác  biệt    rệt  về    tính, tuồng  chữ, và  tâm  trạng  của    như  đă  tường  thuật    trên.


          Tôi  không  thể  chứng  minh  đến  mức  độ  nào, bà  HPB  đă  viết  bộ  sách  trên  qua    tính  phức  tạp  của  bà, nhưng  tôi  nghĩ  rằng    điều  hiển  nhiên    không  thể  chối  căi      đă  nghiền  ngẫm    tiêu  hóa  tất  cả  những  tài  liệu  trong  đó  cũng  như      của  chính    viết  ra, chứ  không  phải  chỉ    những  kiến  thức  mượn  tạm  từ  bên  ngoài.


           Thật  không    dễ  bằng  tránh    toàn  bộ  sự  việc  phân  tích  để  t́m  hiểu, và  kết    với  những  người  cho  rằng    HPB  được  nguồn  cảm  hứng  thiêng  liêng, không  hề    sự  lỡ  lầm, mâu  thuẫn, sai  sót  hay    hở  nào; nhưng  tôi  không  thể  làm  như  vậy, v́  tôi  biết    quá  rơ, và  chỉ  muốn  tŕnh  bày  sự  thật.


           Sau  khi  khảo  sát  về  trường  hợp  này, người  ta  không  khỏi  nhận  thấy  rằng  ít  nhất    những  giả  thuyết  sau  đây  được  nêu  ra:


          1._ Bộ  sách  VÉN  MÀN  ISIS  phải  chăng  được  một  vị  Chân    đọc  cho    viết  như  một  người  thư    biên  chép  lại  một  cách  tỉ  mỉ, cẩn  thận    công  phu?


         2._ Do  Chân  Ngă  của    viết  ra  trong  khi    thể    bị  hoàn  toàn  chế  ngự?


         3._ Bà  viết  trong  trạng  thái  một  người  đồng  tử  được  các  đấng  Chân    mượn  xác?


         4._ Dưới  ảnh  hưởng  một  phần  của  những  trạng  thái  kể  trên?
         5._ Như  một  đồng  tử  thông  thường, chịu  ảnh  hưởng  kiểm  chế  của  những  vong  linh  khuất  mặt?


         6._ Do  nhiều    tính  tiềm  ẩn    tác  động  luân  phiên  nhau  của    viết  ra?


         7._ Bà  chỉ    một  phụ  nữ  b́nh  thường  như  mọi  người, không  chịu  một  ảnh  hưởng  kiểm  chế  ám  ảnh  hay  một  nguồn  cảm  hứng  tâm  linh  nào  đến  từ  bên  ngoài, trong  trạng  thái  tỉnh  táo  thông  thường, và  không      khác  biệt  với  bất  cứ  một  nhà  văn  nào  làm  một  công  việc  soạn  sách  thuộc  loại  này.


I
GIẢ THUYẾT THỨ
  BẢY


           Chúng  ta  hăy  bắt  đầu  với  giả  thuyết  sau  cùng. Mọi  người  sẽ  thấy  ngay  rằng  xét  về  tŕnh  độ  học  thức    văn  hóa  của    HPB , th́    không  bao  giờ    thể    một  học  giả  uyên  bác, hay  một  “con  mọt  sách”. Những  tập  hồi    về  cuộc  đời  bà, do  gia  đ́nh    truyền  lại  cho  nhà  viết  tiểu  sử      ông  A.P.Sinnett, và  cho  tôi, cho  thấy  rằng  hồi  thuở  thiếu  thời, bà    một  người  học  tṛ  khó  dạy, không  hề  thích  đọc  những  loại  sách  vở  đứng  đắn, khô  khan, không  thích  giao  du  với  những  người  học  rộng, cũng  không  hề  bước  chân  đến  các  thư  viện: bà  vốn    mối  hoang  mang  kinh  khủng  cho  các    quản  gia, mối  thất  vọng  cho  họ  hàng  thân  quyến, thích  nổi  loạn  chống  lại  tất  cả  những  sự      chật  hẹp  của  phong  tục  hay  quy  ước    hội  thông  thường. Trong  thời  kỳ  thơ  ấu, bà  thích  làm  bạn  với  những  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH    những  vong  linh  khuất  mặt    cơi  âm, bà  trải  qua  nhiều  ngày    nhiều  tuần  như  vậy  để  giao  tiếp  với  họ. Bà  cũng  thường  hay  chơi  những  tṛ  ngỗ  nghịch, rắn  mắt  đối  với  người  lớn, và  nhờ    những  năng  khiếu  thần  thông  ngay  từ  thuở  nhỏ, nên    khi    cũng  nói  phăng  ra  những  điều    mật  riêng    của  họ  làm  cho  họ  phải  giật  ḿnh.


             không  hề  gia  nhập  một  hội  nghiên  cứu  khoa  học  hay  khảo  cứu  bất  cứ  một  ngành  học  thuật  nào, và  chưa  từng  viết  sách. Bà  chỉ  đi  t́m  các  vị  pháp  sư, phù  thủy    những  xứ xa xôi    bán  khai, không  phải  để  đọc  sách  vở ( không  hề  có ) của  họ, mà  để  học  hỏi  về  ngành  tâm    thực  dụng. Nói  tóm  lại, bà  không  phải    một  người  ưa  thích  văn  chương  trước  khi  viết bộ  VÉN  MÀN  ISIS.

Những  sự  khác  biệt    tương  phản    rệt  giữa  những  đoạn  văn    khi  vụng  về  lủng  củng      khi  hầu  như  tuyệt  tác  của  bà, chứng  minh  rằng  không  phải  chỉ    một  trí  lực  duy  nhất  tác  động  để  viết  bộ  sách  này. Những  tuồng  cữ  khác  nhau, sự  sai  biệt  về  cách  suy  luận, cách  hành  văn    những  sắc  thái  khác  biệt  nhau  của  mỗi  đoạn  văn  đều  xác  nhận  điều  đó.


II
 GIẢ THUYẾT THỨ SÁU


         Bây  giờ  chúng  ta  hăy  xét  đến  giả  thuyết  thứ  sáu, cho  rằng  quyển  sách  ấy  được  viết  ra  bởi  nhiều    tính  khác  nhau  của    HPB, hay  nhiều  tầng  lớp  tâm  thức    nhân  của  bà, có  thể  luân  phiên  nhau  xuất  hiện  từ  trạng  thái  tiềm  ẩn  để  bước  vào  trạng  thái  hoạt  động.


         Về  vấn  đề  này, những  sự  khảo  sát  t́m  ṭi  của  các  giới  liên  hệ  đương  thời  vẫn  chưa  tiến  bộ  đến  mức  giúp  cho  chúng  ta    thể  nói  một  cách  dứt  khoát. Trong  quyển “ NHỮNG  GIAI  THOẠI  TRONG  CUỘC  ĐỜI    BLAVATSKY”, ông  Sinnett    trích  dẫn  một  đoạn  văn  của    diễn  tả  một “đời  sống  song  đôi”  mà bà  đă  trải  qua  trong  một  cơn  bệnh  sốt  khi    c̣n    một thiếu nữ    Mingrelia:

 

         “MỖI  KHI    NGƯỜI  GỌI  TÊN  TÔI, TÔI  MỞ  MẮT  RA    TRỞ  LẠI  BẢN  THỂ  HAY    TÍNH  CỦA  CHÍNH  TÔI, TRONG  TỪNG  CHI  TIẾT. TUY  NHIÊN, SAU  ĐÓ  KHI  TÔI  ĐƯỢC  ĐỂ  YÊN  MỘT  M̀NH, TÔI  LẠI  RƠI  VÀO  TRẠNG  THÁI  MỘNG    THƯỜNG  NHẬT  CỦA  TÔI, VÀ  TÔI  TRỞ  THÀNH  MỘT  NGƯỜI  KHÁC ( BÀ  HPB  KHÔNG  NÓI  NGƯỜI  ẤY    AI )…..


          NHỮNG  KHI  TÔI  ĐANG  NÓI  CHUYỆN  TRONG  CUỘC  SỐNG  MỘNG    NÓI  TRÊN, NẾU  TÔI  BỊ  GIÁN  ĐOẠN  NỬA  CHỪNG      NGƯỜI  GỌI  TÊN  TÔI, VÀO  LÚC    TÔI  HAY  NHỮNG  NGƯỜI  KHUẤT  MẶT  TRONG  LÚC  ĐÓ  MỚI  NÓI  ĐƯỢC  NỬA  CÂU    TÔI  MỞ  MẮT  RA  ĐỂ  ĐÁP  LỜI  KÊU  GỌI, TH̀  TÔI  THƯỜNG  TRẢ  LỜI  MỘT  CÁCH  RẤT  SÁNG  SUỐT    HIỂU  BIẾT  TẤT  CẢ  MỌI  SỰ, V̀  TÔI  KHÔNG  HỀ    MUỘI. NHƯNG  KHI  TÔI  VỪA  NHẮM  MẮT  LẠI, TH̀  CÂU  NÓI  BỊ  GIÁN  ĐOẠN  NỬA  CHỪNG  KHI  NĂY, ĐƯỢC  TIẾP  TỤC  BỞI  “CÁI  NGĂ  THỨ  NH̀”  CỦA  TÔI, ĐÚNG  VÀO  CHỮ  HAY  CHÍ  ĐẾN  NỬA  CHỮ    CÂU  NÓI  BỊ  NGẮT  NGANG.


          KHI  TÔI  THỨC  TỈNH    TRỞ  VỀ  BẢN  THỂ, TÔI  NHỚ    RẰNG  TÔI    AI  TRONG  CÁI  BẢN  NGĂ  THỨ  NH̀, CÙNG  TẤT  CẢ  NHỮNG  SỰ  VIỆC  XẢY  RA    TÔI  ĐANG  LÀM    LÚC  ẤY. KHI  TÔI    MỘT  NGƯỜI  KHÁC  TRONG  TRẠNG  THÁI  MỘNG  MƠ, TH̀  TÔI    CÁI NHÂN  VẬT    TÔI  TRỞ  THÀNH, VÀ  TÔI  KHÔNG  HỀ  BIẾT  H .B. BLAVATSKY    AI! KHI  ẤY  TÔI    MỘT  XỨ  HOÀN  TOÀN  XA  LẠ, CÓ  MỘT    TÍNH  HOÀN  TOÀN  KHÁC  HẲN, VÀ  KHÔNG    LIÊN  HỆ    ĐẾN  ĐỜI  SỐNG  CỦA  TÔI  TRONG  HIỆN  TẠI”.


        Xét  về  những  sự  việc  kể  trên, người  ta    thể  nói  rằng  nhân  vật  HPB  duy  nhất, chính    cái  thực  thể  tâm  linh  ngự  trong  cái  xác  phàm  của  bà, c̣n  cái  “người  khác”  kia  vốn  không  phải    HPB, mà  chỉ    một  thực  thể  khác    một  mối  liên  quan    hiểm  không  giải  thích  được, với    và xác  phàm  của  bà. Thật  vậy, người  ta  được  biết    những  trường  hợp    cái  NGĂ  THỨ  NH̀  biểu  lộ  những  sở  thích    tài  năng  hoàn  toàn  xa  lạ  đối  với  cái  NGĂ  b́nh  thường  của  đương  sự. Giáo    Barrett    thuật  chuyện  người  con  trai  của  một  vị  linh  mục    khu  vực  bắc  Luân  Đôn, sau  một  cơn  bệnh  nặng, bèn  trở  nên  hai  nhân  vật  khác  nhau. Cái  “ngă  thứ  nh́”  không  biết  đến  cha  mẹ  của  y, không  nhớ  những  việc  quá  khứ, tự  gọi  ḿnh  bằng  một  cái  tên  khác, và  điều  đáng  kể  hơn  nữa, là  y  phát  triển  tài  năng  về  âm  nhạc, mà  trước  đó  y  không  hề    chút  nào.


            nhiều  trường  hợp    cái  “ngă  thứ  nh́” thay  chân  cái  ngă  b́nh  thường, tự  gọi  bằng  một  cái  tên  khác      một  trí  nhớ  đặc  biệt  về  những  kinh  nghiệm  riêng  của  nó. Trong  trường  hợp    Lurancy  Vennum    mọi  người  đều  biết, thể  xác  của    hoàn  toàn  bị  chế  ngự  bởi  linh  hồn  thoát  xác  của  một  thiếu  nữ  khác  tên  Mary Roff, cô  này  đă  chết  từ  mười  hai  năm  trước. Dưới  sự  thay  hồn  đổi  xác  này, cá  tính  của    Vennum  hoàn  toàn  khác  biệt  hẳn  khi  xưa. Cô  nhớ    tất  cả  những    đă  xảy  ra  trong  đời  của    Mary Roff  trước  khi    này  qua  đời, nhưng  c̣n  chính  những  cha  mẹ, người  thân  quyến    bạn    của    lại  trở  nên  những  người  hoàn  toàn  xa  lạ. Hiện tượng này  kéo  dài  gần  bốn  tháng. Việc  nhập  xác  này  đối  với    Mary Roff  lại  rất  tự  nhiên  đến  nỗi    không  thấy    khác  biệt  với  cái  thể xác  của  chính    khi    sinh  ra  đời  gần  ba  mươi  năm  về  trước.


         Ngoài  ra, người  ta  c̣n  thuật  chuyện  cái  “ngă  thứ  nh́” của  một    gái  tên  Mary Reynold, xuất  hiện  từ  năm    mười  tám  tuổi    kéo  dài  đến  bốn  mươi  ba  năm  cho  đến  khi    thọ  được  đến  sáu  mươi  mốt  tuổi, xen  với  những  giai  đoạn  trung  gian  khi    trở  về  trạng  thái  b́nh  thường. Trong  khoảng  hai  mươi  lăm  năm  cuối  cùng  của  cuộc  đời, cô  hoàn  toàn    trong  trạng  thái  bất  thường  của  cái  “ngă  thứ  nh́”, trong  khi  đó  cái  ngă  b́nh  thường, tức  con  người  thật  của  cô, đă  bị  xóa  bỏ. Có   điều  lạ  lung    tất  cả  những      biết  trong  cái  “ngă  thứ  nh́” đều  đă  sở  đắc  được  trong  trạng  thái  đó. Cô  bắt  đầu  cái  đời  sống  thứ  nh́  này  vào  năm    mười  tám  tuổi  (tuổi  của  thể  xác), không  hề  biết  tới  Mary  Reynold    ai    quên  hết  tất  cả  quá  khứ; trạng  thái  thứ  nh́  của    chính    trạng  thái  của  một  trẻ    sinh. Tất  cả  những    c̣n  sót  lại  của    văng, là    chỉ  biết  thốt  ra  một  vài  tiếng, mà    không  hiểu  ư  nghĩa    cả  cho  đến khi    được  dạy  cho  biết  ư  nghĩa  của  những  chữ  đó.


          Tôi    đọc  sách    biết  được  ít  nhiều  về  vấn  đề  đa  h́nh  đa  dạng  trong  con  người, nhưng  không  thấy    trường  hợp  nào    cái  ngă  hay  nhân  vật  thứ  nh́    thể  chú  thích  những  đoạn  văn  trong  các  sách, hay  nói  những  tiếng  ngoại  ngữ    chính  đương  sự  không  hề  biết  trong  trạng  thái  b́nh  thường. Tôi  biết  một  nhà  bác  học    Anh  Quốc, đă  quên  hẳn  tiếng  mẹ  đẻ    sống    nước  ngoài  từ  năm  mười  một  tuổi    không  nói, hay  nghe  ai  nói  thứ  tiếng  ấy. Đến  năm  hai  mươi  chin  tuổi, y  mới  bắt  đầu  học  lại  tiếng  mẹ  đẻ  bằng  cách  dạy  sinh  ngữ    tự   điển. Tuy  nhiên, trong  khi  y  cố  gắng  vật  lộn  với  những  nguyên  tắc    đẳng  của  ngôn  ngữ  ấy, th́  y  lại  nói  trôi  chảy  trong  giấc  ngủ. Nhưng  trong  trường  hợp  này, sự  thông  hiểu  ngôn  ngữ  của  y  chỉ  đắm  ch́m  trong  cơi  tiềm  thức, hay    ức  ẩn  tàng.

 
             trường  hợp  quen  thuộc  của  một  người  nữ  tỳ  ngâm  thơ  ngoại  ngữ  trong  trạng  thái  thụy  du (đi  trong  giấc  ngủ) và  cũng thốt  lên  những  câu  văn  Do  Thái      đă  nghe  một  người  chủ    ca  vang  lên  từ  nhiều  năm  trước.


           Nhưng  không  ai    thể  đưa  ra  bằng  chứng  nào  chỉ  rằng    HPB  đă  từng  khảo  cứu  về  những  vấn  đề    viết  trong  bộ  sách  VÉN  MÀN  ISIS. Nếu    không  cố  ư  “đạo  văn”  một  cách  ư  thức  và cũng  không  hề  học  hỏi  những  vấn  đề  ấy  bao  giờ  th́  làm  sao  những  kiến  thức  đó    thể  đến  với    trên  giả  thuyết  rằng  bộ  sách  ấy  được  viết  bởi  một  HPB  thứ  nh́  hay  HPB  thứ  ba?

 

  đây, tôi  chỉ  muốn  tạm  cứu  xét  vấn  đề  đa  h́nh  đa  dạng  của  con  người  trên  giả  thuyết  rằng    HPB    thể  viết  bộ  sách  VÉN  MÀN  ISIS  với  không    sự  trợ  giúp  nào  khác  hơn    những    tính  riêng  của  bà. Bởi  đó, chúng  ta  không  cần  phải  đi  sâu  hơn  vào  một  vấn  đề    muốn  hiểu  biết    người  ta  phải  tham  khảo  những  giáo    Huyền  Môn  của  Ấn  Độ.


           Đạo    cổ  truyền  của  Ấn  Độ dạy  rằng  Chân  Ngă  con  người    khả  năng  thấy    biết  tất  cả  khi  y  đă  trút  bỏ  cái  gánh  nặng  của  bức  màn  che  ám  cuối  cùng  thuộc  về  tâm  thức  vật  chất  hồng  trần. Và  cái  kiến  thức  đó  sẽ  đến  với  y  một  cách    tuần  tự  khi    những  lớp  màn  xác  thịt  trọng  trược  càng  ngày  càng  được  vén  lên.


          Trường  hợp  giáo  chủ  Hồi  Giáo  Mahomet  vốn    một  người  thất  học, lại    thể  viết  bộ  Thánh  Kinh  Koran  bằng  chữ    Rập  thuần  túy, là  một  phép lạ  lớn  nhất  chưa  từng  thấy. Đó    một   bằng  chứng  chỉ  rằng  Chân  Ngă  tâm  linh  của  ông  đă  biểu  lộ  xuyên  qua  những  chướng  ngại  của  thể  xác  vật  chất    trực  tiếp  thu  nhận  những  kiến  thức  siêu  việt  từ  cái  nguồn  gốc huyền diệu  thuộc  về  cơi  trên.


           Nếu    HPB    một  tu    khổ  hạnh  chủ  trị  được  cái  phàm  ngă    bộ  óc  suy  luận  của  bà, nếu      thể  viết  Anh  Ngữ  thuần  túy    không  hề  sở  đắc    từ  trước, nếu    soạn  bộ  VÉN  MÀN  ISIS  theo  một  kế  hoạch    ràng  nhất  định  thay    sắp  đặt  các  tài  liệu  một  cách  lộn  xộn  thiếu  trật  tự  như    đă  làm, th́  tôi  đă    thể  nghĩ  như  trên    coi  bộ  sách  quư  giá  ấy  như  một  công  tŕnh  sáng  tạo  bởi  cái  Chân  Ngă  siêu  việt  của  bà. Nhưng  trên  thực  tế, tôi  không  thể  làm  như  vậy, và tôi  phải  thông  qua  vấn  đề  ấy  để  xét  qua  những  giả  thuyết  khác.


III

GIẢ THUYẾT THỨ NĂM

   
          Giả  thuyết  kế  đó    phải  chăng    HPB  viết  bộ  VÉN  MÀN ISIS  với    cách  một  người  đồng  tử  thông  thường, nghĩa    dưới  sự  kiểm  chế  của  những  vong  linh  người  chết?  Tôi quả  quyết  rằng  không. Nếu  quả  như  vậy, th́  cái  vong  linh  chế  ngự  thể  xác  của    hẳn    tác  động  một  cách  khác  hẳn  với  mọi  thứ  quyền  năng  đă  được  ghi  nhận  trong  các  sách  vở, mà  tôi  đă  từng  chứng  kiến  trong  nhiều  năm  kinh  nghiệm    khảo  cứu  về  phong  trào  Thần  Linh  Học. Tôi  đă  được  biết  nhiều  đồng  tử  thuộc  đủ  mọi  loại:  đồng  tử  giáng  ngôn, giáng  bút, xuất  thần, chữa  bệnh, linh  thị, làm  các  hiện  tượng v…v….Tôi  đă  theo  dơi  cách  làm  việc  của  họ, tham  dự  các  cuộc  họp  đàn    quan  sát  những  triệu  chứng  nhập  đồng  của  họ.  Nhưng  trường  hợp  của    HPB  hoàn  toàn  khác  hẳn. Hầu  hết  tất  cả  những    họ  đă    làm,    đều    thể  làm  được  tùy  ư  muốn, bất  cứ  ngày  đêm, không  cần  phải  họp  đàn, chọn  thành  phần  tham  dự, hay  áp  đặt những  điều  kiện  thông  thường.


          Ngoài  ra, tôi  c̣n    bằng  chứng  rằng  ít  nhất  vài  Nhân  Vật  hợp  tác  với  chúng  tôi    những  Người  c̣n  sống  do  bởi  tôi  đă  nh́n  thấy  các  Ngài  trong  thể  xác  phàm    Ấn  Độ, sau  khi đă  nh́n  thấy  các  Ngài  trong  Thể  Vía    những  nơi  khác  bên  Âu    Mỹ, và  tôi  cũng  đă  nói  chuyện  với  các  Ngài. Các  Ngài  cho  tôi  biết  rằng  các  Ngài  không  phải    những  vong  linh, mà    những  người  sống  cùng  tôi, và  mỗi  vị  trong  các  Ngài  đều    những  đặc  tính    khả  năng  riêng, nói  tóm  lại, là      tính  riêng. Những  quyền  năng    các  Ngài  đă  sở  đắc  được, có  ngày  tôi  cũng  sẽ  có; sớm  hay  muộn    tùy    nơi  tôi. Tôi  không  nên  trông  đợi  một  đặc  ân  nào, mà  cũng  như  các  Ngài, tôi  phải  tiến từng  bước  bằng  sự  cố  gắng    nhân.


          Một  trong  những  vị  cao  cả  nhất    bậc  Thầy  của  hai  vị  Chân      quần  chúng  đă    dịp  nghe  nói  đến, đă  dạy  tôi  trong  một  bức  thư  đề  ngày  22  tháng  6  năm  1875, như  sau:


          “THỜI  GIỜ  ĐĂ  ĐẾN  ĐỂ  CHO  CON  BIẾT  TA    AI. TA  KHÔNG  PHẢI    MỘT  LINH  HỒN  ĐĂ  THOÁT  XÁC, HỠI  ĐỆ  TỬ, MÀ    MỘT  NGƯỜI  SỐNG, CÓ  NHỮNG  QUYỀN  NĂNG      NGÀY  CON  CŨNG  SẼ  ĐẠT  TỚI. TA  KHÔNG  THỂ  TIẾP  XÚC  VỚI  CON  BẰNG  CÁCH  NÀO  KHÁC  HƠN    BẰNG  TINH  THẦN, V̀  HIỆN  THỜI  CHÚNG  TA    CÁCH  XA  NHAU  ĐẾN  HẰNG  NGÀN  DẶM. HĂY  KIÊN  NHẪN    LẠC  QUAN, HỠI  NGƯỜI  PHỤNG  SỰ  TRUNG  KIÊN  CỦA  QUẦN  TIÊN  HỘI  THIÊNG  LIÊNG!  CON  HĂY  TIẾP  TỤC  CỐ  GẮNG  LÀM  VIỆC, V̀  ĐỨC  TỰ  TIN    YẾU  TỐ  MẠNH  MẼ  NHẤT  ĐƯA  ĐẾN  SỰ  THÀNH  CÔNG. HĂY  GIÚP  ĐỠ  NHỮNG  KẺ  THIẾU  THỐN  RỒI  CHÍNH  CON  SẼ  ĐƯỢC  GIÚP  ĐỠ, THEO  SỰ  TÁC  ĐỘNG  TRƯỜNG  KỲ    BẤT  BIẾN  CỦA  LUẬT NHÂN  QUẢ.”


          Như  độc  giả  nhận  thấy, Luật  Nhân  Quả  đă  được  dạy  cho  tôi  hầu  như  ngay  từ  lúc  bắt  đầu  sự  liên  hệ  giữa  tôi  với  bà HPB    với  các  đấng  Chân  Sư.


          Tuy  nhiên, mặc    các  sự  việc  kể  trên  chúng  tôi  đă  được  sự  hợp  tác  của  ít  nhất  một  người  khuất  mặt, vốn    linh  hốn  của  một  trong  những  triết  gia  lỗi  lạc  nhất  của  thời  cận  đại, đă  từng  làm  vẻ  vang  cho  xứ  sở  ông      một  bông  hoa  ưu    của  nhân  loại. Ông  ta    một  tín  hữu  của  triết  phái  Platon  ( Bá  Lạp  Đồ ) và  tôi  nghe  nói  rằng  ông  ta  say    học  hỏi  đến  nỗi  ông  không  thể  tách  rời  khỏi  quả  Địa  Cầu, mà  ngồi  trong  một  thư  viện  do  ông  tạo  ra  bằng    tưởng  trên  cơi  Trung  Giới, đắm  ch́m  trong  những  cơn  suy  gẫm  triết  lư, quên  hẳn  gịng  trôi  chảy  của  thời  gian, và  chỉ  nghĩ  đến  việc  xoay  chuyển  trí  óc  con  người  theo  chiều  hướng  đạo  đức  tâm  linh. Nguyện  vọng  ấy  không  thu  hút  ông  ta  tái  sinh  trở  lại  cơi  trần, mà  thúc  đẩy  ông  đi  t́m  những  người    chí  nguyện  giống  như  các  Chân      đệ  tử, muốn  làm  việc  để  truyền    Chân      bài  trừ    tín  dị  đoan. Tôi  được  ông  cho  biết  rằng  ông  ta    một  người  tinh  khiết      kỷ  đến  nỗi  ông  được  sự  kính  nể  của  tất  cả  các  vị  Chân  Sư.  không  được  can  thiệp  vào  nghiệp  quả  của  ông, nên  các  Ngài  chỉ    thể  để  cho  ông  tự  lực  công  phu  để  tự  giải  thoát  khỏi  những  ảo  ảnh  của  cơi  Trung  Giới, hầu  tiến  bước  lên  cơi  tinh  thần    tâm  linh  thuần  túy  theo  đà  tiến  hóa  tự  nhiên. Phấn  trí  tuệ  của  ông  được  vận  dụng  mănh  liệt  vào  việc  suy  luận  triết    đến  nỗi  phần  tâm  linh  đă  tạm  thời  bị    liệt.


           Trong  khi  đó, th́  ông  ta  xuất  hiện, sẵn  sàng  cộng  tác  với    HPB  để  viết  bộ  sách  lịch  sử  này, và  đă  đóng  góp  rất  nhiều  công  lao  vào  những  tiết  mục    liên  quan  đến  vấn  đề  triết  học. Ông  ta  không    hiện  h́nh  để  ngồi  vào  bàn  viết  với  chúng  tôi, cũng  không  mượn  xác    HPB  như  một  đồng  tử, mà  chỉ  nói  chuyện  với    trên  phương  diện  huyền  linh,  suốt  nhiều  giờ  liên  tiếp. Trong  những  cuộc  giao  tiếp  đó, ông  đọc  cho    viết, nhắc  nhở    về  những  loại  sách  nào  cần  phải  chú  thích, trả  lời  những  câu  hỏi  của  tôi  về  các  vấn  đề  chi  tiết, huấn  dụ  cho  tôi  về  những  vấn  đề  nguyên  tắc, và  đóng  vai  tṛ  của  một  người  thứ  ba  trong  nhóm  chúng  tôi.


             lần   ông  ta  cho  tôi  bức  chân  dung  của  ông, một  bức         họa  thô    vẽ  bằng  bút  ch́  màu  trên  một  tờ  giấy  mỏng, và  đôi  khi  ông  cũng    gởi  cho  tôi  một  thông  điệp  ngắn (bằng  cách  phóng  xuất  qua  không  gian) để  nhắn  nhủ  tôi  về  vài  việc  riêng  tư. Nói  chung  th́  mối  liên  hệ  giữa  ông  với  hai  chúng  tôi    một  sự  giao  tiếp  rất  dịu  dàng, thân  mật  với  một  người  anh  cả    một  người  thầy    cùng  uyên  bác. Ông  không  hề  nói  một  lời  nào  chỉ  rằng  ông  tự  coi  như  một  vong  linh  khuất  mặt, khác  hơn  một  người  sống    tôi  nghe  nói  rằng  ông  ta  vẫn  không  biết    ḿnh  đă  chết.


           Mặc  dầu  bác  bỏ  giả  thuyết  cho  rằng    HPB  viết  bộ  VÉN  MÀN  ISIS  với    cách  một  đồng  tử  “bị  kiểm  chế”, nhưng  chúng  ta  đă  thấy  rằng  vài  đoạn  trong  sách  ấy  thật  sự  đă  được  một  vong  linh  khuất  mặt  đọc  cho    viết: đó    một  nhân  vật  lạ  kỳ    độc  đáo, nhưng  vẫn    một  linh  hồn  đă  thoát  xác. Phương  pháp  làm  việc  với  ông  ta  như  đă  nói    trên  thật  đúng  như    đă  diễn  tả  trong  một  bức  thư  gởi  về  cho  gia  đ́nh, để  giải  thích  bằng  cách  nào    viết  bộ  sách  ấy    không  hề     sự  học  hỏi, đào  luyện  trí  óc  từ  trước.


            “Khi  tôi  ĐƯỢC LỊNH  phải  viết, tôi  ngồi  xuống    tuân  lịnh. Khi  đó, tôi    thể  viết  dễ  dàng  về  bất  cứ  vấn  đề  ǵ: Siêu  h́nh, Tâm  lư, Triết, Tôn  giáo Vạn  vật, v.. v…. Tại sao? Bởi      MỘT  VỊ  BIẾT  TẤT  CẢ  đọc  cho  tôi  viết. Đó      Phụ  tôi, và  thỉnh  thoảng  cũng    những  vị  khác  nữa    tôi  được  biết  trong  những  chuyến  du  hành  từ  nhiều  năm  về  trước”.


            Đó  chính    việc    đă  xảy  ra  giữa      vị  triết  nhân  già  của  môn  phái  Platon (Bá  Lạp  Đồ), nhưng  ông  ta không  phải  là “sư  phụ” bà, mà  cũng  không  phải    đă  gặp  ông  ta  trong  những  chuyến  du  hành  trước  đây    ông  ta  đă  chết  trước  khi    sinh  ra đời  (trong  kiếp  này). Như  vậy, vấn  đề  được  nêu  ra    phải  chăng  vị  tín  hữu  phái    Lạp  Đồ  nói  trên  quả  thật    một  linh  hồn  thoát  xác, hay    một  vị  Chân    đă  sống  trong  cái  thể  xác  đó    dường  như  đă  chết  vào  ngày  1  tháng  9  nắm  1687  nhưng  thật  ra  th́  không?


          Đó hẳn là một  vấn  đề  khó  giải  đáp. Xét    hoàn  toàn   không  thấy    những  triệu  chứng  thông  thường  của  vấn  đề  mượn  xác  đồng  tử    xét      HPB  chỉ  đóng  vai  tṛ  của  người  biên  chép  những    vị  triết  gia  đọc  cho    viết, chẳng  khác  nào  như  sự  quan  hệ  giữa  một  nữ    thư  với  vị  Chủ  Nhân, trừ  ra  việc  ông  Chủ  Nhân  ấy  tôi  không  nh́n  thấy      nh́n  thấy, th́  đó    vẻ  dường  như  chúng  tôi  tiếp  xúc  với  một  người  sống  hơn    với  một  linh  hồn  đă  thoát  xác. Ông  ta  không  hẳn    một  vị  Chân  Sư, nhưng  gần  như  thế  hơn    bất  cứ  môt  vai  tṛ  nào  khác. C̣n  nói  về  công  việc  viết  sách  VÉN  MÀN  ISIS, th́  phần  việc  của  ông  cũng  giống  như  những  phần  khác  khi    người  đọc, hay  người  viết  tùy  trường  hợp, là  một  vị  Chân  Sư (GIẢ  THUYẾT  SỐ  MỘT). Tôi  nói  người  đọc, hay  NGƯỜI  VIẾT,và  điều  này  cần  được  giải  thích  thêm.


           Trên  đây    nói  rằng  tuồng  chữ  của    HPB    nhiều  khi  khác  biệt  nhau, và  cũng  lại    nhiều  lối  viết  khác  nhau  của  một  tuồng  chữ  duy  nhất. Mỗi  lần  thay  đổi  tuồng  chữ  như  thế  đều  đi  kèm  với  một  sự  khác  biệt    rệt  về  cử  chỉ, tác  phong, sắc  diện    khả  năng  văn  chương  của    HPB. Khi    tự  lực  cố  gắng  làm  việc  với  khả  năng  của  chính  ḿnh, th́  điều  đó  rất  dễ  nhận  thấy      biểu  lộ  qua  cách  hành  văn  lúng  túng, vụng  về  của  một  người  mới  tập  sự  viết  lách, chưa  được  huấn  luyện  thuần  thục  về  công  tác  này. Những  khi  đó  th́  bản  thảo  của    đưa  qua  cho  tôi  duyệt  xét  lại, có  dẫy  đầy  những  lỗi  lầm  sai  sót, và  sau  khi    được  biến  thành  những  trang    đầy  những  chỗ  gạch  nát, thêm  bớt, những  gịng  xen  kẽ, xóa  bỏ, sửa  chữa  về  chính  tả    văn  phạm, tôi  phải  đọc  cho    viết  lại  từ  đầu ( GIẢ  THUYẾT  SỐ  BẢY ).


          Không  bao  lâu, tôi  được  biết  rằng  những  đấng  Cao  Cả  khác  cũng  sử  dụng  thể  xác  của    HPB  để  giáng  ngôn, giáng  bút. Mỗi  lần  mượn  xác    như  vậy, các  Ngài  không  hề  nói    rằng: “Tôi    vị  nọ….hay  vị  kia”, hay “Đây    Chân    A….hay  B….”. Điều  đó  không  cần  thiết  sau  khi  chúng  tôi  đă  làm  việc  chung  với  nhau  trong  một  thời  gian  khá  lâu  dài  để  tôi    thể  trở  thành  quen  thuộc  với  mỗi  cử  chỉ, động  tác, ngôn  ngữ, khí  chất    xúc  cảm  của  bà. Mỗi  lần  các  vị  luân  phiên  nhập  xác  của  bà, là    sự  thay  đổi    rệt  như  ban  ngày  về  tính  khí, cử  chỉ, thái  độ, v…v….của    như  vừa  kể  trên. Mỗi  lần    rời  khỏi  pḥng  đi  ra  ngoài  một  lát  rồi  trở  vào, tôi  chỉ  cần  quan  sát    qua  những  nét  mặt    tác  phong, cử  chỉ  của    một  chút  để    thể  tự  nhắc  thầm  rằng: “ Đây    Chân    X…,hay  Y…,hay  Z…”, và  sự  phỏng  đoán  của  tôi  đă  được  xác  nhận  bởi  những  sự  việc  xảy  ra  sau  đó.


          Một  trong  những  đấng  ấy, mà  tôi  đă    lần  gặp  gỡ  trong  xác  phàm, có  bộ  râu  cằm    râu  mép  dài  xoắn  lại  với  bộ  ria    hai  bên    theo  lối  Rajput. Ngài    thói  quen  vuốt  râu  mép  mỗi  khi  suy  tư: ngài  làm  như  vậy  một  cách  tự  nhiên    ư  thức. Có  những  khi    HPB  để  cho    tính  của    tan  biến  dần    trở  thành  một  Nhân  Vật  khác. Khi  đó, tôi  ngồi  trước  mặt      nhận  thấy    đưa  tay  lên  cằm  rồi  từ  từ  làm  những  động  tác  dường  như  kéo  bộ  râu  mép (không    thật) và  xoắn  tới  xoắn  lui  trong  những  ngón  tay  của  bà, với  đôi  mắt  đăm  chiêu    cái  nh́n  xa  vắng. Một  lát  sau  đó, đôi  mắt  ấy  mới  thâu  ngắn  tầm  nhăn  quang  để  lưu  ư  đến  sự  vật  chung  quanh: Nhân  Vật    râu  mép  ngước  mặt  lên, nhận  thấy  tôi  đang  chăm  chú  theo  dơi  động  tác  của  ngài, bèn  lật  đật  bỏ  tay  xuống, và  tiếp  tục  viết.


          Một  Nhân  Vật  khác  lại  rất  ghét  Anh  Ngữ  đến  nỗi  Ngài  chỉ  nói  chuyện  với  tôi  bằng  tiếng  Pháp. Ngài    năng  khiếu  về  nghệ  thuật    rất  thích  thú  say    những  phát  minh    khí.


          Một  Nhân  Vật  khác  nữa  thỉnh  thoảng  cũng  xuất  hiện (qua  thể  xác    HPB) vẽ  nguệch  ngoạc  những  h́nh  ảnh  bằng  bút  ch́, và  giáng  bút  thành  những  bài  thơ  hàm  xúc  mùi  Đạo  Vị  thanh  cao.


           Mỗi  Nhân  Vật  đó  đều    những  đặc  tính  riêng  biệt    rệt, và  người  ta    thể  nhận  ra  ngay    vị  nào  mượn  xác    HPB  vào  một  lúc  nhất  định, cũng  như  ta    thể  phân  biệt  những  bạn    quen  thuộc  của  ta  trong  đời  sống  hằng  ngày. Một  vị  hay  cười  nói  vui  vẻ, ưa  thích  nói  những  chuyện  vui    hay  châm  biếm  hài  hước. Một  vị  khác  nói  năng    dặt, nghiêm  chỉnh    rất  lịch  lăm  uyên  bác. Một  vị  khác    tác  phong  trầm  tĩnh, kiên  nhẫn    sẵn  sàng  giúp  đỡ  một  cách  đầy  hảo  ư. Một  vị  khác  nữa  luôn  luôn  thử  thách    đôi  khi  rất  khó  tính. Một  Nhân  Vật  khuất  mặt  luôn  luôn  sẵn  ḷng  đưa  ra  những  sự  giải  thích  triết      khoa  học  về  những  vấn  đề    tôi  phải  viết  bằng  cách  làm  những  hiện  tượng  lạ  lùng  để  chứng  minh, c̣n   đối  với  một  Nhân  Vật  khác  nữa  th́  thậm  chí  tôi  cũng  không  dám  nêu  những  vấn  đề  ấy  ra  hỏi  Ngài.


          Một đêm  nọ, tôi  bị  “chỉnh”  một  cách  đau  đớn. Trước  đó  mấy  hôm, tôi    đem  về  hai  cây  bút  ch́  loại  mềm    tốt  để  dùng, tôi  đưa  một  cây  cho    HPB    giữ  lại  một  cây. Bà  HPB    cái  tật  rất  xấu    hay  mượn  những  đồ  dụng  cụ  văn  pḥng, bút  mực, bút  ch́, tẩy (gôm), dao, kéo, v… v…mà  quên  trả  lại  cho “khổ  chủ” ! Một  khi    đă  dùng  xong, bà  bỏ  vào  hộc  tủ  của    rồi  chúng  cứ  nằm  yên  trong  đó, bất  chấp  những  lời  phản  đối  của “nạn  nhân”! Đêm  đó, Nhân  Vật    tâm  hồn  nghệ    “giáng  lâm”. Ngài  vừa  ngồi  vẽ  một  đầu  người  trên  một  tờ  giấy  vừa  nói  chuyện  với  tôi  về  một  đầu  đề  nào  đó, rồi  ngài  bảo  tôi  đưa  cho  ngài  mượn  một  cây  bút  ch́  khác. Khi  ấy  một    tưởng  liền  thoáng  qua  trong  trí  tôi:


          “Nếu  ḿnh  cho  mượn  cây  bút  ch́, nó  sẽ  nằm  gọn  trong  hộc  tủ  của  bà, rồi  ḿnh  sẽ  không  c̣n  cây  bút  ch́  nào  khác  để  dùng”.


           Tôi  không  nói  ra, mà  chỉ  nghĩ  trong  trí  thôi, nhưng  Nhân  Vật  giáng  lâm  nh́n  tôi  bằng  một  cái  nh́n  châm  biếm, đưa  tay  vói  lấy  cái  giỏ  đựng  bút  trên  bàn, để  cây  bút  ch́  của  ngài  trong  đó, dùng  ngón  tay  mân      một  lúc, rồi  th́….ơ  ḱa, lạ  thay, đột  nhiên  xuất  hiện  trong  giỏ  một  chục  cây  viết  ch́  cùng  một  hiệu    cùng  một  phẩm  chất  với  cây  kia! Ngài  không  nói  một  lời, cũng  không  thèm  nh́n  vào  mặt  tôi, nhưng  việc  ấy  làm  cho  máu  trong  người  tôi  nhảy  vọt  lên  hai  màng  tang    tôi  cảm  thấy  hổ  thẹn  như  tôi  chưa  từng  bị  như  thế  bao  giờ  trong  đời!


            sao  chăng  nữa, tôi  không  nghĩ  rằng  tôi  đáng  bị “chơi”  một  vố  nặng  như  thế, xét    cái  tật  hay  chiếm  đoạt  văn  pḥng  phẩm  bất  trị  của    HPB!


           Mỗi  khi    một  trong  những  Nhân  Vật  ấy  “giáng  lâm”, th́  tuồng  chữ  viết  của    HPB  lại  biểu  lộ  những  nét  đặc  thù  giống  y  như  tuồng  chữ  của  lần  trước  khi    đến  phiên  chính  Nhân  Vật  ấy  xuống  bút  để  góp  phần  vào  công  tŕnh  viết  nên  bộ  sách    đại  này. Những  lần  đó, ngài  viết  những  tiết  mục  đặc  biệt  thuộc  về  những  đề  tài  sở  trường  của  ngài, và  thay      HPB  đóng  vai  tṛ  một  nữ    thư  biên  chép, th́  khi  đó    đă  trở  nên  chính  Nhân  Vật  ấy (GIẢ  THUYẾT  SỐ  BA ). Hồi  đó, nếu    ai  cầm  đưa  cho  tôi  bất  cứ  một  trang  bản  thảo  viết  tay  nào của  bộ  VÉN  MÀN  ISIS, tôi    thể  nói  ngay  một  cách  quả  quyết  rằng  đó    do  vị  nào  viết  ra. Như  vậy  th́  linh  hồn    HPB  đi  đâu  trong  những  lúc  đó, khi    các  ngài  thay  phiên  nhau  mượn  xác  của  bà? Đó    một  vấn  đề    hiểm, mà  không  phải  ai  cũng  được  nói  cho  biết. Độ  gần  hai  năm  sau  khi  bộ  sách  được  phát  hành, bà  HPB    giải  thích  cho  những  người  thân  quyến  trong  gia  đ́nh    biết  được  điều    mật  ấy: những  khi  đó  linh  hồn    không  c̣n    trong  xác  phàm, mà  dường  như  chỉ  quanh  quẩn    gần  bên, hoàn  toàn  ư  thức  được  mọi  việc  xảy  ra, và  theo  dơi  mọi  động  tác  của  các  Nhân  Vật  khuất  mặt  đang  sử   dụng  thể  xác  của  bà.


         Theo  chỗ  tôi  hiểu, th́    cho  các  vị  mượn  xác  cũng    như  người  ta  cho  mượn  một  cái  máy  đánh  chữ, và  xuất  hồn  đi   làm  công  tác    cơi  trên  về  phần    vi, trong  khi  đó  một  nhóm  các  vị  Chân    luân  phiên  nhau  sử  dụng  thể  xác  của    để   làm  việc.  Khi  biết  rằng  tôi    thể  phân  biệt  các  ngài ( xuyên  qua  xác  phàm  của    HPB ) và  nhận  ra  tính  chất  riêng  của  mỗi  vị, đến  mức  tôi  đă  đặt  cho  mỗi  vị  một  biệt  danh  để  dễ  kêu  gọi  trong  những  cuộc  nói  chuyện  riêng  giữa  chúng  tôi, các  ngài  thường  trịnh  trọng  nghiêng  đầu  hoặc  thân  mật  vẫy  tay  từ  giă  tôi  mỗi  khi  sắp  rời  khỏi  pḥng    nhường  chỗ  cho  vị  kế  tiếp. Đôi  khi  các  ngài  cũng  nói  chuyện  với  tôi  về  mỗi  vị  Chân    cũng    như  bạn    nói  chuyện  với  nhau  về  những  người  vắng  mặt, bởi  đó  tôi  cũng  được  biết  ít  nhiều  về  đời    của  các  ngài.


         Tôi  cũng  xin  nói      chí  đến  những  đấng  Chân    cao  cả  nhất  cũng  không  bao  giờ  muốn  được  suy  tôn  như  những  bậc  toàn  trí, toàn  năng  hay  không  thể  lầm  lỗi. Các  ngài  không  hề  biểu  lộ  mảy  may  ư  muốn  được  tôi  tôn  sùng, thờ  kính  hay  coi  như  thiêng  liêng  những    các  ngài  viết  qua  thể  xác    HPB,  hoặc  đọc  cho    viết. Tôi  được  khuyến  khích  chỉ  nên  coi  các  ngài  như  mọi  người  thường, những  người  tuy  minh  triết hơn     tiến  hóa  hơn  tôi  bội  phần, nhưng  đó  chỉ    bởi    các  ngài  đă  đi  trước  tôi  trên  con  đường  tiến  hóa  tự  nhiên.
         Trước  đây, tôi    nói  về  những  đoạn  trong  bộ  sách “VÉN  MÀN  ISIS” do  chính    HPB  đích  thân  viết  ra, những  đoạn  ấy  đương  nhiên    không  xuất  sắc  bằng  những  trang  do  các  Chân    viết  thay  cho  bà. Điều  ấy  rất  dễ  hiểu, v́  trước  đó    HPB  không  hề    sự  hiểu  biết  về  loại  này, làm  sao      thể  viết  một  cách  chính  xác  về  những  vấn  đề  siêu  h́nh, huyền  bí, đ̣i  hỏi  một  học  lực  uyên  thâm    những  kiến  thức  Huyền  Môn  siêu  đẳng.


        Trong  trạng  thái  b́nh  thường, có  khi    đọc  một  quyển  sách  nào  đó, đánh  dấu  những  phần  làm  cho    chú  ư, viết  về  những  đề  tài  tham  khảo, viết  sai , sửa  chữa, thảo  luận  về  những  vấn  đề  đó  với  tôi, nhờ  tôi  viết  lại, trợ  giúp  phần  trực  giác  của  tôi, nhờ  các  bạn  Đạo  cung  cấp  tài  liệu, và  cứ  tiếp  tục  viết  với  sự  cố  gắng  tối  đa, khi    không    một  vị  Chân    nào  xuất   hiện  để  đáp  ứng  những  sự  kêu  gọi  trợ  giúp  tâm  linh  của  bà. Lẽ  tất  nhiên, các  Chân    không  phải  lúc  nào  cũng  đến  với  chúng  tôi.


            viết  rất  nhiều    đưa  ra  nhiều  tài  liệu  quư  giá, v́      một  khả  năng  văn  chương  thiên  phú; những  trang  sách    viết  không  bao  giờ  nhàm  chán  hay    vị, và    cũng  giỏi  tuyệt  luân  về  ba  thứ  sinh  ngữ  khi  nào    sự  trợ  giúp  quyền  năng  đầy  đủ  về  phần  thiêng  liêng. Bà  viết  thư  cho  một  thân  nhân  biết  rằng  khi    Phụ  mắc  bận  rộn  công  việc  khác, ngài  để  lại  cho    một  vật  để  thay  thế, và  khi  đó, chính  “Chân  Ngă  sáng  suốt” của    suy      viết  cho  bà (GIẢ  THUYẾT  SỐ  HAI). Tôi  không  thể    ư  kiến    về  vấn  đề  này, v́  tôi  chưa  từng  quan  sát    trong  trạng  thái  đó. Tôi chỉ biết      dưới  ba  khía  cạnh, tức  là:


         1._ Trong  trạng  thái  phàm  ngă  như  một  phụ  nữ  b́nh  thường,
         2._ Khi  thể  xác  của    được  các  Chân    sử  dụng; và
         3._ Như  một  người  biên  chép  những    các  Chân    đọc  cho    viết.


          nhiều  khi    không  hề  bị  mượn  xác,  kiểm  chế  hay  được  đọc  cho  viết  bởi  một  vị  Chân    nào, mà  chỉ      HPB   trong  trạng  thái  b́nh  thường, vẫn  cố  gắng  đến  mức  tối  đa  để  thực  hiện  công  tác  giao  phó  cho      thi  hành  sứ  mạng. Tuy  nhiên, mặc      sự  trợ  giúp  của  những  Trí  Lực  hỗn  hợp  tác  động  từ  bên  ngoài, bộ  sách  “VÉN  MÀN  ISIS” và  những  công  tŕnh  khác  của    HPB  đều    phảng  phất  những  nét  đặc  thù  độc  đáo  biểu  lộ    tính  đặc  biệt  của  bà.

 

CHƯƠNG CHÍN
 MỘT KHÍ  CỤ  ĐẶC  BIỆT
I


          Xét  qua  những    đă  tŕnh  bày  trước  đây, người  ta  phải hiểu  như  thế  nào  về  việc  soạn  bộ sách  VÉN  MÀN  ISIS, và  về  vai  tṛ  của    HPB? Đó hiển nhiên    một  công  tŕnh  tập  thể, do sự đóng góp của nhiều tác giả khác nhau, chứ không phải chỉ có một ḿnh bà HPB. Sự nhận xét riêng của tôi về vấn đề này cũng hoàn toàn phù hợp với sự giải thích trong những bức thư của bà gởi về cho gia đ́nh. Bà cho biết rằng tất cả những đoạn sách nói về những vấn đề mà trước đây bà chưa hề quen thuộc, đều được một vị Chân Sư đọc cho bà viết, hoặc do Chân Ngă của bà tác động xuyên qua bộ óc và bàn tay bà để viết ra. Vấn đề này thật vô cùng phức tạp, và người ta sẽ không bao giờ biết rơ sự thật về mức độ đóng góp nhiều ít thế  nào của mỗi thành phần tham dự.


           Cá tính của bà HPB là cái khuôn mà tất cả mọi chất liệu đóng góp đều được đổ vào; cái cá tính ấy do bởi những khí chất, đặc điểm và thói tật riêng của nó, tác dộng ảnh hưởng đến phần h́nh thức và sắc thái biểu lộ của những chất liệu này cả trên phương diện thể chất lẫn tinh thần.


           Những vị Chân Sư luân phiên nhau mượn xác bà HPB chỉ làm thay đổi tuồng chữ của bà, chứ không viết bằng tuồng chữ riêng của các ngài. Cũng y như thế, khi sử dụng bộ óc của bà HPB, các ngài bắt buộc phải để cho nó tô màu những tư tưởng của các ngài, và sắp đặt những lời lẽ ngôn từ của các ngài theo một cách thức cố định đặc biệt của nó. Cũng như ánh sáng ban ngày đi xuyên qua những cửa kiếng màu ở các Nhà Thờ trở nên nhuộm màu của những tấm kiếng ấy, th́ những tư tưởng do các Chân Sư chuyển đạt xuyên qua bộ óc lạ lùng của bà HPB cũng phải bị thay đổi uốn nắn theo cách hành văn và cách tŕnh bày tư tưởng quen thuộc riêng của bà.


         Sự đồng thanh khí tự nhiên về phương diện tinh thần trí năo giữa vị khuất mặt vô h́nh và người bị mượn xác càng chặt chẽ mật thiết, th́ sự kiểm chế càng dễ dàng hơn, văn chương lưu loát hơn, và bút pháp cũng điêu luyện hơn. Một thí dụ diển h́nh là tôi nhận thấy rằng những khi bà HPB lâm vào trạng thái nóng nảy đến cực điểm, th́ các Chân Sư ít khi mượn xác bà để làm việc trừ ra Sư Phụ của bà, v́ ư chí sắt thép của ngài c̣n mạnh mẽ hơn bà nhiều, c̣n những vị khác hiền ḥa hơn th́ luôn luôn tránh né chứ không lại gần.


          Lẽ tự nhiên, tôi hỏi rằng tại sao các Chân Sư không dùng biện pháp thường xuyên chế ngự cái khí chất táo tợn của bà, để làm cho bà luôn luôn trở thành một nhà hiền giả điềm đạm, trầm tĩnh như những khi bà được đặt dưới sự kiểm chế của vài đấng Cao Cả. Tôi được trả lời rằng một biện pháp như vậy chắc chắn sẽ làm cho bà chết bất ngờ v́ đứt gân máu trong óc. Thể xác của bà được sinh động bởi một tinh thần dũng mănh táo cấp, một tính khí bạo tợn không hề bị kềm chế từ khi c̣n nhỏ, và nếu cái khí lực thặng dư thái quá đó không được để cho có lối thoát ra ngoài, th́ điều ấy hẳn phải đưa đến một hậu quả khốc hại.


          Đó là cái khí chất độc đáo của bà HPB, và bà đă có nhiều lần nói với tôi rằng bà không muốn bị chế ngự bởi bất cứ một quyền lực nào trên thế gian hay ngoài Trái Đất! Bà chỉ tôn kính các đấng Chân Sư, tuy nhiên thậm chí đối với các ngài, đôi khi bà cũng tỏ ra cương  cường bất khuất đến nỗi, như đă nói ở trên, những vị có tính chất dịu dàng ôn ḥa hơn không thể, hay không chịu, đến gần bà. Bà cũng cho tôi biết rằng việc đặt ḿnh vào một trạng thái tinh thần thích nghi để có thể giao tiếp dễ dàng và thường xuyên với các Chân Sư, đă đ̣i hỏi ở nơi bà một sự cố gắng tự chủ ráo riết đến mức tuyệt vọng trong nhiều năm liên tiếp. Thật không có ai đă từng bước vào đường Đạo với những chướng ngại khó khăn hơn và một tinh thần khắc kỷ gian lao hơn nữa.


          Lẽ tất nhiên, một bộ óc dễ bị khích động như vậy không phải là một dụng cụ thích nghi để thi hành cái sứ mạng vô cùng tinh tế được giao phó cho bà, nhưng các Chân Sư cho tôi biết rằng đó là cái khí cụ tốt nhất hiện hữu, và các ngài phải tận dụng mọi khả năng của nó với sự cố gắng tối đa. Đối với các ngài, th́ bà là hiện thân của sự trung thành và ḷng sùng tín, sẵn sàng dám làm và dám chịu tất cả v́ đại nghĩa. Bẩm sinh với những quyền năng thần thông thiên phú vượt trội hẳn tất cả mọi người cùng thế hệ với bà, và với một tấm ḷng hứng khởi nhiệt thành bốc lửa hầu như đi đến chỗ cuồng tín, bà có đủ đức tính trung kiên, bền vững, nhất tâm bất loạn. Điều này, phối hợp với một sự dẻo dai bền bỉ về thể chất đến một mức độ phi thường, làm cho bà trở thành một khí cụ vô cùng đắc lực, tuy rằng không phải dễ dạy dễ bảo, và có một khí chất bất trắc dị thường.


        Có một lư do tối hậu khác v́ sao các Chân Sư không dám kềm chế bà HPB để bắt buộc tính nết bà phải trở nên thuần thục dịu dàngtheo lư tưởng của một vị Hiền giả điềm nhiên và trầm tĩnh. Đó là bởi v́ làm như vậy tức là can thiệp một cách bất hợp pháp vào Nghiệp Quả cá nhân của bà. Cũng như mọi người, bà có một số lượng nghiệp duyên ràng buộc do hậu quả của lịch tŕnh tiến hóa của linh hồn. Chính cái Nghiệp Quả đó làm cho bà tái sinh trở lại kiếp này với một xác thân người nữ luôn luôn khích động ồ ạt, và như vậy bà có cơ hội đạt tới sự tiến bộ tâm linh bằng cách phải chiến đấu trường kỳ để làm chủ lấy nó. Nếu các Chân Sư trực tiếp can thiệp vào t́nh trạng đó bằng cách kềm hăm cái khí chất hung bạo và xóa bỏ những sự thiếu sót khác trong tâm linh của bà, th́ việc ấy sẽ rất tai hại cho bà mà không làm cho bà được tiến hóa thêm chút nào: đó chẳng khác nào như đặt một người thụ cảm dưới sự chế ngự thường xuyên bằng ư chí của một nhà thôi miên, hay đặt một người bệnh dưới ảnh hưởng tê liệt trường kỳ của chất ma túy. Có những lúc mà thể xác của bà không được các Chân Sư mượn tạm để làm việc, hoặc trí óc bà không  bận rộn để viết những ǵ các Chân Sư đọc cho bà viết. Ít nhất là tôi nghĩ như vậy, nhưng đôi khi tôi cũng nghi ngờ rằng không một ai trong chúng tôi, là những người cộng sự với bà, đă từng biết rơ bà HPB trong trạng thái b́nh thường! Biết đâu chúng ta chỉ có tiếp xúc với một cái xác phàm được sinh động giả tạo, mà linh hồn đă thoát ly đi mất trong trận chiến Mentana khi bà bị tử thương trầm trọng do năm vết đâm hiểm nghèo bằng vũ khí sắc bén, sau đó bà được vớt xác ra khỏi một cái hố sâu và coi như đă chết?


          Giả thuyết ấy không phải là hoàn toàn vô lư, bởi v́ có một sự  kiện lịch sử tương tự đă từng xảy ra. Đó là trường hợp của cô Mary Reynold, mà linh hồn đă thoát xác trong khoảng thời gian bốn mươi hai năm, trong khi đó thể xác của cô bị chiếm đóng bởi một nhân vật khác không hề hay biết ǵ về những kinh nghiệm và kư ức của cô trong mười tám năm qua trước khi có sự thay hồn đổi xác này.


         C̣n nói về trường hợp bà HPB, tôi không cả quyết mà chỉ lư luận thôi, v́ tôi không dám nói một cách chắc nịch rằng một kỳ nữ như bà là ai. Bà thật là một nhân vật kỳ bí đầy những yếu tố mâu thuẫn trái ngược, tuyệt đối không thể sắp hạng hay phân loại như bất cứ một người nào trong chúng ta là những nhân vật thường t́nh, đến nỗi v́ bản tính thận trọng, tôi phải dè dặt không thể đưa ra một lư luận nào có tính cách đề quyết, khẳng định. Bất cứ điều ǵ bà đă nói với tôi hay với một người nào khác, đối với tôi thật không đáng kể bao nhiêu, bởi v́ đă từng sống chung và cùng đi công tác lưu động với bà những bao lâu nay, và vẫn có mặt trong bao nhiêu những cuộc hội kiến của bà với những người khác, tôi đă từng nghe bà kể những chuyện vô cùng mâu thuẫn về cuộc đời bà. Đó là bởi v́ một lư do nghiêm trọng. Một thái độ dễ dăi, cởi mở với người đối thoại có thể làm cho bà vô t́nh tiết lộ nơi cư trú và bản chất, cá tính của các đấng Chân Sư cho những kẻ thế nhân phàm tục, mà những ư đồ riêng tư, ích kỷ cùng những sự quấy rầy, phiền nhiễu của họ đă từng làm cho các nhà đạo sĩ Yogi phải lánh ḿnh t́m nơi ẩn trú trên non cao rừng thẳm.


         Để giải quyết sự khó khăn ấy, bà đă chọn lấy một lối thoát dễ dàng là tự phát ngôn mâu thuẫn với ḿnh để làm cho tâm trí người đối thoại bị hoang mang mờ mịt. Xin kể một thí dụ: Bà đă có thể nói dễ dàng cho ông Sinnett (Phó Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học) biết rằng khi bà t́m cách đột nhập vào xứ Tây Tạng hồi năm 1854 xuyên qua xứ Bhutan hay Népal, bà đă bị Đại Úy (hiện nay là Thiếu Tướng) Murray, chỉ huy biên khu thuộc địa phận ấy, bắt trở lại và đem về giữ trong nhà làm bạn với vợ ông ta trong một tháng. Nhưng bà không bao giờ kể lại chuyện ấy, và không một ai trong số những bè bạn thân hữu của bà đă từng nghe nói về việc này. Măi về sau, ông Edge và tôi mới được nghe câu chuyện ấy do chính Thiếu Tướng Murray kể lại vào ngày 3 tháng 3 vừa qua trên chuyến xe lửa từ Nalhati đi Calcutta, và tôi đă cho đăng trong tạp chí của Hội.


           C̣n nói về tuổi tác của bà, th́ bà kể đủ mọi thứ chuyện, nó làm cho bà lên đến hai mươi, bốn mươi, chí đến sáu mươi và bảy mươi tuổi cao hơn tuổi thật của bà. Chúng tôi c̣n giữ những thư từ văn kiện về chuyện này do những khách viếng thăm và những phóng viên các báo tường thuật lại sau những cuộc hội kiến riêng với bà, trong nhiều buổi diện kiến mà chính tôi có tham dự. Để tự bào chữa, bà nói với tôi rằng những Nhân Vật giáng lâm và ngự trong thể xác của bà trong những dịp đó đều có tuổi tác y như thế, và thế là bà nói không có sai, trong khi người đối thoại chỉ nh́n thấy có cái thể xác của bà và tưởng rằng câu chuyện bà nói chỉ áp dụng cho cái xác phàm đó mà thôi!


                                                                                          II

         Trên đây tôi có dùng chữ “ám ảnh” (obsession), nhưng tôi biết rơ sự thiếu sót ư nghĩa của nó trong trường hợp này. Cả hai danh từ “ám ảnh” (obsession) và “chiếm hữu” (possession) đều được dùng để nói lên sự quấy phá một người c̣n sống bởi ma quỷ hay những vong linh bất hảo. Một người bị ám ảnh (obsession)là người bị quấy phá, hay vây phủ, c̣n một người bị chiếm hữu (possession) là người bị tà ma quỷ mị nhập xác, kiểm chế, ngự trị. Tôi tự hỏi những vị cố đạo thời xưa không đặt ra một danh từ tốt đẹp hơn để chỉ việc chiếm hữu, kiểm chế, ngự trị, hay nhập xác một người bởi những thần linh hay vong linh tốt lành? Nhưng điều ấy không giúp cho chúng ta được bao nhiêu trừ khi chúng ta không biết đến những trường hợp mà đôi khi thể xác bà HPB bị những thực thể khác chiếm đóng. Câu chuyện sau đây sẽ cho thấy đến mức độ nào.


         Một buổi chiều mùa hạ, bà HPB và tôi cùng có mặt trong văn pḥng làm việc của chúng tôi tại New York. Trời chưa tối, nên chúng tôi chưa thắp đèn lên. Bà ngồi gần bên cửa sổ, c̣n tôi đứng. Bỗng nhiên tôi nghe bà nói:


         “Hăy nh́n xem để học”


        Tôi day đầu nh́n lại và thấy một đám mây mù bốc lên từ đầu và vai của bà. Trong chốc lát, nó tượng h́nh một vị Chân Sư, vị này về sau đă cho tôi cái khăn bịt đầu lịch sử của ngài, nhưng lúc ấy th́ chỉ là một h́nh bóng như sương mờ. Mải chăm chú nh́n hiện tượng ấy, tôi đứng yên không cử động. Cái bóng chỉ tượng h́nh có nửa phần trên thân ḿnh, rồi lu mờ dần và biến mất; nó có được thu hồi trở về bên trong thể xác bà HPB hay không, th́ tôi cũng không biết. Bà ngồi yên như pho tượng trong đôi ba phút, sau đó bà thở dài một cái, trở lại trạng thái b́nh thường, và hỏi tôi có thấy ǵ không. Khi tôi yêu cầu bà giải thích hiện tượng ấy, th́ bà từ chối và nói rằng tôi phải khai mở trực giác để t́m hiểu những hiện tượng của cái thế giới mà tôi đang sống. Bà chỉ có thể giúp đỡ bằng cách cho tôi xem thấy những hiện tượng nọ kia, rồi để cho tôi tự t́m hiểu lấy tùy khả năng của ḿnh.


         Nhiều nhân chứng đă có thấy một hiện tượng khác nữa, nó có thể hoặc không chứng minh rằng những thực thể khác đôi khi cũng đă nhập xác bà HPB. Trong năm lần khác nhau, một lần để làm vui ḷng một vị nữ khách, và một lần cho em gái tôi là Mitchell, bà HPB đă gom trên đầu một lọn tóc mịn màu nâu lợt và dợn song của bà, rồi lấy kéo cắt và đưa cho một người trong chúng tôi. Nhưng lọn tóc ấy khi cắt ra th́ nó lại thô cứng, thẳng tuột và đen như huyền chứ không c̣n dợn song hay quăn chút nào, tức là tóc của người phương Đông hay người châu Á chứ không giống chút nào như những lọn tóc mịn như tơ, màu nâu lợt và dợn song của bà. Tôi c̣n cất giữ hai lọn tóc cắt ra từ trên đầu bà, cả hai đều đen như huyền và thô cứng hơn tóc bà rất nhiều, nhưng có một lọn lại thô cứng hơn lọn kia một cách rơ rệt. Lọn trước là tóc của người Ai Cập, c̣n lọn sau là tóc của người Ấn Độ. Hiện tượng này c̣n có cách giải thích nào khác hơn là giả thiết rằng những người đàn ông có hai lọn tóc đó đă thật sự nhập xác bà HPB trong hai lần khác nhau khi mà những lọn tóc ấy được cắt ra?


          Vấn đề nhập xác một người c̣n sống, bởi những người cũng c̣n sống, tuy là một việc hoàn toàn xa lạ đối với người Tây Phương đến nỗi họ không có một danh từ nào trong ngôn ngữ của họ để chỉ việc đó, vốn đă được biết rơ và định nghĩa ở Ấn Độ. Người Ấn gọi hiện tượng đó là Àvesa, tức là việc chiếm hữu, nhập xác, ngự trị xác thân của một người sống. Hiện tượng đó có hai loại: khi người đạo sĩ xuất vía ra khỏi thể xác ḿnh và nhập vào xác một người khác, đó gọi là svarupàvesa; c̣n khi nào người đạo sĩ dùng ư chí của ḿnh để tác động ảnh hưởng hoặc chế ngự thể xác của người khác để làm những việc hoàn toàn vượt ra ngoài khả năng của người kia, thí dụ như nói một tiếng ngoại ngữ chưa từng học, hiểu được những ngành học thuật không hề quen biết, đột nhiên tàng h́nh trước mắt mọi người, biến thành một vật h́nh thù đáng sợ, chẳng hạn như một con rắn hay  một thú dữ, v…v…, th́ đó gọi là saktyàvesa.


       Cái quyền năng đó chỉ áp dụng cho sự tác động tâm linh giữa hai người c̣n sống, hay sự “nhiếp” tư tưởng và gây nguồn cảm hứng cho một người sống bởi một thực thể tâm linh có tŕnh độ cao hơn, chứ nó không nên bị hạ thấp ư nghĩa để chỉ việc nhập xác một đồng  tử bởi một vong hồn người chết để tạo nên các hiện tượng. Trường hợp sau này gọi là “gràhana”, và vong hồn người chết được gọi là “graham”. Danh từ này cũng được dùng để chỉ việc nhập xác một người sống bởi một TINH LINH NGŨ HÀNH. Hiện tượng này cũng có hai trường hợp khác nhau. Sự nhập xác ấy có thể:


        a) TÁC ĐỘNG TỰ NHIÊN, do sự thu hút, hấp dẫn một tinh linh đến với người đồng tử.


        b) TÁC ĐỘNG CƯỠNG CHẾ, do sự cưỡng ép bằng ư chí của một vị  thuật sĩ hay phù thủy biết rơ những chân ngôn thần chú để sai khiến  các loại âm binh.


         Chúng tôi thấy trong Thánh Kinh Pàncharàtra Pàdma-samhita Charyàpada của Ấn Độ, chương 24, có những huấn thị đầy đủ về sự thực hành thuật nhập xác (Avesa) như sau:


         “ Nay ta dạy cho người biết, hỡi hành giả, phương pháp nhập xác một người khác….Cái thể xác ấy phải được tinh khiết, tươi tốt, độ trung niên, có tất cả những tính chất tốt và không bị những chứng ác bệnh do tội lỗi gây ra (như bệnh cùi, bệnh phong t́nh,v…v…).Xác thân ấy phải là của người Bà La Môn hay người Kshatriya (thuộc giai cấp quư tộc).Nó phải được đặt ở một nơi vắng vẻ,(để tránh nguy cơ bị gián đoạn trong khi thực hành các nghi thức),mặt ngửa lên trời và hai chân duỗi thẳng. Ngồi một bên, ngươi phải giữ tư thế YOGASANA (một tư thế của pháp môn Yoga), nhưng trước khi đó, hỡi hành giả, ngươi phải đă có tập luyện cái quyền năng tập trung tư tưởng vào một mục tiêu nhất định. Thần thức (jiva) vốn ngự ở chỗ VĨ LƯ QUAN tức là Luân Xa nơi Rún (nàbhichakra), nó sáng rực như mặt  trời, có h́nh dáng như con hạc (hamsa)(*)[10] và di chuyển dọc theo những đường vận hà Idâ và Pingala. Sau khi nó đă được tượng h́nh con hạc(*) bằng cách tập trung tư tưởng theo pháp môn Yoga, nó sẽ thoát ra do hai lỗ mũi, và như một con chim, nó sẽ phóng ra ngoài không gian. Ngươi phải tập cho quen phép này, là phóng luồng Sinh  Khí (Prâna) cho bay lên tới ngọn cây, đưa nó đi xa một dặm, hay năm dặm, hay hơn nữa, rồi thu hồi nó trở về thể xác ngươi xuyên qua hai lỗ mũi, và trả nó lại vị trí cũ ở Luân Xa nơi Rún. Phép này phải được tập luyện hằng ngày cho đến khi đạt tới mức tuyệt hảo”.


        Kế đó, sau khi đă sở đắc được cái bí thuật đó rồi, người đạo sĩ có thể thực nghiệm phép nhập xác. Khi đă ngồi theo tư thế nói trên, y mới rút luồng sinh khí (Prâna-jiva) ra khỏi thể xác y, và đem nó vào cái thể xác đă chọn làm mục tiêu do nơi hai lỗ mũi, dẫn nó đi xuống măi cho đến khi nó lọt vào bí huyệt vĩ lư quan hăy c̣n bỏ trống, rồi trụ nó vào Luân Xa nơi Rún, để cho người chết được phục hồi sinh khí và làm cho người ta thấy rằng y đă sống lại.


        Mọi người đều biết câu chuyện nhà Hiền Giả Sankarâ đă phục sinh cho cái xác chết của vua Amaraka ở thành Amritapura, do Mâdhava, nhà chép tiểu sử của ông thuật lại. Để trả lời những câu hỏi của Mandana Misra phu nhân về khoa học Ái T́nh, mà ông hoàn toàn mù tịt v́ ông vẫn sống độc thân từ khi c̣n nhỏ, nhà Hiền Giả hẹn sẽ giải thích đáp trong ṿng một tháng. Kế đó, trong một chuyến đi ngao du với các đệ tử đến gần thành Amritapura, ông nh́n thấy cái xác chết của nhà vua đặt nằm dưới gốc cây, giữa một đám thần dân vây chung quanh đang than khóc. Nghĩ rằng đây là một cơ hội tốt để thâu thập những kiến thức về t́nh dục mà ông c̣n thiếu sót, Đạo Sư Shankara bèn giao cái thể xác của ông cho các đệ tử coi sóc, rồi xuất vía rồi nhập vào xác chết của vua, làm cho nó hồi sinh trở lại giữa sự reo mừng của đám cận thần ở chung quanh. Kế đó, Đạo Sư được đưa trở về kinh đô, và trong một thời gian đă trải qua cuộc sống b́nh thường của một ông vua giữa những phi tần cung nữ trong tam cung lục viện và sau cùng ông đă giải đáp những câu hỏi về ái t́nh.


        Bộ sách SANKARAVIJAYA của nhà chép tiểu sử Mâdhava viết như sau:


        “SAU KHI RÚT LUỒNG SINH KHÍ (PRÂNA VAYU) TỪ ĐẦU CÁC NGÓN CHÂN TRỞ LÊN CHO THOÁT RA NGOÀI XUYÊN QUA NÊ HUỜN CUNG, TỨC LUÂN XA TRÊN ĐỈNH ĐẦU (BRAHMARÂNDHRA), ĐẠO SƯ SHANKARA MỚI TỪ TỪ, TỪNG GIAI ĐOẠN CHẬM RĂI, NHẬP VÀO XÁC CHẾT CỦA NHÀ VUA DO NÊ HUỜN CUNG VÀ CHIẾM ĐÓNG TRỌN VẸN TỪ ĐẦU ĐẾN CHÂN”.

        
         Nhân dịp soạn lại tập hồ sơ cũ,tôi đă t́m thấy một trang nhật kư cũ trong đó có ghi lại một cuộc đối thoại giữa tôi với một vị Chân Sư có quốc tịch Hung Gia Lợi, đă mượn xác bà HPB buổi tối hôm đó. Trang nhật kư ấy viết như sau:

         “NGÀI LẤY TAY CHE MẶT VÀ HẠ THẤP BẤC ĐÈN ĐẶT TRÊN BÀN. TÔI HỎI NGÀI TẠI SAO? NGÀI NÓI RẰNG ÁNH SÁNG LÀ MỘT MĂNH LỰC VẬT CHẤT, NẾU ĐỂ LỌT VÀO MẮT CỦA MỘT THỂ XÁC BỊ MƯỢN TẠM, SẼ VA CHẠM ĐẾN THỂ VÍA CỦA NGƯỜI MƯỢN XÁC, GÂY CHO NÓ MỘT SỰ KHÍCH ĐỘNG MẠNH VÀ MỘT SỨC ĐẨY ĐỘT NGỘT ĐẾN MỨC LÀM CHO VÍA NGƯỜI MƯỢN XÁC CÓ THỂ BỊ ĐẨY BẬT RA NGOÀI. THẬM CHÍ NÓ C̉N CÓ THỂ LÀM CHO CÁI THỂ XÁC KIA BỊ TÊ LIỆT.


        KHI NHẬP XÁC MỘT NGƯỜI KHÁC, PHẢI RẤT VÔ CÙNG THẬN TRỌNG. NGƯỜI TA KHÔNG THỂ TỰ ĐỒNG HÓA VỚI CÁI THỂ XÁC ẤY MỘT CÁCH HOÀN TOÀN CHO ĐẾN KHI NÀO NHỮNG SỰ VẬN ĐỘNG TỰ NHIÊN VÔ THỨC CỦA NHỮNG BỘ MÁY TUẦN HOÀN, HÔ HẤP V…V…, ĐĂ ĐƯỢC ĐIỀU CHỈNH CHO THẬT ĂN KHỚP VỚI NHỮNG ĐỘNG TÁC TRONG CƠ THỂ CỦA NGƯỜI MƯỢN XÁC, MÀ CÁI THỂ XÁC CỦA NGƯỜI NÀY, DÙ Ở CÁCH ĐÓ BAO XA ĐẾN ĐÂU, VẪN CÓ LIÊN HỆ VÔ CÙNG MẬT THIẾT ĐẾN CÁI THỂ VÍA ĐĂ XUẤT RA.

        KHI ĐÓ, TÔI MỚI THẮP SÁNG NGỌN ĐÈN TREO LỦNG LẲNG TRÊN TRẦN NHÀ, NHƯNG CHÂN SƯ LIỀN CẦM LẤY MỘT TỜ NHẬT BÁO CHE TRÊN ĐỈNH ĐẦU. TÔI NGẠC NHIÊN VÀ YÊU CẦU NGÀI GIẢI THÍCH LƯ DO, TH̀ NGÀI CHO BIẾT RẰNG ĐỂ ÁNH SÁNG TỪ TRÊN CAO RỌI XUỐNG ĐỈNH ĐẦU LẠI C̉N NGUY HIỂM HƠN LÀ ĐỂ ÁNH SÁNG RỌI VÀO MẮT”.

        Hồi đó, tôi chưa biết ǵ về sáu bí huyệt hay Luân Xa trong thân thể con người. Tôi cũng không biết rằng Luân Xa quan trọng nhất trong những bí huyệt đó, tức Nê Huờn Cung (brahmarândhra), nằm ở dưới những xương sọ trên đỉnh đầu, và ở Ấn Độ, người ta có tục lệ chọc thủng cái xương sọ ở chỗ ấy khi đem hỏa tang xác chết để cho cái Vía người chết xuất ra được dễ dàng. Hơn nữa, lúc đó tôi cũng chưa đọc câu chuyện Đạo Sư Shankara xuất vía và nhập vào xác chết của ông vua xuyên qua Nê huờn Cung là cái cửa ngơ của linh hồn.


        Tôi chỉ nh́n thấy những động tác của vị Chân Sư, và cũng chưa hiểu rơ những lời giải thích của ngài tối hôm đó, nhưng bây giờ, với thời gian qua, điều bí hiểm đó đă được soi sáng và cả hai sự việc xảy ra ở New York và Amritapura đều có liên hệ hỗ tương với nhau. Qua sự việc sau này, và những giáo lư của Huyền Học Ấn Độ, người ta có thể hiểu dễ dàng hơn điều bí mật của sự việc trước. Trước kia th́ mọi sự có vẻ tối tăm mờ mịt, và thậm chí người ta cũng không có đến một danh từ để giải thích sự việc ấy, nhưng nay người ta có thể thấy rằng bất cứ người nào tinh thông pháp môn Yoga đều có thể nhập xác một người khác c̣n sống, khi mà thể Vía của người này đă xuất ra và cái thể xác trống trơn được đặt dưới việc sử dụng của những bạn bè thân hữu đến viếng. Tầm mức quan trọng của vấn đề này đối với việc mượn xác bà HPB thật đă hiển nhiên, như tôi sẽ cố gắng tŕnh bày trong phần kế tiếp.

                                                                                    III

        Đây xin trở lại vấn đề mượn xác của bà HPB, trong đó có một bằng chứng luôn luôn xuất hiện làm cho người ta phải chú ư. Hăy xét trường hợp vị Chân Sư A hay B đă “giáng lâm” qua thể xác bà HPB độ một giờ hay lâu hơn, đă viết vài đoạn trong quyển “VÉN MÀN ISIS” hoặc đơn phương hoặc với sự cộng tác của tôi, và vào một lúc nhất định, đă nói một điều ǵ đó với tôi hoặc với một trong những vị khách có mặt. Th́nh ĺnh, bà (hay ngài?) ngừng nói chuyện, đứng dậy và, với một lời xin lỗi khách v́ một lư do nào đó, bèn rời khỏi pḥng trong giây lát. Sau đó bà trở lại, dáo dác nh́n quanh với đôi mắt bỡ ngỡ như một người lạ vừa bước vào một gian pḥng có đông người, vấn một điếu thuốc hút, và thốt ra những lời không có liên quan ǵ đến câu chuyện đă nói lúc năy. Bà tỏ vẻ lúng túng, không thể nối tiếp câu chuyện đang bỏ dở, hoặc nói vài câu trái ngược hẳn với những ǵ bà vừa mới khẳng định, và khi có người nhắc lại cho bà biết việc ấy, bà lấy làm bực ḿnh và thốt lên những lời nói nặng nề. Hoặc khi được nhắc lại rằng hồi năy bà đă nói như vậy như vậy, th́ bà có vẻ trầm ngâm nghĩ ngợi giây lát và nói: “Ờ nhỉ, xin lỗi ông…”, rồi tiếp tục nói về đề tài đang bỏ dở.

       Đôi khi bà có những sự thay đổi ư kiến như vậy mau như chớp, và v́ quên đi cái cá tính đa h́nh đa dạng của bà, chính tôi cũng đă lắm khi bực ḿnh về sự lư luận không nhất trí đó, khi bà mạnh dạn lên tiếng phủ nhận những điều mà bà đă tuyên bố một cách chắc chắn và rơ ràng chỉ một lúc trước đó. Lần lần, tôi được giải thích cho biết rằng sau khi nhập xác một người khác (c̣n sống), cần phải có một thời gian ngắn để nối liền tâm thức của ḿnh với kư ức của nhân vật vừa xuất ra trước đó, chứ nếu không, mà cứ tiếp tục câu chuyện trước khi có sự điều chỉnh, th́ những sự lệch lạc như trên vẫn có thể xảy ra. Điều này phù hợp với những ǵ Chân Sư đă nói với tôi tại New York về vấn đề nhập xác, và với sự diễn tả cách thức mà Đạo Sư Shankara nhập vào cái xác chết của vua Amaraka như đă nói trong bộ sách SHAKARAVIJAYA(*):[11]

       “…Đạo Sư Shakara MỚI TỪ TỪ, TỪNG GIAI ĐOẠN CHẬM RĂI, nhập vào xác chết của nhà vua và chiếm đóng trọn vẹn từ đầu đến chân”.

        Sự giải thích về việc điều chỉnh từ từ từng giai đoạn những động tác sinh lư trong hai cơ thể cho điều ḥa tiết điệu và ăn khớp với nhau c̣n nới rộng đến sự điều chỉnh của hai tâm thức, và khi nào chưa có sự ḥa hợp hoàn toàn, th́ đương nhiên phải có sự lộn xộn về tư tưởng, lư luận và kư ức như tôi đă diễn tả ở trên, và như phần nhiều những vị quan khách đến viếng bà HPB đă phải lấy làm vô cùng ngạc nhiên sửng sốt.

         Thỉnh thoảng, khi chỉ có hai chúng tôi trong pḥng, th́ hoặc Nhân Vật sắp “thăng”, nói:

       “Ta phải giữ điều này lại trong óc để cho vị đến sau Ta có thể theo dơi…”,

        Hoặc Nhân Vật vừa giáng lâm, sau khi chào hỏi tôi bằng một lời thân mật, bèn hỏi tôi vấn đề đang thảo luận là vấn đề ǵ trước khi có sự “thuyên chuyển”.

        Trong những bức thư của các Chân Sư viết cho tôi về bà HPB, các ngài thường đề cập đến cái xác phàm của bà như một cái khí cụ mà một trong các ngài đang sở hữu và dùng tạm. Trong quyển Nhật Kư của tôi năm 1878, tôi nhận thấy một đoạn kư sự đề ngày 12 tháng 10 do bút tích của Chân Sư M. viết qua tuồng chữ của bà HPB như sau:

      “HPB mạn đàm với W. đến hai giờ sáng. W. tâm sự rằng y nh́n thấy nơi bà có đến BA CÁ TÍNH RƠ RỆT. Y BIẾT chắc như vậy, nhưng không muốn nói với Olcott về việc ấy, v́ y sợ rằng H.S. Olcott sẽ chế diễu y !!!”

        Những chữ gạch đít và những chấm than đều chép lại đúng y nguyên văn. Chữ “W.” là nói ông Wimbridge, lúc đó là khách của chúng tôi.

       Sở dĩ có đoạn văn do tay người khác viết trong tập Nhật Kư riêng của tôi, là v́ khi tôi rời khỏi New York v́ hoạt động nghề nghiệp, mà trong năm đó tôi phải đi vắng nhà đến nhiều lần, th́ bà HPB viết nhật kư thay cho tôi. Cái tên “HPB” cũng phải được hiểu là những Nhân Vật mượn xác của bà trong mỗi lần nhất định. Trong đoạn nhật kư ngày hôm sau (13 tháng 10), cũng do một bàn tay ấy viết, sau khi điểm danh bảy người khách đến viếng thăm hôm đó, có sự ghi nhận như sau về một vị khách có mặt:

       “Tiến Sĩ Pike nh́n thẳng vào mặt HPB nhiều lần, bèn giật ḿnh và nói rằng trên đời không có ai đă gây cho y một ấn tượng lạ lùng như thế. Có khi y nhận thấy nơi HPB một thiếu nữ độ mười sáu tuổi, có khi đó là một bà già một trăm tuổi, một lần khác đó lại là một người đàn ông có râu!”

        Ngày 22 tháng 10, cũng một bàn tay ấy viết:

      “N. (một vị Chân Sư) thăng, nhường chỗ cho S. (một vị Chân Sư) nhập vào (thể xác bà HPB). Vị sau này đến với mật lệnh của _(*)[12] dạy phải hoàn thành tất cả vào ngày mùng 1 tháng 12” ( để chúng tôi lên đường sang Ấn Độ)

       Đoạn nhật kư ngày 4 tháng 11, cũng một tuồng chữ ấy viết:

     “N. xuất ra, và M. giáng lâm với lệnh tối hậu của _(*) dạy phải lên đường (sang Ấn Độ) từ ngày 15 đến 20 tháng 12 là trễ nhất”.

       Tôi cũng có nhận được nhiều thơ của các Chân Sư nói về bà HPB với tư cách cá nhân của bà, đôi khi nói rất thành thật về những đặc điểm của bà, cả tốt lẫn xấu. Có một lần, tôi được các Chân Sư, với những huấn lịnh viết tay, giao sứ mạng kín cho tôi đi đến một thành phố khác để tạo nên một vài diễn biến cần thiết cho sự tiến hóa tâm linh của bà. Tôi vẫn c̣n giữ bức văn kiện đó.

       Khi tôi đến tỉnh Rajputana năm 1879, tôi có nhận được một bức thư rất dài của các Chân Sư. Đó là một thông điệp đầy ḷng ưu ái, nhân từ, và nếu nó có liên quan đến cái đề mục của chúng ta bây giờ, th́ có lẽ tôi đă công bố trong sách này, để chứng minh tính chất cao siêu của sự trao đổi thơ từ giữa các Chân Sư với tôi trong nhiều năm liên tiếp. Chính trong bức thơ đặc biệt đó Chân Sư đă giải đáp thắc mắc khi tôi bày tỏ sự ước muốn rút lui ra khỏi cuộc đời thế tục và đi theo các ngài. Tôi được trả lời rằng:

      “Phương tiện duy nhất hiện có sẵn và ở trong tầm tay con để bước đến gần Chúng Ta là xuyên qua Hội Thông Thiên Học”

       Tức là cơ quan mà tôi được lịnh phải xây dựng, củng cố và phát triển. Tôi phải tập sống hoàn toàn vô kỷ, vị tha. Chân Sư nói thêm:

      “Không một ai trong Chúng Ta sống cho riêng ḿnh, mà tất cả đều sống cho nhân loại”.

       Đó là cái tinh thần rốt ráo, tối hậu, chứa đựng trong tất cả những lời giảng dạy của Chân Sư gởi cho tôi, và đó cũng là cái lư tưởng xuất hiện bàng bạc khắp nơi trong bộ sách “VÉN MÀN ISIS”.

       Giáo lư chứa đựng trong bộ sách này có thể tóm tắt đại lược như sau:

       “Con Người có một tính chất phức tạp, gồm cả hai phương diện cực đoan, một đàng là những thú tính thấp hèn, một đàng là tính  chất thiêng liêng cao quư. Sự sống duy nhất chân thật và toàn mỹ, thoát ly khỏi mọi ảo giác, ngoài ṿng tục lụy, khổ đau, bởi v́ nơi đó không có sự Vô Minh, ấy là sự sinh hoạt tinh thần, tức của Chân Ngă.”

       Bộ sách ấy giúp cho con người có một đời sống trong sạch, cao thượng; nó giúp cho sự mở trí và khai mở ḷng từ bi bác ái đối với muôn loài vạn vật; nó chỉ cho người đời thấy con đường Đạo diệu huyền. Con đường Đạo ấy luôn luôn mở rộng cho những người thiện chí, khôn ngoan và dung cảm. Bộ sách ấy cũng truy nguyên tất cả mọi kiến thức và hiểu biết của chúng ta hiện nay đến những nguồn gốc xa xưa của thời thái cổ; nó cũng khẳng định sự hiện diện luôn luôn hằng có từ xưa đến nay của các đấng Chân Sư và của khoa học Huyền Môn; nó c̣n đem đến cho chúng ta một nguồn khích lệ và một lư tưởng cao siêu để cho chúng ta cố gắng đạt tới, ngơ hầu có thể thực hiện sự tiến hóa tâm linh của ḿnh.

       Khi bộ “VÉN MÀN ISIS” vừa xuất bản, nó đă gây khích động trong quần chúng đến mức bản in đầu tiên năm ngàn cuốn đă bán hết sạch trong ṿng mười ngày. Tiến Sĩ Shelton Mackenzie, một trong những nhà phê b́nh tài ba nhất thời đó, viết rằng:

      “Đó là một trong những công tŕnh dáng kể nhất về tư tưởng xuất chúng, công phu sưu tầm tỉ mỉ, và cách tŕnh bày đạo lư, triết học bao gồm một học lực uyên thâm, quảng bá chưa từng thấy từ nhiều năm nay”.(Phila. Press, 9.1.1887).

       Nhà phê b́nh văn nghệ của nhật báo New York Herald ra ngày 30 tháng 9 năm 1877 nói rằng:

      “Những tâm hồn tự do độc lập sẽ hoan nghinh công tŕnh mới xuất bản này như một sự đóng góp sáng giá nhất vào nền văn chương Đạo Lư”.

       Ông viết tiếp:

      “Với những đặc điểm lạ lùng, những luận điệu phong phú, táo tợn, và những đề mục dồi dào bất tận mà tác giả đă triển khai một cách vô cùng linh hoạt và hấp dẫn, bộ sách này là một công tŕnh sáng tạo độc đáo phi thường của thế hệ”.

       Một sự kiện cụ thể là bộ sách “VÉN MÀN ISIS” nay đă trở nên một tác phẩm cổ điển khuôn mẫu, nó đă được tái bản nhiều lần, và hiện nay, sau một thời gian mười bảy năm đă trôi qua, vẫn đang được nhu cầu ở khắp nơi trên thế giới. Một tác giả Mỹ đă phát biểu ư kiến mà tôi cho là đúng nhất, khi ông nói rằng:

     “Đó là một bộ sách bao gồm cả một cuộc cách mạng tư tưởng trong đó”.

 

                                                                            CHƯƠNG MƯỜI

 

                                                               NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐỐI NGHỊCH

       Như đă kể trước đây, trong những thuở ban đầu của hội Thông Thiên Học, chúng tôi có trao đổi thư từ với những nhà trí thức trên thế giới. Trong số đó có hai người đă trở nên những bạn thân của chúng tôi, là C.C.Massey và Stainton Moses, mà chúng tôi c̣n lưu lại nhiều kỷ niệm tốt đẹp.

       Stainton Moses là một nhà Thần Linh Học tiến bộ và có tŕnh độ văn hóa cao. Y bắt đầu khảo cứu về các hiện tượng đồng tử với mục đích t́m hiểu sự thật, nhưng không bao lâu y nhận thấy rằng chính y lại là một đồng tử mà y cũng không ngờ, và có những hiện tượng thuộc về loại kỳ lạ nhất. Những hiện tượng ấy xảy ra bất cứ ngày đêm, dù trong lúc y chỉ có một ḿnh hay có người chung quanh. Thế là không bao lâu, tất cả những sở đắc về khoa học và triết lư mà y đă thâu thập được ở trường đại học Oxford đă trở nên tan tành như mây khói, và y đành phải chấp nhận những lư thuyết mới về vật chất và sức mạnh, về cơi thiên nhiên cũng như về con người.

       Những hiện tượng của y thật vô cùng phong phú và lạ lùng, cả về phương diện vật chất và tâm linh. Chúng phản ảnh nơi phẩm chất thanh cao của những giáo lư mà y tiếp nhận được, và y quyết định không tin bất cứ giáo điều nào được chuyển đạt cho y bởi những thần linh khuất mặt trong cơi vô h́nh mà y không hiểu được một cách hoàn toàn rơ rệt.

       Phần lớn những giáo lư ấy, S. Moses nhận được bằng những cơn giáng bút tự động viết qua chính bàn tay của y. Trong khi y đang chăm chú đọc sách hay nói chuyện, th́ bàn tay mặt của y tự động viết liên tục trong độ nửa giờ hay một giờ, và khi y nh́n lên những trang giấy đă viết đầy chữ, th́ thấy đó là những tư tưởng độc đáo, mới lạ, hoàn toàn khác hẳn với những ǵ y đă tin tưởng từ trước đến nay, hoặc giải đáp thỏa đáng những câu hỏi hay nghi vấn của y đă đưa ra trong một lần trước. Y luôn luôn tin tưởng và tuyên bố một cách hào hứng trong những bức thư của y gởi cho chúng tôi, rằng cái trí lực điều khiển bàn tay của y để giáng bút vốn không phải là của y, cũng không phải là cái tâm thức của y, dù hữu thức hay tiềm ẩn, mà chỉ là trí lực của những thực thể tâm linh hay đấng vô h́nh náo đó. Y c̣n nói rằng y biết rơ những đấng ấy qua h́nh dáng (bằng thần nhăn), qua giọng nói (bằng thần nhĩ), và tuồng chữ viết một cách rơ ràng không thể lầm lẫn cũng như y biết những người c̣n sống.

       Trong số những hiện tượng chung của cả hai người, có việc làm cho những tiếng “chuông thần” reo nhẹ trong không gian; việc sản xuất hương thơm phảng phất trong không khí; những ánh sáng chập chờn bay lượn trên không trung, việc phóng xuất ra chữ viết trên mặt giấy ngoài tầm tay của đương sự; việc tạo ra những loại đá quư và những vật thể khác; âm nhạc reo trong không khí; những mùi hương lạ của Đông Phương thơm nức mỗi khi có sự hiện diện vô h́nh của những đấng Cao Cả hay bậc đạo gia ưu tú ở gần bên; việc S.moses nh́n thấy trong chất Tinh Quang những điểm ánh sáng có màu xếp theo h́nh tam giác, làm thành mật hiệu của Tập Đoàn Tiên Thánh phân bộ Á Đông; và sau cùng, là quyền năng xuất vía một cách ư thức và trở về tái nhập vào thể xác sau một chuyến ngao du trong cơi vô h́nh. Sự giống nhau mật thiết như vậy về những kinh nghiệm huyền linh đương nhiên là tạo nên một sự thích thú hỗ tương mạnh mẽ giữa hai nhà thông linh ưu tú.Tự nhiên là S.Moses rất ước mong tiếp nhận được mọi sự chỉ dẫn hay huấn thị mà bà HPB có thể đưa ra để giúp đỡ y hiểu biết thêm về thế giới vô h́nh và hoàn toàn làm chủ cái tính chất thông linh của y, mà sự huấn luyện tâm linh hoàn bị trên đường Đạo bắt buộc cần phải có.

 

                                                                                     II

 

       Thật không ǵ trái ngược nhau cho bằng những quan điểm của các nhà Thần Linh Học Tây Phương và của người Đông Phương nói chung về vấn đề giao tiếp với người chết. Người Tây Phương khuyến khích những việc đó, và thường cố gắng phát triển khả năng đồng tử của chính họ hay của những người trong gia đ́nh họ để làm tṛ tiêu khiển mua vui. Họ ủng hộ nhiều tạp chí thần linh học và xuất bản nhiều sách vở để tŕnh bày và lư luận về những hiện tượng của họ, và dẫn chứng những hiện tượng này như là nền tảng khoa học của lư thuyết về cuộc đời sau.

        Người Đông Phương, trái lại, coi việc giao tiếp với người chết như một sự đọa lạc của linh hồn, có tác dụng vô cùng tai hại đối với người chết lẫn người sống, làm ngăn trở sự tiến hóa tự nhiên của linh hồn và làm tŕ hoăn sự giác ngộ tâm linh. Ở các nước Âu Mỹ, người ta thường gặp trong các buổi họp đàn những người thuộc đủ mọi thành phần, những người có học thức, thanh cao, sang trọng, tinh khiết, cũng như những đối tượng trái ngược lại. Ở phương Đông, như ở xứ Ấn Độ nói chung những người đồng tử và các nhà phù thủy chỉ được sự bảo trợ của những người thuộc giai cấp hạ tiện (pariah) và bất khả tiếp xúc. Ở phương Tây vào thời buổi hiện đại, người ta thường  tỏ vẻ vui mừng thay v́ lo buồn khi họ phát hiện ra một đồng tử trong gia đ́nh họ, c̣n ở Ấn Độ nó bị coi như một điều ô nhục, một tai họa, một điều mà họ phải lấy làm bi thảm và giải trừ càng sớm càng hay.

       Tất cả các dân tộc Đông Phương, gồm người Ấn Giáo, Phật Tử, Hỏa Giáo, Hồi Giáo, thảy đều đồng một quan niệm về vấn đề này do ảnh hưởng của truyền thống tổ tiên cũng như do những giáo lư chứa đựng trong các Thánh Kinh của tôn giáo họ. Không phải chỉ có sự giao tiếp với người chết mới bị ngăn cấm mà thôi, mà luôn cả việc phô trương những phép tắc thần thông do sở đắc tự nhiên hay do sự phát triển nhờ công phu tu luyện.

       Bởi vậy, người Bà La Môn Ấn Độ sẽ nh́n bằng cặp mắt không tán thành những hiện tượng mầu nhiệm của Stain-ton Moses, nhà đồng tử trí thức, cũng như của HPB, nhà phương sĩ có bản lĩnh cao cường. Không cần biết đến sự t́m ṭi khảo cứu các vấn đề thông linh như một nhu cầu thúc đẩy trên phương diện trí thức, và vốn có những h́nh thức tôn giáo dựa trên căn bản tinh thần họ không đặt vấn đề lấy những hiện tượng thần thông làm bằng chứng cho sự bất tử của linh hồn. Trái lại, họ ghê tởm người đồng tử bị ám ảnh như một sự ô uế tâm linh, và bớt kính trọng những người có quyền năng thần bí, nhưng lại đem ra phô trương, biểu diễn trước mắt mọi người.

        Sự phát triển những quyền năng thần bí là hậu quả tự nhiên của công phu tu luyện. Có tám thứ quyền năng loại cao (Ashta Siddhis) thuộc về tŕnh độ tâm linh siêu đẳng, là sở đắc của các vị đạo sĩ chân tu bên Chánh Đạo. Ngoài ra, c̣n có mười tám thứ quyền năng (hay nhiều hơn nữa) thuộc về cơi trung giới và hạ giới hồng trần, là sở đắc của những thuật sĩ hay phù thủy bên Bàn Môn Tả Đạo.

       Như vậy, người ta sẽ nhận thấy rằng trong khi những hiện tượng thần thông của bà HPB làm cho những đệ tử và bạn bè thân hữu Tây Phương của bà thán phục và tôn sùng, và gây nên sự hoài nghi lẫn ác ư của những kẻ đối nghịch, th́ chính những sự biểu diễn đó hạ thấp bà trong dư luận của những đạo gia và học giả chính thống của Ấn Độ và Tích Lan, như là dấu hiệu của tŕnh độ tâm linh thấp kém. Đối với họ, không hề có nghi vấn nêu ra về sự thật của các hiện tượng, v́ tất cả những sự huyền linh ấy đều đă được thừa nhận và ghi chép trong các Thánh Kinh của họ. Đồng thời, trong khi sự biểu diễn những hiện tượng thần thông trước công chúng bị chỉ trích, lên án, th́ một mặt khác, khi người ta được biết rằng một vị đạo sư có những quyền năng thần bí, điều ấy lại càng làm tăng thêm giá trị của ông ta như những dấu hiệu của sự phát triển tâm linh thật sự. Nhưng quy luật chung vẫn là một bậc đạo sư không nên đem phô trương những quyền năng của ḿnh dẫu cho trước mặt các đệ tử, trừ phi họ đă đạt tới một tŕnh độ tâm linh vững chắc để có thể hiểu được mọi điều lợi hại của vấn đề.

       Trong thiên Tiểu Phẩm (Kullavagga) của Phật Giáo, có tường thuật chuyện sau đây:

      Một vị phú thương ở Vương Xá Thành cho người treo một cái chén đẽo bằng cây mộc hương trên ngọn cây tre để làm giải thưởng cho vị Sa Môn hay Bà La Môn nào có quyền năng khinh thân lên cao để lấy cái chén ấy xuống. Một vị sư tăng danh tiếng tên là Pindala Bharadvaga nhận cuộc thử thách, bèn chuyển ḿnh vượt lên không trung, bay lượn ba ṿng trên thành Vương Xá rồi gỡ lấy cái chén từ trên ngọn cây tre đem xuống đất. Công chúng đứng xem bèn hoan hô inh ỏi và lấy làm bái phục nhà sư. Việc ấy đến tai Đức Phật, ngài bèn triệu tập một buổi họp riêng với các đệ tử và quở trách Pindala như sau:

      “Nhà ngươi đă làm một việc vi phạm luật lệ nhà chùa: Đó là một hành động bỉ ổi, bất nhă, không xứng đáng với một vị Sa Môn. Cũng như một gái điếm bán ḿnh v́ một đồng tiền xấu xa nhơ nhớp, nhà ngươi đem phô trương phép thuật thần thông cũng chỉ v́ một cái chén gỗ bẩn thỉu, đê tiện. Việc ngươi đă làm chẳng những không cải hóa được những kẻ chưa quy y Phật Pháp, hay làm cho những kẻ đă quy y Phật Pháp càng tang thêm; mà trái lại, nó làm cho những kẻ chưa quy y vẫn không chịu quy y , c̣n những kẻ đă quy y Phật Pháp th́ trở lại hoàn tục!”

      Kế đó, Phật mới đưa ra một kỷ luật nghiêm nhặt: “Hởi các t́ kheo, các ngươi không bao giờ được biểu diễn phép thần thông trước công chúng nữa”.

      Cũng trong thiên Tiểu Phẩm, có chỗ nói rằng nhà sư Devadutta bị ngăn trở trên đường tu luyện tới quả vị La Hán bởi v́ ông ta đă đạt được vài quyền năng hạ cấp, rồi lấy làm măn nguyện và tưởng rằng ḿnh đă đạt tới tuyệt đỉnh trên đường Đạo. Trong bản luận kinh Yoga Sutra của Patanjali, nói về sự phát triển quyền năng thần bí, Tiến Sĩ R.Mitra viết:

     Những phép thuật thần thông diễn tả trong kinh ấy đều là những điều phàm tục, chúng được nhu cầu v́ mục đích thỏa măn những ước vọng phàm trần, nhưng hoàn toàn vô ích cho sự công phu thiền định ở cấp bậc thượng thừa, v́ hành giả nhắm sự cô lập làm mục tiêu. Những phép tu luyện ấy không những là vô ích, mà c̣n là những chướng ngại thật sự, v́ chúng làm quấy động sự yên lặng tĩnh mịch trong cơn tham thiền”.

       Người ta thường không hiểu rằng sự phát triển những năng khiếu thần thông có một mối quan hệ đối với Chân Ngă cũng giống như sự liên hệ của năm giác quan đối với phàm ngă con người. Cũng như người ta phải tập chế ngự giác quan cho bớt bị loạn động và bớt nhiễm trần, để tập trung mọi tư tưởng vào một vấn đề khoa học hay triết học thâm sâu, th́ cũng y như thế, người hành giả theo pháp môn tu huệ để đạt tới Minh Triết phải kiểm chế những tác động của các năng khiếu thần nhăn, thần nhĩ,v..v…để giữ cho được nhất tâm bất loạn và thẳng tiến đến mục đích, thay v́ để tư tưởng vẩn vơ đi lạc vào những lối rẽ, khúc quanh của chốn mê đồ mờ mịt do những năng khiếu thần thông ấy vừa hé mở cho y. Xưa nay tôi chưa hề thấy điểm ấy được vạch rơ bao giờ, tuy vậy đó là một điếu tối quan trọng mà người ta phải biết. V́ không biết cái định luật tâm linh đó, nên các nhà linh thị như Swedenborg, Davis, các vị Thánh Gia Tô và những tu sĩ linh thông của tất cả các tôn giáo khác đều đă bị kinh ngạc, sửng sốt, lảo đảo,ngây ngất như điên như dại khi những linh ảnh xuất hiện và diễn ra trước mắt họ như cuốn phim chiếu trên Tiên Thiên Khí Ảnh. Những sự vật mà họ nh́n thấy trong cơi vô h́nh thật khó phân biệt thực hư, chân giả; thường th́ họ lấy giả làm chân, lấy hư làm thực, thế rồi họ phát ngôn những lời tiên tri vụn vặt về thời thế, những mặc khải giả tưởng về tương lai, đưa ra những lời khuyến cáo sai lầm, những pháp môn giả tạo và những giáo điều lệch lạc làm mê hoặc ḷng người.

       Người Á Châu thường tụ tập chung quanh một người có hoặc nghe đồn là có phép thuật thần thông, với những mục đích thật ích kỷ: muốn có con cầu tự v́ vợ nhà hiếm hoi không sinh đẻ; muốn được chữa khỏi bệnh, thường là do hậu quả của những thói hư tật xấu; mong t́m thấy lại của đă mất; muốn được sự ưu đăi của chủ nhân; và muốn biết việc tương lai. Họ gọi việc ấy là “cầu xin Thánh Tổ ban phước lành”, nhưng không ai bị phỉnh lừa bởi những ngôn từ kiểu cách ấy, và có đến chín mươi chín phần trăm trường hợp những tín chủ ra về trong cơn thất vọng.

        Với kinh nghiệm riêng của tôi, tôi cũng đă có dịp biết cái tinh thần thấp kém của hạng người này. V́ trong số hằng ngh́n bệnh nhân đau khổ rên xiết mà tôi đă chữa khỏi hoặc làm cho bệnh được thuyên giảm trong những cuộc khảo sát thực nghiệm về phép truyền nhân điện của tôi hồi năm 1881, tôi ngờ rằng không biết có được một trăm người đă thật sự biết ơn. Trước khi năm ấy kết thúc, tôi đă do kinh nghiệm thực tế mà biết rơ cái tâm trạng của người đạo sĩ và y có những cảm nghĩ ra sao về việc biểu diễn những phép thuật thần thông.

       Thật vậy, kinh Sambita của Ấn Độ nói rằng vị Đạo Sư chân chính không phải là người dạy ta khoa học vật lư, đem cho ta những khoái lạc trần gian, huấn luyện cho ta có những quyền năng thần bí, v́ tất cả những thứ đó đều là những nguồn gốc phát sinh ra đau khổ phiền năo. Trái lại, bậc Đạo Sư chân chính là người chỉ dẫn cho ta thấu triệt Chân Lư (Brahman). Các Thánh Kinh khác của Ấn Độ như kinh Upanishad cũng dạy rằng tuy người đạo sĩ Yogi có thể dùng quyền năng của ư chí để sáng tạo hay hủy diệt các bầu thế giới, kêu gọi các bậc thần tiên ở cơi Trời đến với y, thưởng thức niềm phúc lạc yên tĩnh của Thượng Đế không hề suy giảm, nhưng y phải tránh tất cả những việc vô nghĩa đó như có khuynh hướng tăng cường ư thức cách biệt (với tha nhân) và làm ngăn trở, chướng ngại cho sự giác ngộ tâm linh. C̣n nói về việc tự nguyện giao tiếp với những vong linh ở cơi Trung Giới, kêu gọi sự giúp đỡ và chịu khuất phục dưới mệnh lệnh của chúng, th́ không một người Đông Phương nào có trí óc lành mạnh và kiến thức sâu xa thèm nghĩ đến.

        Trong Thánh Kinh “Chí Tôn Ca” (Bhagavad Gita), đức Krishna nói:

      “Những kẻ nào tôn sùng các vị thần linh, sau khi chết sẽ về cơi giới thần linh; kẻ thờ cúng tổ tiên sẽ về với tổ tiên; kẻ thờ cúng ma quỷ sẽ đi theo ma quỷ. Chỉ có những kẻ nào tôn sùng Ta (tức là những người tầm Đạo, hướng về sự giác ngộ tâm linh cao cả) mới trở về với Ta”.

       Như thế, chúng ta thấy rằng theo quan niệm người Ấn Độ, một người như bà HPB sẽ được kính nể v́ có quyền năng siêu đẳng, nhưng lại bị chê trách về việc biểu diễn các phép thuật thần thông. C̣n một người như Stainton Moses th́ bị họ khinh rẻ như một đồng cốt của các loại vong linh thấp kém, dù cho y có những khả năng trí thức tốt, có văn hóa cao ở cấp bậc Đại Học, và dẫu cho y có những ư đồ trong sạch và vô tư đến đâu.

       Trên đây là quan điểm của người Á Đông nói chung. Riêng phần tôi, tôi là một người Tây Phương hoàn toàn về cách nhận xét những hiện tượng nhiệm mầu của bà HPB và của Stainton Moses. Đối với tôi, những sự việc ấy rất vô cùng quan trọng như những bằng chứng của sự sinh hoạt tâm linh và như những vấn đề khoa học c̣n cần phải giải đáp. Tuy tôi không thể giải đáp sự bí hiểm về tính chất phức tạp đa diện của bà HPB, tôi tin chắc rằng những mănh lực tác động trong người bà và hỗ trợ cho bà làm các hiện tượng, vốn được sử dụng khéo léo bởi những người c̣n sống biết rơ khoa Tâm Linh, và cả khoa học thực dụng các chủng loại tinh linh ngũ hành. Nói về trường hợp của Stainton Moses, th́ cũng có một sự bí hiểm tương tự. Y tin chắc rằng những vị danh sư khuất mặt của y mệnh danh là “Imperator”, v…v… tất cả đều là những linh hồn người đă bỏ xác, trong số đó có vài người của những thế hệ rất cổ xưa, có người của thế hệ tương đối ít xưa hơn, nhưng tất cả đều là những bậc hiền minh, thánh triết. Những vị ấy không những cho phép, mà c̣n khuyến khích y nên sử dụng lư trí để tự vạch con đường tiền bộ tâm linh của ḿnh. Với một sự kiên nhẫn vô biên, họ trả lời những câu hỏi và giải đáp những điều thắc mắc nghi ngờ, giúp y phát triển trực giác tâm linh và trợ giúp y xuất vía được dễ dàng. Bằng vô số những hiện tượng lạ lùng họ chứng minh cho y thấy rơ đặc tính của vật chất và sức mạnh, và khả năng kiểm soát các hiện tượng thiên nhiên. Hơn nữa, họ c̣n dạy cho y biết rằng việc truyền Đạo giữa đạo sư và đệ tử vẫn từng có ở khắp nơi trong càn khôn vũ trụ, trong những giai đoạn tuần tự phát triển trí tuệ và tâm linh, cũng giống như cách giáo dục ở các nhà trường v…v…

 

                                                                                   III

 

       Theo Huyền Học Ấn Độ, người hành giả muốn thực hành pháp môn Thiền Định, phải áp dụng một phương pháp chuẩn bị gồm có ba nghi thức: tẩy trần; gián đoạn mọi sự liên lạc từ điển với cơi trung giới; và cô lập hóa các loại âm binh lởn vởn ở nơi ấy.

      1_ Trước hết là nghi thức tẩy trần: Chỗ ngồi phải được rửa sạch, và rải lên trên một lớp cỏ Kusa, một loại thảo mộc có tác dụng hấp dẫn những tinh linh tốt lành và xua đuổi ảnh hưởng xấu của những vong linh bất hảo. Trong những loại cây có ảnh hưởng xấu mà người ta tin rằng thường hay quy tụ những vong linh và âm binh bất hảo, có cây me và cây đa. Những vong linh bất hảo này cũng thường hay tụ tập ở những nơi giếng cũ, nhà bỏ hoang, các nghĩa địa, nơi thiêu xác, băi chiến trường, ḷ sát sinh, nơi hành quyết và những nơi xảy ra án mạng giết người hay những vụ đổ máu. Đó là sự tin tưởng của người Ấn Độ.

     2_ Nghi thức kế đó là niệm thần chú để xua đuổi các loại âm binh lánh đi nơi khác. Trong khi niệm chú, hành giả dùng bàn tay khoát nhiều lần trên đầu, để tạo một ṿng rào từ điển chung quanh ḿnh, có tác dụng bảo vệ y chống lại mọi sự xâm nhập của những ảnh hưởng bất hảo.

    3_ Sau khi đă thi hành một cách cẩn thận và nghiêm túc hai nghi thức tối cần kể trên, mà hành giả không bao giờ được quên lăng hoặc làm một cách cẩu thả, chừng đó y mới đọc những câu chân ngôn có tác dụng thanh lọc thể xác lẫn tinh thần, và chuẩn bị cho sự nhập thiền nhằm mục đích thức động những khả năng tâm linh và đạt tới sự giác ngộ. Một chỗ ngồi thanh tịnh, không khí trong sạch, tránh xa những người vật chất, nặng trược, ô uế, những kẻ vô luân, vô đạo, vô thiện cảm, tất cả đều là cần thiết cho người tầm Đạo.

       Những lời khuyến cáo của “Imperator” (vị hướng dẫn tâm linh khuất mặt của S. Moses) và của các vị thần linh hộ tŕ cho những đàn cơ chọn lọc ở khắp nơi trên thế giới, cũng đều phù hợp với những quy luật Đông Phương kể trên. Nói tóm lại, những quy luật pḥng vệ ấy càng được áp dụng chặt chẽ, th́ những lời giáng ngôn tiếp nhận được càng thanh cao siêu việt hơn. Những cử chỉ và ngôn ngữ thô tục, khả ố cùng những thông điệp có lời lẽ xấu xa bỉ ổi thường diễn ra trong nhiều đàn cơ với những đồng tử thiếu sự che chở và thiếu chuẩn bị, giữa những cử tọa gồm những thành phần hỗn tạp, xấu tốt lẫn lộn, đều có thể truy nguyên từ việc xao lăng, không áp dụng cẩn mật chặt chẽ những quy luật bảo vệ nói trên. T́nh trạng này đă được cải tiến lần lần trong ṿng mười bảy năm qua. Những đồng tử nặng trược và những hiện tượng vật chất đang lần hồi bắt đầu nhường chỗ cho những h́nh thức sinh hoạt thông linh cao siêu hơn.

        Những quan điểm của “Imperator” về những họa hoạn của những đàn cơ ô trược, hỗn tạp, đă được phản ảnh trong những tác phẩm của ông Stainton Moses. Ông thừa hiểu rằng những kinh nghiệm thu thập được trải qua nhiều thế kỷ, hẳn đă giúp cho người Đông Phương biết được điều chân lư này, là luồng thanh điển thiêng liêng không thể nào đi xuyên qua một đồng tử thấp hèn và một ṿng cử tọa ô trược mà không bị ô nhiễm, cũng ví như gịng nước suối trong lành đi xuyên qua một cái b́nh lọc dơ bẩn sẽ không thể nào c̣n được tịnh khiết như lúc ban đầu. Bởi đó, họ áp dụng những quy luật nghiêm khắc và chặt chẽ để cô lập hóa người đồng tử khỏi mọi ảnh hưởng xấu xa tai hại, và để chuẩn bị cho sự tinh luyện cá nhân của y đến mức hoàn hảo.

       Không biết một chút ǵ về những điều lợi hại trên đây, người Tây Phương thường tự họ đi và c̣n đem những con cái non nớt và nhậy cảm của họ đến những nơi họp đàn bao phủ trong một bầu không khí hắc ám ô trược và sặc mùi tội lỗi. Khi nh́n thấy cái hiểm họa đó, người ta có thể thấy rằng lời khuyến cáo và chỉ trích nghiêm khắc của Imperator, vị hướng dẫn vô h́nh của S. Moses, thật đúng là dường nào khi ông nói về sự khờ dại của người Tây Phương dối với vấn đề giao tiếp với những vong linh người chết.

       T́nh trạng cải tiến nói trên chính là do kết quả tốt lành mà những sách vở và giáo lư Thông Thiên Học của Hội chúng ta đă gây nên trong các giới đồng tử và các pḥng họp đàn, hơn là do ảnh hưởng trực tiếp của các diễn giả, tác giả và chủ bút của các báo chí. Chúng ta hăy hy vọng rằng không bao lâu, những quan điểm Thông Thiên Học về các giới Tinh Linh Ngũ Hành và vong linh người chết sẽ được người ta dành cho một sự lưu ư và quan tâm xứng đáng.

 

                                                                   CHƯƠNG MƯỜI MỘT

 

                                                  HỘI QUÁN THÔNG THIÊN HỌC TẠI NỮU ƯỚC

 

       Lịch sử thuở ban đầu của hội Thông Thiên Học đă được tường thuật khá đầy đủ. Tôi không thấy có ǵ cần nói thêm trừ ra việc hoàn chỉnh lại những kư ức đă qua với vài mẫu chuyện vặt về đời sống xă hội của chúng tôi tại New York cho đến ngày chúng tôi lên đường sang Ấn Độ.

       Trong thời gian từ khoảng cuối năm 1876 cho đến cuối năm 1878, Hội Thông Thiên Học có vẻ tương đối bất động; những Điều Lệ của Hội đă trở nên vô hiệu lực, những buổi họp đă hầu như không c̣n tiếp tục. Những buổi sinh hoạt ít oi của nó trước công chúng đă được diễn tả trên đây, và những dấu hiệu tăng gia ảnh hưởng của Hội được phản ảnh nơi sự tăng gia số lượng thư từ giao dịch của hai nhà Sáng Lập với các giới trong nước và ngoài nước, những bài vở tranh luận đăng trên các báo chí, sự thành lập các Chi Bộ ở Luân Đôn và Corfu, và việc mở đầu các mối liên hệ với những cảm t́nh viên ở Ấn Độ và Tích Lan.

      Những nhà Thần Linh Học ưu tú gia nhập Hội ngay từ lúc đầu nay đă rút lui; những cuộc họp của Hội đă chấm dứt; tiền nhập phí của hội viên đóng góp khi vào Hội đă bị hủy bỏ, và sự bảo quản Hội hoàn toàn đè nặng lên hai vai chúng tôi. Tuy nhiên, lư tưởng của Hội chưa bao giờ mạnh mẽ hơn, và chưa bao giờ phong trào Thông Thiên Học tràn đầy sinh khí hơn khi nó cởi bỏ cái h́nh thức bên ngoài, và tinh thần của nó được tập trung vào tim óc và tâm hồn của chúng tôi.

       Đời sống tại Hội Quán(*)[13] thật tốt đẹp trong những năm kết thúc đó. Hợp nhất trong sự trung thành v́ một lư tưởng chung, trong sự giao tiếp hằng ngày với các đấng Chân Sư, đắm ḿnh trong những tư tưởng, ước vọng và hành động vị tha, hai chúng tôi sống giữa thành phố náo nhiệt ồn ào đó mà không bị ô nhiễm bởi những sinh hoạt cạnh tranh ồ ạt, những tham vọng ích kỷ thấp hèn của người đời, dường như chúng tôi chỉ sống một cuộc đời ẩn dật trên non cao hay trong rừng thẳm. Thật không phải là quá đáng mà nói rằng một bầu không khí thanh cao thoát tục hơn khó mà t́m thấy nơi một nhà nào khác ở New York. Những địa vị xă hội và danh vọng quyền thế của những quan khách đến viếng đều bị bỏ lại ở ngoài cửa khi họ bước vào Hội Quán. Giàu hay nghèo, sang hay hèn, trí thức hay dốt nát, tín ngưỡng hay vô thần, những khách của chúng tôi đều được dành cho một sự đón tiếp nồng hậu và một sự chăm sóc kiên nhẫn đồng đều như nhau đối với những câu hỏi thắc mắc của họ về mọi vấn đề tôn giáo cũng như các vấn đề khác. Bà HPB vốn gịng dơi quư tộc nên bà có thể ḥa ḿnh một cách dễ dàng với giới thượng lưu sang trọng nhất, và là một người phụng sự vị tha có tinh thần dân chủ cao độ để có thể dành một sự tiếp xúc cởi mở nhiệt thành đối với người khách khiêm tốn nhất.

       Một trong những người khách của chúng tôi lúc ấy rất sành sỏi về môn Triết Học Hy Lạp. Y làm công việc quét vôi sơn nhà v́ sinh kế. Tôi c̣n nhớ rơ bà HPB và tôi đều rất hoan hỉ khi chúng tôi kư tên vào đơn xin gia nhập của y như những người bảo trợ tinh thần và hoan nghinh đón nhận y vào hàng hội viên. Những người đến viếng thăm Hội Quán, mà chúng tôi gọi đùa là “Lạt Ma Viện”, khi trở về có viết bài đăng báo tường thuật lại những cảm tưởng của họ, và nói rằng họ có được một kinh nghiệm mới mẻ khác thường. Phần nhiều trong số đó viết về bà HPB với những lời lẽ ca tụng, tán dương và suy tôn quá đáng. Về h́nh dáng bên ngoài, th́ bà không có một chút ǵ giống như một nhà tu khổ hạnh: Bà không tham thiền trong pḥng kín, không ăn uống khắc khổ đạm bạc, không tránh né những người trí óc nông cạn, phù phiếm hay những kẻ phàm tục, cũng không chọn lọc bạn bè để kết giao. Bà mở rộng cửa cho tất cả mọi người, chí đến những kẻ mà bà biết rằng họ sẽ viết về bà với những ng̣i bút đầy xuyên tạc ác ư. Họ thường mạt sát, công kích bà thậm tệ, nhưng nếu những bài vở ấy có tính cách ư nhị, hài hước, th́ bà thường cùng tôi đem ra làm đầu đề để cười đùa vui vẻ thoải mái như một tṛ tiêu khiển, thưởng thức đến mức tối đa.

      Trong số các quan khách quen đến thường ngày, có ông Curtis, một trong những phóng viên tài giỏi nhất của báo chí New York, và về sau trở nên một hội viên Hội Thông Thiên Học. Y đă viết những cột báo dài hằng nhiều thước về “Lạt Ma Viện”, những bài báo của y có khi nghiêm chỉnh, có khi hài hước vui nhộn, nhưng luôn luôn sống động, duyên dáng và hấp dẫn.

      Tối hôm nọ, y đưa chúng tôi vào một cạm bẫy: Một gánh xiếc mà y nói rằng có hai người thuật sĩ Ai Cập đang biểu diễn vài phép thuật dường như chứng tỏ rằng họ có hiểu biết về khoa phù thủy. Dầu sao, y muốn cho chúng tôi đến nh́n xem tận mắt và nhận xét dự việc với tư cách là những chuyên gia đă am tường và thông hiểu về khoa pháp môn huyền bí. Chúng tôi nghe theo và cùng đi thử xem sao. Té ra màn tŕnh diễn rất đỗi tầm thường, và hai người Ai Cập đó chỉ là hai người Pháp chính cống; chúng tôi đă có dịp nói chuyện dài với họ trong văn pḥng của ông Giám Đốc trong những giờ nghỉ ngơi giữa các màn biểu diễn.

       Khi ra về, chúng tôi có than phiền với ông Curtis về sự nhận xét sai lầm của y, nhưng y làm cho chúng tôi bất giác cười lớn khi y trả lời rằng trái lại, bây giờ y đă được tự do xoay trở và có thể đưa ra tất cả mọi dữ kiện cần thiết để viết một bài phóng sự “giật gân”. Quả thật, nhật báo “Thế Giới” ra sáng ngày hôm sau có đăng một bài tường thuật nhan đề “Các nhà Thông Thiên Học đi coi gánh xiếc”, trong đó câu chuyện khô khan vô vị của chúng tôi với hai người Pháp được biến thành một cuộc đối thoại có tính chất thần bí cao siêu với hai nhà đạo sĩ Ai Cập,  kèm theo với vô số những phép thuật dị kỳ, những hồn ma hiện h́nh, những đồ vật đột nhiên xuất hiện và biến mất, v…v…toàn thể sự việc diễn tả trong bài báo đă chứng minh, nếu không phải là sự nhận xét chính xác ít nhất là một năng khiếu tưởng tượng vô cùng dồi dào phong phú của người viết.

      Một lần khác, y đem đến cho chúng tôi xem một bài tường thuật trên báo về sự xuất hiện trong đêm khuya của vong hồn một người gác đêm đă chết, dọc theo những bến tàu ở một phường khóm phía đông thành phố, và yêu cầu chúng tôi hăy nên đi xem con ma. Y nói rằng cảnh sát đă được lịnh báo động, và viên thanh tra cảnh sát của phường đă chuẩn bị mọi sự để chận bắt con ma ngay đêm ấy. Quên mất kinh nghiệm trước đây về vụ gánh xiếc, chúng tôi lại nhận lời ra đi. Đó là một đêm ảm đạm, xấu trời, chúng tôi khoác áo tơi ngồi suốt hằng giờ trên một đống cây gỗ trên bờ sông, và giết thời giờ bằng cách vừa hút thuốc vừa đàm luận với độ hai chục phóng viên các báo được gởi đến để viết bài diễn tả những sự việc xảy ra trong đêm ấy. Nhưng vong hồn lăo Shep (lăo già gác đêm) không thấy xuất hiện lần đó, và sau cùng chúng tôi đành trở về “Lạt Ma Viện”, bực ḿnh v́ đă lăng phí suốt cả buổi tối. Sáng ngày hôm sau, chúng tôi bực tức vô cùng mà thấy các báo triển lăm chúng tôi như những người loạn óc đă trông đợi những sự việc không thể có, và c̣n ngầm ngụ ư rằng chúng tôi đă đuổi lăo già Shep đi mất để làm cho các phóng viên lỡ mất cơ hội trong cuộc săn mồi! Thậm chí các tạp chí có h́nh ảnh c̣n đăng một bức ảnh của hai chúng tôi đứng chung với tập đoàn phóng viên các báo, với lời chú thích:

      “Các hội viên Thông Thiên Học đang chờ đợi bóng ma của lăo già Shep!”

coi không giống chúng tôi hơn là giống những người ở trên Mặt Trăng!

      Một buổi tối, phóng viên Curtis cũng có mặt khi nữ bá tước Paschkoff kể một chuyện phiêu lưu mà bà với bà HPB đă cùng trải qua ở xứ Liban, bà nói tiếng Pháp c̣n tôi dịch ra tiếng Anh. Câu chuyện rất lạ kỳ và thú vị đến nỗi y xin phép được đăng lại, và sau khi được chấp thuận, nó được đăng trên tờ báo của y. V́ câu chuyện này giải thích lư thuyết về tiềm năng của chất Tiên Thiên Khí (Akasha) có thể giữ ǵn kư ức của mọi sự diễn biến trong lịch sử loài người, và người ta có thể sở đắc cái quyền năng làm xuất hiện trở lại những kư ức đó từ trong cơi thiên nhiên, nên tôi ghi chép lại một đoạn dưới đây, và giao trách nhiệm cho người kể:

    “…Nữ bá tước Paschkoff nói qua lời thông dịch của Đại Tá Olcott: Có lần tôi đi một chuyến du hành trên vùng sa mạc xứ Liban (Cận Đông), và trên đồng cát tôi nh́n thấy một đoàn lạc đà. Đó là đoàn du hành của bà HPB. Chúng tôi cùng cắm trại chung với nhau, ở đó có một ngôi kiến trúc lớn tọa lạc gần làng El Marsum, giữa hai dăy núi của xứ Liban. Trên vách đá có khắc những gịng chữ cổ tự mà không ai có thể đọc được. Tôi biết rằng bà HPB có thể làm những việc lạ lùng với những giới thần linh, nên tôi yêu cầu bà thử truy nguyên tung tích của ṭa lâu đài này. Chúng tôi đợi cho đến nửa đêm, khi đó bà mới vẽ một cái ṿng tṛn lớn dưới đất và bảo chúng tôi hăy bước vào đó. Chúng tôi đốt lửa và rắc hương trầm lên. Kế đó, bà HPB thốt lên nhiều câu chân ngôn bí mật nghe rất lạ tai. Chúng tôi rắc thêm hương trầm vào đống lửa. Khi đó bà cầm cây gậy phép chỉ vào ṭa lâu đài, và chúng tôi thấy trên đó có một khối ánh lửa tṛn như một quả cầu lớn và sắc trắng. Gần bên đó có một cây sung lớn, chúng tôi thấy có nhiều ngọn lửa nhỏ chập chờn trên các cành cây. Những con chó rừng sủa trong đêm tối ở cách đó một quăng không xa. Chúng tôi lại đốt thêm hương trầm. Khi đó, bà HPB truyền lịnh  cho vị thần linh nào tọa trấn tại ngôi nhà lầu kia hăy xuất hiện. Không bao lâu, một khối mây mù bốc lên và che khuất ánh trăng non mờ ảo. Chúng tôi lại rắc thêm bột hương trầm lên đống củi cháy. Đám mây mù tượng h́nh một vị lăo trượng có cḥm râu bạc, khi ấy chúng tôi nghe một giọng nói vọng lại từ đằng xa, và phát âm xuyên qua cái h́nh ảnh lờ mờ vừa xuất hiện. Ông lăo nói ngôi kiến trúc này xưa kia là ṭa linh điện của một ngôi đền đă biến mất từ lâu. Ngôi đền cổ này được dựng lên để thờ một vị thần, nhưng vị này từ đó đến nay đă đi qua một bầu thế giới khác.

      Bà HPB hỏi:

     “Lăo trượng là ai?”

     Giọng nói kia đáp:

     “Tôi là Hiero, một trong những vị tư tế của ngôi đền.”

      Khi đó bà HPB truyền lịnh cho ông lăo hăy chỉ cho chúng tôi thấy địa điểm tọa lạc của ngôi đền như hồi đương thời. Ông lăo cúi đầu tuân theo, và trong một lúc chúng tôi thấy xuất hiện h́nh dáng lung linh huyền ảo của ngôi đền cổ và cảnh tượng một thành phố cổ xưa rộng lớn mọc lên tràn khắp cánh đồng bằng diễn ra đến tận chân trời. Sau đó một lát, cái linh ảnh biến mất, và h́nh ảnh ông lăo cũng tan mờ dần”.

    (Câu chuyện này đă được đăng trên nhật báo New York Word ra ngày 21 tháng 4 năm 1878, với cái tựa đề: “Những chuyện huyền linh”.)

 

                                                                                II

 

      Tuy những kinh nghiệm phũ phàng của quá khứ đă dạy cho chúng ta biết rằng những hiện tượng thần thông chỉ là những điều mỏng manh, vô lực, không đủ làm cái nền tảng vững chắc để xây dựng lên đó cả một phong trào tâm linh vĩ đại, nhưng chúng cũng có một giá trị rơ rệt nếu được đặt ở đúng chỗ và được kiểm soát chặt chẽ. Chỗ đó nằm trong phạm vi Mục Đích thứ Ba, trong Ba Mục Đích của Hội Thông Thiên Học.

       Những hiện tượng thần thông có một tầm quan trọng bậc nhất như những bằng chứng sơ đẳng của quyền năng ư chí con người đối với những sức mạnh vật chất thô kệch trong thiên nhiên. Trên địa hạt này, chúng có liên hệ đến vấn đề bí hiểm của cái trí lực thông minh tác động trong những hiện tượng đồng cốt. Tôi nghĩ rằng những hiện tượng của bà HPB làm trong thuở ban đầu của Hội Thông Thiên Học đă đập một vố nặng nề và rơ rệt vào cái lư thuyết mà mọi người đều tin tưởng cho đến khi đó, rằng những thông điệp cơ bút nhận được qua đồng tử đều nhất thiết phải là của vong hồn người chết. Những hiện tượng của bà HPB đă làm đều không có đi kèm với những điều kiện được coi là cần thiết, mà có khi c̣n bất chấp cả những quy luật thông thường. Những tài liệu ghi chép về những hiện tượng đó nay chỉ c̣n tồn tại trong những bài tường thuật đăng trên các báo chí đương thời mà chúng tôi đă cắt để dành, và trong kư ức của những nhân chứng hiện c̣n sống, họ có thể xác nhận hoặc sủa sai những chuyện do tôi thuật lại về các sự việc xảy ra mà chúng tôi đă cùng chứng kiến trước sự có mặt của bà HPB.

       Trong những cuộc hội họp quan khách, chúng tôi không hề có dụng ư lái câu chuyện ấy đến việc làm các hiện tượng nhiệm mầu. Khi chúng tôi chỉ có hai người, bà HPB có thể làm một vài hiện tượng nào đó để dẫn chứng cho một bài học mà bà dạy tôi; hoặc để đáp lại một câu hỏi của tôi về tác dụng của một thứ mănh lực đặc biệt nào đó. Thường th́ bà làm các phép thuật đó trong những cơn ngẫu hứng bất thần, và không do sự gợi ư của một người nào đang có mặt tại chỗ. Tôi xin kể một vài thí dụ trong số bao nhiêu những sự việc khác.

      Một ngày nọ, một nhà Thần Linh Học người Anh đi với con trai ông, một đứa bé độ mười tuổi, cùng với một người bạn ông đến viếng chúng tôi. Đứa bé chơi một ḿnh và đi quanh khắp pḥng, lục lạo trong các sách vở, xem xét những món vật lạ và đồ cổ, đánh thử trên đàn dương cầm, và làm những tác động ṭ ṃ khác. Kế đó, nó bắt đầu nhàm chán và đ̣i về, kéo tay áo cha nó và định làm cho ông ta gián đoạn một câu chuyện rất lư thú với bà HPB. Người cha không hề ngăn chận sự quấy rối của nó và sửa soạn ra về, th́ bà HPB nói:

      “Không sao, nó chỉ muốn có một vật ǵ để chơi thôi. Để tôi xem có thể nào tôi kiếm cho nó một món đồ chơi”.

       Nói xong, bà đứng dậy, đưa tay sờ soạng vào một cánh cửa ở phía sau lưng bà, và kéo ra một con trừu nhồi g̣n rất lớn dưới chân có gắn bánh xe lăn, mà tôi biết chắc chắn là không hề có ở trong nhà chỉ một lúc trước đó!

       Trước ngày lễ Giáng Sinh, cô em gái tôi ở từng lầu trên của “Lạt Ma Viện”, đi xuống chỗ chúng tôi ở mời chúng tôi bước lên xem Cây Giáng Sinh mà cô đă chuẩn bị cho mấy đứa con cô lúc ấy c̣n ngủ trên giường. Chúng tôi nh́n xem qua một lượt các món quà, bà HPB bày tỏ sự hối tiếc rằng bà không có tiền để mua quà tặng và đóng góp vào cái Cây cho các cháu. Bà hỏi cô em tôi đứa con trai cưng của cô ấy thích món ǵ, và khi được trả lời là một cái c̣i thổi tu hít kiểu lớn, bà nói:

      “được rồi, hăy đợi một lát”.

      Bà lấy xâu ch́a khóa từ trong túi áo ra, nắm chặt lấy ba ch́a trong một bàn tay, và một lúc sau đó, bà cho chúng tôi xem một cái c̣i tu hít lớn bằng sắt có khoen máng vào xâu ch́a khóa thay vào chỗ của ba cái ch́a kia. Để làm cái c̣i này, bà đă dùng hết chất sắt của ba cái ch́a khóa, và ngày hôm sau bà phải nhờ thợ khóa làm lại ba cái ch́a khác.

      Đây là một chuyện khác nữa. Trong khoảng chừng một năm sau khi chúng tôi định nơi cư trú tại “Lạt Ma Viện”, bộ đồ dọn ăn bằng bạc của gia đ́nh tôi được đem ra dùng, nhưng sau cùng nó phải được gửi đi cho gia đ́nh thân quyến, và bà HPB đă giúp tôi một tay để gói lại tất cả và cho vô thùng. Ngày đó sau bữa ăn trưa, đến lúc dùng cà phê, chúng tôi nhận thấy không có cái kẹp gắp đường,và khi tôi đưa cho bà cái hũ đường, tôi để thay vào đó một cái muỗng. Bà hỏi cái kẹp gắp đường cục ở đâu, và khi tôi trả lời rằng hồi năy tôi đă gói chung với các đồ bằng bạc kia để gửi đi, th́ bà nói:

       “Nhưng rồi chúng ta cũng phải có một cái để dùng chứ, phải không?”

       Nói xong, bà đưa một bàn tay xuống một bên ghế chỗ bà ngồi, rồi cầm lên một cái kẹp bạc có h́nh dáng lạ kỳ mà chưa ai từng thấy bán ở các tiệm. Cái kẹp ấy có hai nhánh dài hơn kẹp thường, và hai đầu nhánh lại có răng dài và nhọn giống như hai cái nĩa; bên trong có chỗ tay cầm có khắc chữ mật tự, ám chỉ thánh danh của Chân Sư “M”. Tôi vẫn c̣n cất giữ vật này tại Adyar.

       Trong hiện tượng này, có sự tác động của một định luật quan trọng. Muốn tạo ra một vật cụ thể từ cái chất liệu bằng bạc trong không gian, bước đầu tiên là nghĩ đến cái vật thể mong muốn, với tất cả mọi chi tiết như h́nh dáng kiểu mẫu, màu sắc, chất liệu, trọng lượng và những đặc điểm khác. Cái h́nh ảnh gợi trong trí phải dứt khoát rơ ràng từng chi tiết. Giai đoạn kế đó là vận dụng Ư Chí đă được tập luyện thành thục, sử dụng kiến thức của ḿnh về những định luật cai quản vật chất và phương pháp kết hợp các nguyên tử. Sau cùng là sai khiến các tinh linh ngũ hành dùng chất liệu ấy để nhồi nắn thành h́nh cái vật thể mà ḿnh muốn tạo nên.

       Nếu hành giả làm thiếu sót điều ǵ trong những sự việc kể trên, th́ kết quả sẽ không được hoàn toàn như ư muốn. Trong trường hợp vừa kể, th́ rơ ràng là bà HPB đă lẫn lộn trong kư ức của bà những h́nh dáng khác nhau của cái kẹp gắp đường và cái nĩa, và bà đă hỗn hợp cả hai thứ chung lại với nhau thành một vật dị h́nh, khó tả và không thể t́m thấy trên thị trường! Lẽ tất nhiên, việc này lại là một bằng chứng hùng biện về tính cách chân thật của hiện tượng do bà làm, hơn là nếu bà đă tạo ra một cái kẹp đường toàn hảo, v́ một vật như thế có thể mua được ở bất cứ nơi đâu.

      Một đêm nọ, khi pḥng làm việc của chúng tôi có đầy khách đến viếng, bà HPB và tôi ngồi đối diện nhau ở hai bên pḥng, bà ra hiệu bảo tôi cho bà mượn cái khoen có mặt ấn lớn tṛn và chạm lơm sâu, mà tôi đeo tối hôm ấy để buộc cái khăn choàng cổ. Bà cầm lấy nó giữa hai bàn tay nắm chặt, không nói với ai một lời hay làm cho ai chú ư trừ ra tôi, và xoa hai bàn tay độ một hay hai phút, kế đó tôi nghe có tiếng va chạm của hai vật bằng chất kim loại. Bà nh́n tôi mỉm cười và x̣e hai bàn tay ra cho tôi thấy cái khoen ấn của tôi cùng với một cái khác cũng lớn bằng nhưng lại có một kiểu khác: cái mặt ấn này làm bằng đá huyết thạch màu xanh lục, c̣n cái của tôi làm bằng đá hồng mă năo. Cái khoen ấy bà đeo luôn cho đến khi bà từ trần và sau đó nó qua tay bà Annei Besant, mà hàng ngàn người đều nh́n thấy quen mắt. Mặt đá của nó bị vỡ trong chuyến hành tŕnh của chúng tôi qua Ấn Độ, và sau đó được thay một mặt đá khác ở Bombay. Trong trường hợp này cũng vậy, không một lời nào trong câu chuyện giữa các quan khách đă đưa tới hiện tượng này; trái lại, không một ai trừ ra tôi, đă biết việc ấy xảy ra, cho đến măi về sau họ mới được kể lại cho biết.

 

                                                                             III

 

       Ông Sinnett (phó Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học) trong quyển  Những ngẫu sự trong cuộc đời bà Blavatsky”, có viết một chuyện do ông Judge kể lại về việc bà HPB đă tạo ra những ống màu nước cho ông dùng để vẽ một bức họa Ai Cập. Tôi cũng có mặt trong dịp đó, và có thể xác nhận như một nhân chứng:

       Việc ấy xảy ra vào một buổi trưa tại “Lạt Ma Viện”. Ông Judge đang vẽ cho bà một bức ảnh về một chuyện Thần Thoại Ai Cập, nhưng không thể hoàn tất công việc v́ thiếu màu. Bà HPB hỏi ông cần những màu ǵ, và khi được trả lời cho biết, bà bèn bước đến gần cây đàn dương cầm đặt ở sát vách tường, rồi hai tay nâng vạt áo lên dường như để hứng một vật ǵ. Kế đó, bà buông vạt áo và trút lên trên bàn ngay trước mặt ông Judge mười ba lọ bột màu khô hiệu Winsor và Newton, trong số đó có những màu mà ông cần dùng. Một lúc sau đó, ông Judge nói ông muốn có một ít sơn vàng thật, th́ bà bảo ông hăy đi lấy một cái dĩa từ trong pḥng ăn. Ông làm y theo, khi ấy bà mới bảo ông đưa cho bà cái ch́a khóa cửa bằng đồng, rồi bà cọ mạnh cái ch́a khóa lên mặt dĩa. Sau đó một lát, chúng tôi thấy trên mặt dĩa có phủ một lớp sơn vàng thật bằng chất kim loại thuần túy.

      Tôi hỏi bà về tác dụng của cái ch́a khóa trong cuộc thí nghiệm này, th́ bà nói rằng cái tinh hoa hay linh hồn của chất đồng được cần dùng như một trung tâm hạt nhân để quy tựu từ trong chất Tiên Thiên Khí (Akâsa) những nguyên tử của bất cứ chất kim loại nào mà bà muốn phóng xuất. Cũng v́ lư do đó, bà đă cần dùng đến cái khoen đồng có cẩn mặt đá của tôi làm cái khí cụ để tạo nên một cái khoen khác cho bà dùng trong dịp trước đây.

       Phải chăng đó chính là cái nguyên tắc được áp dụng trong phép thuật luyện ch́ thành vàng và chuyển hóa kim loại của nhà Luyện Kim thời xưa mà người ta thường nói đến? Tôi nghĩ như vậy, v́ có truyền thuyết cho rằng cái thuật đó vẫn được biết rơ trong các giới đạo sĩ, thuật sĩ hiện c̣n sống ở xứ Ấn Độ ngày nay. Hơn nữa, những sự khám phá gần đây của các nhà bác học William Crookes về sự cấu tạo của các nguyên tố (elements)(*)[14] phải chăng đă đưa chúng ta  phải tiến đến cái lư thuyết Âm Dương của Phương Đông? (tức Purusha  Prakriti của Triết Học Ấn Độ).Và phải chăng cái lư thuyết sau này chỉ cho chúng ta thấy rằng những nguyên tố của một thứ kim loại có thể được chuyển sang những cách hóa hợp mới, mà kết quả là sẽ làm cho nó biến thành một chất kim loại khác bằng cách sử dụng cái quyền năng mạnh mẽ vô địch của Ư Chí? Khoa học Vật Lư vẫn chưa thực hiện được điều này, dẫu rằng bằng cách sử dụng những năng  lực vô cùng lớn lao của điện khí. Nhưng điều vô cùng khó khan đối với nhà bác học, hoàn toàn tùy thuộc nơi tác động của những sức mạnh vật chất thô kệch, lại có thể rất dễ dàng dối với bậc Đạo Gia,  biết sử dụng khả năng của Tinh Thần như một khí cụ tác động hữu hiệu. Thật vậy, đó chính là cái quyền năng sáng tạo nên Vũ Trụ.

       Giáo sư Crookes có nói:

     “Tôi tin chắc rằng sự khảo cứu sưu tầm ráo riết không gián đoạn sẽ được đền bù tưởng thưởng bằng một tia sáng chiếu rọi và những điều huyền bí của thiên nhiên, mà hiện nay không ai có thể quan niệm được”.

       Nói được như thế tức là đem một điềm triệu báo trước một ngày mai tươi sáng hơn, khi đó các nhà bác học sẽ thấy rằng phương pháp quy nạp của họ làm tăng thêm gấp trăm lần những sự khó khan trong việc t́m hiểu những “điều huyền bí của thiên nhiên”. Họ sẽ thấy rằng cái ch́a khóa của tất cả mọi điều huyền bí là sự hiểu biết về Tinh Thần, và con đường đưa đến sự hiểu biết đó đi xuyên qua một ngọn lửa c̣n dữ dằn hơn nữa, nó được duy tŕ bằng ḷng ích kỷ, được nuôi dưỡng bằng nhiên liệu của sự đam mê, và quạt cho bùng cháy lên bằng những cơn bạo phát của dục vọng.

       Khi nào mà Tinh Thần lại được nh́n nhận như cái yếu tố tối thượng trong sự cấu tạo các nguyên tố và trong cơ Sáng Tạo nên Vũ Trụ Càn Khôn, th́ những hiện tượng thần thông như của bà HPB sẽ có một tầm quan trọng tuyệt luân như những sự kiện khoa học, chứ nó không c̣n bị coi như những tṛ ảo thuật bởi một hạng người, và bởi một hạng người khác như những phép lạ để làm mê hoặc những kẻ khờ dại dễ tin!

 

CHƯƠNG MƯỜI HAI

 

PHÓNG ẢNH

 

       Trong quyển “Modern Egyptians”, tác giả Lane có thuật chuyện một thanh niên đến viếng một đạo sĩ Ai Cập và được thấy những khả năng thần thông của vị này. Lúc ấy cha y ở xa đang đau yếu, y bèn yêu cầu đạo sĩ làm cách nào cho y nhận được tin tức của người cha. Vị đạo sĩ bằng ḷng, bèn bảo y viết thư cho cha để hỏi thăm tin tức. Khi người thanh niên viết xong thư, và trao cho vị đạo sĩ, người này liền để bức thư ấy dưới cái gối dựa lưng của ông ta. Độ một lát, vị đạo sĩ tḥ tay dưới gối cũng ở ngay chỗ ấy, lấy ra một bức thư trả lời do chính bàn tay của người cha viết và niêm phong bằng con dấu riêng của ông ấy. Cũng do lời yêu cầu của người thanh niên, vị đạo sĩ mời những quan khách có mặt lúc ấy dùng cà phê. Khi dọn ra th́ cà  phê được đựng trong những chén nhỏ loại đặc biệt của cha y thường dùng hằng ngày, ở một làng hẻo lánh cách đó rất xa.

       Một buổi tối nọ, bà HPB cũng đă làm một việc giống y như thế. Lúc ấy, tôi đang muốn thỉnh ư một vị Chân Sư về một vấn đề. Bà bảo tôi viết những ǵ tôi muốn hỏi, bỏ vào một bao thư dán kín, và để bao thư ấy ở một chỗ mà tôi có thể nh́n thấy. Điều này c̣n cao tay ấn hơn thủ thuật của vị đạo sĩ Ai Cập, v́ ông này đă dấu bức thư dưới cái gối, mà người thanh niên kia không nh́n thấy được. Tôi bèn để bức thư lên cái kệ phía trên ḷ sưởi, ở đằng sau cái đồng hồ, một nửa bao thư ló ra ngoài để cho tôi nh́n thấy. Bà HPB và tôi tiếp tục nói chuyện về nhiều vấn đề trong khoảng chừng một tiếng đồng hồ, kế đó bà nói rằng thư trả lời cho tôi đă đến. Tôi bèn lấy cái bao thư trên kệ, nhận thấy cái bao vẫn dán kín và niêm khằng c̣n y nguyên, trong đó là bức thư của tôi viết lúc năy, kèm theo là thư trả lời của Chân Sư với tuồng chữ quen thuộc của ngài, bức thư này viết trên một tờ giấy màu xanh kiểu lạ, loại giấy này theo chỗ tôi biết, không hề có ở trong nhà. Lúc ấy chúng tôi đang ở New York, c̣n Chân Sư ở tận bên Á Châu. Hiện tượng này thuộc về một loại mà tôi nh́n nhận rằng không thể nào có sự giả trá, phỉnh lừa.

       Một buổi tối, vào mùa thu năm 1876, bà HPB và tôi đang ngồi đối  bàn về vấn đề xuất vía,xuất hồn. Hồi đó, v́ chưa quen thuộc với những danh từ chuyên môn, nên sự giải thích của bà về những vấn đề khoa học không được rơ ràng, chính xác lắm, và tôi nhận thấy rất khó hiểu. Sau cùng, bà lấy thí dụ của Stainton Moses, người bạn của chúng tôi lúc ấy đang luyện phép xuất hồn bằng cách dùng sức mạnh của ư chí. Bà đề nghị sẽ chỉ cho tôi thấy trong một bức ảnh kết quả công phu tu luyện của S.M., và liền bắt tay vào việc. Bà dứng dậy kéo trong một hộc tủ, lấy ra một cuộn vải satin trắng, đặt trên bàn và cắt lấy một khoảnh bằng độ một trang giấy. Kế đó, bà cất cuộn vải vào chỗ cũ, và ngồi lại bàn. Bà đặt mảnh vải satin bề mặt úp xuống bàn, lấy một tờ giấy thấm c̣n nguyên vẹn phủ lên trên, và chống khuỷu tay lên đó, trong khi đó bà vấn một điếu thuốc lá, và bật diêm quẹt hút thuốc. Độ một lát bà yêu cầu tôi đem cho bà một ly nước. Tôi tỏ ư sẵn ḷng, nhưng c̣n đưa ra một câu hỏi để bà trả lời và để làm tŕ hoăn thời giờ, trong khi đó, tôi vẫn chăm chú nh́n miếng vải satin ló ra dưới tờ giấy thấm. Thấy tôi vẫn đứng yên một chỗ, bà hỏi tại sao tôi không lấy cho bà ly nước lạnh, mà c̣n đợi ǵ nữa? Tôi nói:

      “Tôi c̣n đợi xem bà sắp làm ǵ với miếng vải satin đó”.

     Bà nh́n tôi với cái nh́n trách móc, dường như bà thấy rằng tôi c̣n nghi nan, không trọn tin để bà ngồi một ḿnh với miếng vải satin. Kế đó, bà để hai tay xuống tờ giấy thấm và nói:

     “Tôi sẽ có ngay, ngay bây giờ!”

      Nói xong, bà lấy tờ giấy thấm ra, và lật miếng vải satin lên, bà đưa cho tôi.

      Bạn đọc hăy thử tưởng tượng sự ngạc nhiên của tôi! Trên bề mặt miếng vải, tôi thấy một bức ảnh màu thật là độc đáo, phi thường. Đó là một bức chân dung rất khéo của Stainton Moses, gương mặt rất giống như bức h́nh chụp của y đang treo trên tường.Từ trên đỉnh  đầu, túa ra những tia dáng như lửa có ánh vàng, ở những nơi bí huyệt tim và rốn, cũng xẹt ra những tia lửa đỏ vàng giống như vậy, ví như những hỏa diệm sơn phun lửa. Phần đầu và ngực bao phủ trong một hào quang giống như đám mây trôi màu xanh dương. Rải rác lấm tấm những vệt nhỏ màu vàng ánh. C̣n phần dưới thân ḿnh bao phủ cũng những đám mây trôi màu hồng và xám đục, tức là những hào quang có tính chất nặng trược, thấp kém hơn phần trên.

      Hồi đó, tôi chưa biết ǵ về những luân xa (chakrams), hay bí huyệt trong cơ thể con người, được đề cập đến trong kinh yoga shastras của Ấn Độ, một vấn đề quen thuộc đối với các môn đệ của Đạo Sư Patanjali. Bởi vậy, tôi không hiểu ư nghĩa của hai con trốt xoáy bốc lửa trên chỗ tim và rốn; nhưng về sau khi tôi đă hiểu biết về vấn đề này, th́ bức ảnh trên Satin này càng tăng giá trị đối với tôi, v́ nó chỉ rằng nhà huyền học nào tạo ra nó hẳn đă biết rằng trong phép Xuất Vía ra khỏi xác thân, hành giả phải tập trung ư chí của ḿnh lần lượt nơi các luân xa hay bí huyệt, và sự tách rời thể Vía được hoàn thành với sự luân phiên thức động mỗi luân xa theo thứ tự trước sau.

      Theo chỗ tôi hiểu, th́ Stainton Moses đă làm cuộc thí nghiệm này như một cuộc khảo sát t́m hiểu thuộc về lư trí hơn là một phép tu luyện tâm linh, v́ phần hào quang trên đầu y có h́nh dáng rơ rệt c̣n những phần khác trong thể Vía của y hăy c̣n trong trạng thái lu mờ, hỗn độn, chứ chưa ổn định để tượng h́nh một cách rơ ràng. Những đám mây màu xanh dương chỉ tính chất tịnh khiết chứ không có sự long lanh chói rạng như cái hào quang của một người tiến bộ tâm linh, thường được diễn tả như chiếu sáng rạng ngời như ánh bạc. Tuy nhiên những điểm nhỏ màu vàng ánh xuất hiện rải rác trên màu xanh dương là những điểm linh quang của tinh thần, biểu lộ những hoài băo tâm linh; c̣n những đám mây mờ màu hồng và xám của hào quang ở phần dưới thân ḿnh biểu lộ tính chất nặng nề ô trọc thuộc về phần thú tính của con người. Màu xám này càng trở nên đục ngầu u tối và xám xịt khi phần thú tính của con người phát triển trội hơn phần trí tuệ, tinh thần và tâm linh, c̣n trong những người hoàn toàn tội lỗi sa đọa, trụy lạc đến cực điểm, th́ theo nhận xét của những vị có thần nhăn, nó trở nên sậm đen như mực….

        Dưới đây là một trường hợp phóng ảnh khác nữa do bà HPB thực hiện. Sau bữa ăn, chúng tôi bước qua pḥng khách và câu chuyện xoay qua vấn đề phóng bút, phóng ảnh. Một người khách yêu cầu bà HPB phóng ảnh cho chúng tôi xem. Bà hỏi vị ấy muốn có ảnh của ai, người khách đáp rằng y muốn có bức ảnh của một người Yogi, người này là một vị đạo sĩ Ấn Độ mà chúng tôi biết tên, và được các Chân Sư rất kính nể. Bà HPB bước lại bàn giấy của tôi, lấy một tờ giấy xé làm hai phần, và giữ lấy một phần rồi để nó xuống mặt bàn có lót một tờ giấy thấm. Kế đó, bà lấy con dao gọt lấy một ít bụi viết ch́ để trên tờ giấy, rồi lấy tay xoa theo h́nh tṛn trên mặt giấy độ chừng một phút, xong rồi bà đưa kết quả cho chúng tôi xem. Trên tờ giấy là bức chân dung mong ước của người khách, ngoài ra tính cách phóng ảnh kỳ diệu, nó c̣n là một tác phẩm mỹ thuật rất thần t́nh. Nhà chân dung họa sĩ Mỹ nổi tiếng là Họa Sĩ Le Clear tuyên bố rằng bức ảnh này thật là độc đáo, với một nghệ thuật siêu đẳng mà không một họa sĩ nào trong giới quen biết của y có thể sáng tác….Người Yogi được tŕnh bày trong cơn đại định (samâdhi), cái đầu hơi nghiêng về một bên, đôi mắt không nh́n ra ngoại cảnh mà gom vào nội tâm, toàn thân dường như không c̣n tri giác, mà linh hồn đă phiêu diêu ở cơi giới xa xăm nào…

      Người Yogi này tên là Tiravala, vốn là một triết gia rất được quư trọng ở Mylapore, một làng ở ngoại thành Madras, và là vị bảo trợ tinh thần của những người cùng đinh, hạ tiện, thuộc giai cấp “bất khả tiếp xúc” (Pariah).Về vấn đề ông ta có c̣n ở trong xác thân hay không, tôi không thể biết chắc, nhưng theo lời bà HPB thường nói về ông ta, th́ tôi đoán rằng ông ta c̣n sống. Tuy nhiên, điều này có vẻ khó tin đối với tất cả mọi người, trừ ra đối với người Ấn Độ, v́ người ta nói rằng nhà Yogi này đă từng viết ra bộ Kinh “Kural” bất hủ của ông cách đây độ chừng một ngàn năm! Ở miền Nam Ấn, ông ta được coi như một trong những vị đạo sĩ đă phát huệ và đắc pháp thần thông, và cùng với mười bảy vị đạo sĩ đắc Đạo khác hiện đang c̣n sống trên các vùng núi Tirupati và Nilgiri với sứ mạng bảo trợ, chăm sóc về phần tâm linh cho Ấn Độ Giáo. Tuy mai danh ẩn tích, các vị ấy vẫn trợ giúp bằng quyền năng ư chí mạnh mẽ của ḿnh, những nhà tu sĩ chân chính và những người phụng sự vị tha v́ t́nh thương nhân loại. Ước mong ân huệ của các vị đến với chúng tôi!

      Khi tôi nhớ lại việc cũ để viết tập “Hồi Kư” này, tôi ghi nhận là trên đầu vị đạo sĩ không thấy có vẽ một hào quang tâm linh, tuy rằng những giai thoại do bà HPB kể lại về nhà đạo sĩ đă xác nhận quan niệm của những người Ấn Độ ái mộ ông rằng nhà Yogi này là một vị chân tu có tŕnh độ tâm linh cao cả và đạo hạnh rất tinh thâm. Điều ghi nhận trên cũng áp dụng cho bức chân dung đầu tiên của Chân Sư, do họa sĩ Harrisse vẽ tại New York, trong đó cũng không thấy có hào quang. Ít nhất trong trường hợp này, tôi có thể chứng minh là bức ảnh rất giống như thật, cũng như những người khác đă từng có diễm phúc nh́n thấy ngài. Từ lâu, tôi vẫn mong ước có một bức ảnh của Sư Phụ tôi để treo trong gian pḥng và để chiêm ngưỡng nếu tôi không có diễm phúc được hội kiến với ngài trong kiếp này. Bởi vậy, tôi đă yêu cầu bà HPB phóng họa cho tôi một bức ảnh của Chân Sư và bà hứa sẽ làm khi có dịp thuận tiện. Trong trường hợp này, bà không được phép trực tiếp phóng ảnh cho tôi, mà một phương pháp giản dị hơn và rất lư thú được áp dụng: một người họa sĩ thường không phải là đồng tử hay đạo sinh Huyền Môn, được yêu cầu họa bức chân dung của ngài cho tôi mà y không biết y đang làm ǵ. Đó là một họa sĩ tài tử, ông Harrisse, một người Pháp và là bạn của chúng tôi.

       Một buổi tối, khi chúng tôi đang đàm luận, câu chuyện xoay qua vấn đề Ấn Độ và ḷng dũng cảm của dân miền Rajput, bà HPB th́ thầm nói nhỏ với tôi rằng bà sẽ yêu cầu nhà họa sĩ này vẽ chân dung của Sư Phụ chúng tôi nếu tôi có thể cung ứng vật liệu. Trong nhà không có sẵn đồ họa cụ, tôi mới đi đến một tiệm tạp hóa gần bên và mua một tờ giấy loại đặc biệt cùng với vài cây viết ch́ đen và trắng. Người chủ tiệm gói chung các món lại thành một gói đưa cho tôi qua quầy hàng, tôi trả y một đồng tiền trị giá là một nửa đô la (năm mươi xu) và bước ra. Khi về tới nhà, tôi vừa mở gói ra, th́ có hai đồng tiền, mỗi đồng là hai mươi lăm xu từ trong gói rơi xuống sàn gạch! Thật rơ ràng là Chân Sư cố ư tặng cho tôi bức chân dung của ngài mà tôi khỏi phải tốn tiền.

      Khi đó, bà HPB yêu cầu họa sĩ Harrisse hăy vẽ diện mạo của một vị tù trưởng Ấn Độ, tùy theo quan niệm của y. Người họa sĩ nói y không h́nh dung được trong trí là phải vẽ như thế nào, và muốn đổi qua một đề tài khác. Nhưng thấy tôi cứ khăng khăng một mực đ̣i hỏi, y mới vẽ thử một đầu người Ấn Độ. Bà HPB ra dấu cho tôi hăy ngồi yên ở phía bên kia gian pḥng, c̣n bà đến ngồi gần bên người họa sĩ và lẳng lặng hút thuốc lá. Thỉnh thoảng, bà rón rén đi đến sau lưng người họa sĩ dường như để xem y làm việc, nhưng vẫn im lặng không nói ǵ cho đến độ một giờ sau, khi bức họa đă vẽ xong.

      Tôi cám ơn nhà họa sĩ khi nhận bức chân dung, đem lộng vào khuôn và treo trong buồng ngủ của tôi. Nhưng một việc lạ lùng đă xảy ra. Khi bức họa c̣n ở trước mặt họa công, sau khi chúng tôi ngắm nh́n lần cuối cùng và khi bà HPB cầm lấy để đưa cho tôi, th́ chữ kư bằng ám hiệu của Chân Sư đột nhiên hiện trên bức ảnh. Đó là một cách biểu thị sự có mặt và bút tích của ngài trên bức họa, và điều này càng làm tăng thêm giá trị món quà quư báu mà ngài tặng cho tôi. Nhưng hồi đó, tôi không biết là nó có giống Sư Phụ tôi hay không, v́ tôi chưa từng nh́n thấy ngài bao giờ. Về sau, khi tôi được gặp ngài, tôi mới nhận thấy rằng bức họa ấy thật giống, và hơn nữa tôi c̣n được ngài tặng cho cái khăn vấn đầu của ngài mà nhà họa sĩ tài tử đă vẽ trong bức họa.

      Đây quả là một trường hợp chuyển di tư tưởng, do đó cái h́nh ảnh của một người vắng mặt được chuyển di đến tâm thức trí năo của một người hoàn toàn xa lạ. Cái h́nh ảnh đó đi xuyên qua tư tưởng của bà HPB hay không? Tôi nghĩ rằng có. Tuy nhiên, với sự khác biệt này, là trí nhớ của bà HPB cung ứng bức chân dung cần được chuyển đi qua trí óc của ông Harrisse, và nhờ bởi khả năng thần thông điêu luyện, bà đă chuyển di trực tiếp mà không cần qua một vật trung gian, tức là không cần phải vẽ trước cái h́nh kiểu mẫu trên một tấm b́a, để cho bà h́nh dung sẵn trong trí rồi mới chuyển qua bộ óc của nhà họa sĩ.

 

CHƯƠNG MƯỜI BA

 

XUẤT HỒN, XUẤT VÍA

 

       Tất cả những lư thuyết và suy luận về tính chất lưỡng thể của con người, tức là nói rằng y có một Thể Vía ngoài ra cái Thể Xác vật chất hữu h́nh, đương nhiên làm cho người ta đ̣i hỏi phải có một bằng chứng trước khi đưa vấn đề đi xa hơn. Đối với những đầu óc duy vật, đó là một vấn đề vượt ngoài sự thường t́nh và khó tin đến nỗi nó hầu như bị gạt phăng đi như một việc hăo huyền, thay v́ được tạm chấp nhận như một giả thuyết để c̣n khảo sát lại.

      Thật vậy, đó là thái độ của nhà bác học trung b́nh, và khi một nhà khảo cứu can đảm hơn người b́nh thường khẳng định điều đó như sự tin tưởng của y, th́ y bị coi như thiếu sự dè dặt, thận trọng của nhà bác học chân chính, chưa kể đến việc y có thể bị làm tṛ cười như một kẻ chủ trương một lư thuyết bấp bênh, mơ hồ. Tuy nhiên, có nhiều tác phẩm rơ ràng chính xác như của D’Assier và của những tác giả khác đă được công bố vào những thời kỳ khác nhau, và tŕnh bày những sự kiện vững chắc không thể chối căi, dẫu rằng khó tin đến đâu. Vấn đề này hiện nay đă được chứng minh trên một quy mô rộng lớn bởi sự sưu tập hằng ngh́n những hiện tượng đă được quan sát kỹ lưỡng thuộc về loại này; và nay dường như đă đến lúc mà nhà siêu h́nh học nào không biết đến những sự kiện đó không thể được coi như một bậc Thầy đáng tin cậy của nhân loại.

      Tuy vậy, mặc dù bao nhiêu những bằng chứng dồn dập kể trên có thể làm thỏa măn lư trí, nhưng sự thật về Thể Vía và khả năng tách rời của nó ra khỏi Thể Xác con người chỉ có thể biết được bằng một trong hai cách: hoặc nh́n thấy Thể Vía của một người khác, hoặc tự ḿnh Xuất Vía và ngắm nh́n cái Thể Xác của ḿnh một cách khách quan. Với một trong hai loại kinh nghiệm đó, người ta mới có thể nói rằng ḿnh BIẾT. và khi có đủ hết cả hai, th́ sự hiểu biết ấy mới thật là tuyệt đối và không thể lay chuyển. Tôi có đủ cả hai loại kinh nghiệm trên. Tôi có thể làm nhân chứng, và chứng minh sự thật để giúp đỡ cho sự hiểu biết của các bạn đồng môn của tôi.

      Tôi chỉ kể sơ qua những trường hợp mà tôi đă nh́n thấy bà HPB trong thể vía trên một đường phố ở New York, trong khi cái xác phàm của bà ở tại Philadelphia. Tôi cũng nh́n thấy một người bạn khác trong trường hợp tương tự (trong Thể Vía ở New York) trong khi y đang hoạt động trong xác phàm nơi một tiểu bang dưới miền Nam, ở cách đó nhiều trăm dặm. Những lần khác, tôi nh́n thấy trong một chuyến xe lửa và trên một chiếc tàu ở Mỹ, một vị Chân Sư mà thật sự lúc ấy ngài đang ở trong xác phàm ở tận bên Châu Á. Có lần ở tại Jummu tôi nhận được một bức điện tín của bà HPB gửi cho tôi từ Madras, và do một vị Chân Sư đích thân cầm đưa cho tôi. Khi đó ngài ngụy trang trong bộ y phục của một thư tín viên sở Bưu Điện tỉnh Kashmir, và một lúc sau đó ngài đột nhiên biến mất dạng dưới ánh trăng rằm khi tôi bước ra cửa để theo dơi động tác của ngài. Một lần nữa, trên cầu Worli ở Bombay tôi được gặp một vị Chân Sư khác vào một buổi chiều nóng bức khi bà HPB, bạn Damodar và tôi đang ngồi trên xe ngựa trên bờ biển để hóng gió mát. Khi đó, tôi thấy ngài từ đằng xa đi về phía chúng tôi, ngài đến gần một bên chiếc xe, đặt bàn tay ngài trên bàn tay bà HPB, rồi quay lưng bước đi và th́nh ĺnh biến mất khỏi tầm mắt chúng tôi giữa con đường lót đá, chung quanh không hề có một gốc cây, bụi rậm, hay một chướng ngại vật nào có thể làm chỗ ẩn núp hoặc có thể che khuất h́nh dáng của ngài.

      Tôi xin thông qua những sự việc kể trên và những kinh nghiệm khác nữa, để bắt đầu kể một chuyện quan trọng xảy ra, nó đă có những ảnh hưởng quyết định đối với cuộc đời tôi. Chuyện này đă được kể lại ở nơi khác, nhưng nó cần được nhắc lại ở đây, v́ nó là một trong những nguyên nhân chính đă làm cho tôi từ bỏ cuộc đời thế gian để t́m thấy quê hương tinh thần của tôi bên xứ Ấn Độ. Bởi đó, nó cũng là một trong những yếu tố chính của việc xây dựng nên Hội Thông Thiên Học Thế Giới.

      Tôi không nói rằng nếu không có xảy ra việc này, th́ tôi đă không đi sang Ấn Độ, v́ trong thâm tâm tôi đă muốn sang đó từ lâu, kể từ khi tôi được biết về ảnh hưởng tinh thần của Ấn Độ đối với thế giới, và triển vọng tâm linh của xứ ấy trong tương lai. Một niềm mong ước cuồng nhiệt không thể dập tắt đă chiếm lấy tôi và thúc đẩy tôi đi đến giải đất lành của các Chân Sư và các vị Phật, tức là nơi Thánh Địa của mọi mối liên hệ nó trói buộc tôi với Mỹ Quốc, và do đó tôi đă có thể đ́nh chỉ mọi kế hoạch cho đến khi có “dịp thuận tiện”, nó thường không bao giờ đến đối với người diên tŕ do dự và chờ đợi thời cơ.

       Tuy nhiên, sự việc nói trên đă giải quyết định mệnh của tôi. Trong khoảnh khắc, mọi sự nghi ngờ đều tiêu tan như mây khói, cái viễn ảnh xuất hiện rơ ràng đă chỉ đường cho tôi, và trước khi trời rựng sáng sau một đêm không ngủ, tôi bắt đầu thảo kế hoạch và thu xếp mọi việc. Việc ấy xảy ra như sau: Công việc soạn bộ “Vén màn isis” đêm hôm ấy đă xong, tôi chúc bà HPB ngủ yên giấc và lui về pḥng riêng. Tôi đóng cửa cẩn thận như thường lệ và c̣n ngồi xem sách đến khuya; quyển sách tôi xem, nếu tôi c̣n nhớ rơ, là quyển “Du lịch xứ Yucatan” của Stephens. Dầu sao, đó không phải là sách nói về chuyện Liêu Trai, hay loại sách có tác dụng khêu gợi sự tưởng tượng của độc giả cho y nh́n thấy ma quái hiện h́nh.

      Tôi đang chăm chú đọc sách trong bầu không khí im lặng. Không có việc ǵ xảy ra lúc ban chiều làm cho tôi nghĩ đến việc nh́n thấy một vị Chân Sư trong Thể Vía; tôi không có mong muốn việc ấy, hoặc tưởng tượng đến nó, cũng không hề có ư trông đợi chút nào cho việc ấy xảy ra.

      Th́nh ĺnh, trong khi tôi vẫn đang nh́n vào quyển sách, tôi chợt thoáng thấy một ánh sáng nơi khóe mắt bên mặt của tôi. Tôi day đầu  lại và làm rơi quyển sách trong sự ngạc nhiên khi tôi nh́n thấy đứng sừng sững giữa pḥng,một người Đông Phương h́nh dung cao lớn, ḿnh mặc áo rộng trắng, đầu bịt một cái khăn bằng lụa trắng có sọc màu vàng lợt. Một mái tóc dài và đen huyền tḥng xuống dưới chiếc khăn chấm đến hai vai, một cḥm râu đen chẻ hai ở phía dưới cằm theo kiểu Raijput. Đôi mắt ngài linh động và sáng ngời, cái nh́n của đôi mắt đó vừa hiền lành vừa như soi thấu tâm hồn tôi. Đó vừa là đôi mắt nghiêm nghị của một người dẫn đạo và một vị quan toà nhưng lại thoảng một nét dịu hiền và t́nh thương của một người cha nh́n đứa con đang cần sự hướng dẫn và khuyên bảo. Ngài có một phong độ hùng tráng oai nghi, toàn thân ngài toát ra một sức sống tâm linh cao cả và một mănh lực huyền bí phi thường, nó làm cho tôi cảm thấy mất b́nh tĩnh trước mặt ngài, tôi vừa cúi đầu vừa quỳ xuống đất đảnh lễ một cách tự nhiên như người ta chiêm bái một vị thần thánh hay một đấng Thiêng Liêng cao cả.

     Ngài đặt nhẹ một bàn tay trên đầu tôi, một giọng nói vừa êm dịu vừa hùng tráng bảo tôi hăy ngồi dậy, và khi tôi ngẩng mặt nh́n lên, th́ ngài đă ngồi an tọa trên một chiếc ghế ở bên kia bàn. Ngài nói rằng ngài đến đây trong khi tôi đang gặp cơn khủng hoảng và cần đến ngài; rằng những việc làm của tôi đă đưa tôi đến điểm đó; rằng tôi có trọn quyền tự do quyết định việc ngài với tôi sẽ thường gặp nhau trong kiếp hiện tại để cùng hợp tác chung v́ sự lợi ích cho nhân loại; rằng một công tŕnh lớn lao vĩ đại sẽ phải được thực hiện cho nhân loại, và tôi có quyền tham dự vào công việc đó nếu tôi muốn; rằng một sợi dây nhân duyên huyền bí, mà ngài không thể giải thích cho tôi biết ngay lúc này, đă làm cho bà HPB và tôi gặp gỡ và hợp tác chặt chẽ với nhau trong kiếp này, một sợi dây nhân duyên vô cùng bền chặt không thể nào cắt đứt, dẫu cho một đôi khi nó bị căng thẳng đến mức độ nào.

      Ngài nói cho tôi biết nhiều điều về bà HPB mà tôi không tiện nói ra đây, cùng những chuyện có liên hệ đến riêng tôi, nhưng không can dự ǵ đến người khác. Ngài ngồi đó đă bao lâu, tôi cũng không thể nói được: có thể là nửa giờ hoặc một giờ; nhưng xem dường như chỉ có một phút, trước mặt ngài, tôi đă mất cả ư thức về thời gian.

     Sau cùng, ngài đứng dậy; tôi c̣n đang ngạc nhiên về dáng vóc cao lớn lạ thường và chiêm ngưỡng cái phong độ huy hoàng cao cả của ngài. Th́nh ĺnh, một tư tưởng thoáng qua trong trí tôi:” Phải chăng đây chỉ là một ảo ảnh, hay một cơn nắng quáng đèn ḷa do bà HPB dùng thuật thôi miên để đánh lừa tôi? Tôi ước mong rằng tôi nắm được một vật cụ thể nào đó để chứng tỏ rằng ngài đă thật sự đến đây, một vật mà tôi có thể cầm trên tay làm bằng chứng sau khi ngài đă đi rồi!”

     Chân Sư mỉm cười một cách khoan dung, dường như ngài đă đọc được tư tưởng của tôi. Ngài bèn tháo gỡ chiếc khăn bịt trên đầu để lên bàn, chào từ giă tôi một cách dịu dàng khả ái và liền… biến mất!

     Chiếc ghế bành của ngài ngồi lúc năy đă trống trơn, bỏ tôi ngồi lại một ḿnh với những cảm xúc của tôi! Tuy vậy, tôi không phải chỉ có một ḿnh, v́ bên cạnh tôi là chiếc khăn lụa mà Chân Sư vừa để lại trên bàn, một bằng chứng cụ thể và chắc nịch rằng tôi không phải đă bị ảo ảnh hay thôi miên, mà tôi đă gặp gỡ tận mặt một trong những bậc Anh Cả của Nhân Loại, một vị Chân Sư cao cả của hàng ngũ nhân loại c̣n thấp kém và vô minh như chúng ta.

    Cái phản ứng tự nhiên trước hết của tôi là chạy qua đập cửa pḥng bà HPB và thuật cho bà nghe cái kinh nghiệm huyền diệu của tôi. Bà rất lấy làm vui mừng mà nghe câu chuyện cũng như tôi đă rất sung sướng mà thuật lại.

      Tôi trở về pḥng ngồi suy nghĩ triền miên và thức luôn tới sáng. Đêm đó tôi đă suy nghĩ rất nhiều và có những quyết định quan trọng. Những tư tưởng và quyết định của tôi trong đêm đó đă đưa tôi đến những hoạt động Thông Thiên Học suốt đời tôi về sau này, với một ḷng chân thành với các đấng Chân Sư đă nâng đỡ phong trào Thông Thiên Học với những bàn tay vô h́nh, một ḷng trung kiên như sắt đá mà những sự va chạm phũ phàng và thất vọng đắng cay, đau khổ nhất cũng không bao giờ làm lung lạc được.

     Từ khi đó về sau, tôi đă có diễm phúc được hội ngộ nhiều lần với đấng Chân sư trên và những vị Chân Sư khác nữa. Nhưng thật không ích ǵ mà lập lại những kinh nghiệm khác về loại này, tôi chỉ nêu câu chuyện trên đây như một thí dụ điển h́nh thôi cũng đủ. Những người  khác kém may mắn hơn tôi có thể nghi ngờ chuyện này ra sao cũng được, nhưng thật sự là tôi đă …BIẾT.

      Với lư tưởng thành thật trong mọi chuyện, tôi phải kể lại một sự nghi ngờ về lời khai của tôi như một nhân chứng của hiện tượng kể trên. Hồi năm 1884, tôi được mời làm nhân chứng trước một phiên họp Ủy Ban Đặc Biệt của hội Khảo Cứu Tâm Linh (Society for Psychical Research) tại Luân Đôn, và đă thuật lại câu chuyện trên trong số những sự việc khác. Một nhân viên của Ủy Ban, trong cuộc thẩm vấn, đă đưa ra câu hỏi: làm sao tôi có thể chắc rằng bà HPB đă không sử dụng một người Ấn Độ cao lớn nào đó để chơi cái tṛ đùa đó đối với tôi, c̣n những chi tiết có vẻ huyền bí khác th́ biết đâu óc tưởng tượng mộng mơ của tôi đă chẳng làm cho tôi tưởng rằng sự thật! Khi đó tôi có cảm giác chán ngấy về sự nghi ngờ độc ác của họ đối với bà HPB, và sự tránh né có vẻ hèn nhát, thiếu tinh thần danh dự của họ đối với những sự kiện tâm linh hiển nhiên không thể chối căi, khi họ núp dưới bức màn che dấu của một thái độ khôn ngoan sắc sảo giả tạo. Tôi bèn trả lời mau chóng, giữa những lư luận khác, rằng cho đến khi đó tôi chưa hề thấy một người Ấn Độ bao giờ trong đời tôi!

 

II

 

      Bây giờ, tôi xin nói về những kinh nghiệm bản thân của tôi trong vấn đề Xuất Vía. Trước hết, tôi có lời cảnh giác các bạn sơ cơ trên đường Đạo: khả năng Xuất Vía ra ngoài Thể Xác không nhất thiết phải là cái bằng chứng của sự phát triển tâm linh. Phần đông, những kẻ mới chập chững bước vào đường Đạo có lẽ đă nghĩ trái lại, nhưng họ đă lầm. Một bằng chứng đầu tiên và đầy đủ là sự Xuất Vía rất thường xảy ra với những người nam và nữ không hề có thời giờ để khảo cứu về khoa Huyền Môn, không có tu luyện theo pháp môn Yoga nào, cũng không hề thử tập phép Xuất Vía và thường sợ hăi hay xấu hổ và bất b́nh khi bị cho là tập luyện phép ấy. Họ cũng không có chút ǵ trội hơn những người thường về sự tịnh khiết trong tư tưởng và trong đời sống hằng ngày, về lư tưởng tâm linh, hay về những khả năng tinh thần, mà thường là trái ngược hẳn lại.

     Một mặt khác, những sử liệu của khoa Hắc Thuật (Bàn Môn Tả Đạo) có dẫy đầy những trường hợp Xuất Vía hữu h́nh hay vô h́nh bởi những kẻ sa đọa, tội lỗi dùng phép thuật ấy để hăm hại người khác; những trường hợp Phân Thân, ám ảnh những nạn nhân thù địch, biến h́nh thành chó sói, và những ma thuật tà đạo khác.

    Ngoài ra, c̣n có đến hằng ngh́n trường hợp Xuất Vía bởi những người thuộc đủ mọi thành phần và đủ mọi hạng, thường là những loại người bất hảo, nếu không là sa đọa, đă được Hội Khảo Cứu Tâm Linh (S.P.R.) xem xét kỹ lưỡng và ghi nhận vào hồ sơ tài liệu của họ, và hằng ngh́n những trường hợp khác nữa chưa được ghi vào sổ. Tất cả những sự việc kể trên kết hợp lại đă chứng minh cho lời cảnh giác của tôi rằng khả năng Xuất Vía của một người, dù hữu thức hay vô thức, không phải là một bằng chứng chỉ rằng người ấy tốt lành hơn, khôn ngoan hơn, tiến bộ tâm linh hơn, hay có đủ tư cách làm một bậc Đạo Sư hơn mọi người thường. Nó chỉ là một dấu hiệu chỉ rằng đương sự hoặc do bẩm sinh hoặc do công phu cố gắng, đă làm tách rời Thể Vía ra khỏi cái vỏ xác thịt của nó, và như vậy, đă làm cho nó xuất ra và trở về dễ dàng, khi mà Thể Xác của y không gây chướng ngại, trong giấc ngủ tự nhiên hay trong giấc ngủ thôi miên. Về vấn đề này, độc giả sẽ nhớ lại bức họa phóng ảnh trên tấm vải lụa “satin” mô tả những trạng thái tâm linh qua Thể Vía của Stainston Moses, mà bà HPB đă thực hiện trước đây.

     V́ lư do nào đó, tôi không hề có th́ giờ tu luyện theo pháp môn Yoga từ khi tôi bắt đầu hoạt động thực tế trong phong trào Thông Thiên Học. Dường như không bao giờ tôi nghĩ đến việc ḿnh có thể sở đắc phép thuật thần thông hay không, tôi không hề mong ước làm một vị đạo sư, cũng không màng đến việc tôi có thể đạt tới sự Giải Thoát hay không trong kiếp này. Đối với tôi, phụng sự nhân loại là pháp môn cao quư nhất, và nếu tôi có thể làm một ít việc nhỏ nhoi khiêm tốn nào để truyền bá Đạo Lư và làm giảm thiểu sự vô minh, th́ đó cũng là một phần thưởng hậu hĩ của tôi. Trong những thuở ban đầu của Hội Thông Thiên Học, không bao giờ thoáng qua trong đầu óc tôi cài ư nghĩ rằng tôi có thể luyện ḿnh để trở thành một nhà linh thị hay một người có phép thuật thần thông, một đạo gia hay một nhà huyền học. Tôi vẫn tiếp tục làm việc theo sự chỉ thị của Chân Sư, ngài dạy tôi rằng con đường tốt nhất để t́m các ngài là xuyên qua Hội Thông Thiên Học. Đó có lẽ là một môi trường hoạt đông khiêm tốn, nhưng thích hợp với khả năng hữu hạn của tôi, một việc làm đầy hứng thú và đồng thời cũng rất hữu ích.

     Bởi vậy, khi tôi kể những chuyện Xuất Vía của tôi, đừng ai nghĩ rằng tôi có ư phô trương sự phát triển tâm linh giả tưởng của ḿnh, hay tự hào về sự khôn ngoan của ḿnh như một nhà thông linh lỗi lạc. Sự thật là, theo tôi nghĩ, tôi được trợ giúp cho có cái khả năng đó, cùng với nhiều kinh nghiệm huyền linh khác, để làm cái nền tảng huấn luyện cần thiết cho một người được giao phó cái công tác đặc biệt như của tôi.

     Dưới đây là một trường hợp:

    Một đêm nọ, sau khi bà HPB và tôi đă viết xong một Chương của bộ sách “Vén màn Isis”, và khi chia tay để lui về pḥng riêng nghỉ ngơi, chúng tôi xếp chồng giấy bản thảo lên một cái khay gỗ, trang đầu ở trên hết và trang cuối ở dưới đáy. Sau khi đă ai về pḥng nấy, chúng tôi mỗi người đều khóa cửa buồng riêng của ḿnh trước khi đi ngủ để đề pḥng kẻ trộm. Trong khi thay đồ để mặc quần áo ngủ, tôi mới nghĩ rằng nếu tôi thêm ba chữ nữa vào câu cuối cùng của đoạn chót, th́ ư nghĩa của đoạn văn ấy sẽ được tăng thêm cường độ và trở nên súc tích hơn.

     Sợ rằng nếu để đến sáng ngày mai tôi có thể quên đi việc ấy, tôi mới có ư nghĩ bông đùa là tôi hăy thử Xuất Vía đi xuống pḥng ăn ở tầng dưới và viết thêm ba chữ nữa bằng cái Thể Vía của tôi. Tôi chưa từng di chuyển bằng Thể Vía một cách ư thức như vậy bao giờ, nhưng tôi biết phương pháp thực hiện điều đó, tức là tập trung ư muốn Xuất Vía một cách mănh liệt trong trí trước khi ngủ, và tôi bèn làm như vậy. Tôi không biết ǵ nữa cho đến sáng hôm sau, khi đă thay y phục và ăn điểm tâm xong, tôi mới ngừng trước cửa pḥng bà HPB ở tầng dưới để chào hỏi bà một câu trước khi ra đi đến văn pḥng Luật của tôi. Bà nói:

    “Ơ ḱa! Ông hăy nói cho tôi biết ông đă làm ǵ ở đây đêm qua sau khi ông đă đi ngủ?.

    Tôi đáp:

    “Làm ǵ à? Bà muốn nói chi?

   Bà nói tiếp:

       “Tôi đang nằm trên giường c̣n chưa ngủ, th́ bỗng nhiên tôi nh́n thấy Thể Vía của ông Đại Tá vọt ra xuyên qua vách tường! Coi ông có vẻ buồn ngủ và đờ đẫn nữa đấy! Tôi có hỏi chuyện ông, nhưng ông không trả lời. Kế đó ông bước qua buồng viết, tôi nghe tiếng động của ông lục lạo trong đống giấy tờ, rồi thế là hết. Ông làm ǵ vậy?”

      Khi đó, tôi mới cho bà biết sự thí nghiệm của tôi. Chúng tôi bèn đi qua buồng bên kia, lật chồng giấy bản thảo xem lại, th́ thấy nơi trang cuối cùng, ở câu chót của đoạn kết luận, có hai trong số ba chữ định thêm vào được viết bằng tuồng chữ của tôi, và chữ thứ ba chỉ mới bắt đầu nhưng viết chưa hết: khả năng tập trung tư tưởng dường như đă kiệt quệ, và chữ ấy chỉ viết được có nửa phần đầu, c̣n nửa phần sau chỉ là một vết nguệch ngoạc! Tôi đă sử dụng cây bút ch́ như thế nào, tôi có cầm nó trên tay không, và làm sao tôi viết được mà không cầm lấy cây viết, tôi cũng không thể nói được. Có lẽ chỉ một lần đó tôi đă phóng bút với sự trợ giúp của một trong những tinh linh có hảo ư của bà HPB, bằng cách sử dụng những nguyên tử ch́ trong ruột những cây bút ch́ để trên bàn cùng với xấp giấy bản thảo. Dù sao, đó cũng là một kinh nghiệm hữu ích cho tôi.

     Độc giả hăy ghi nhận sự kiện này là sự phóng bút bằng phương pháp huyền linh của tôi bị gián đoạn ở một điểm mà, do sự thiếu kinh nghiệm, tôi đă để cho ư chí của tôi lo ra và tách rời ra khỏi cái việc đang làm. Tập trung ư chí cho vững chắc không thể lay chuyển là điều cần thiết để thành công trong những hiện tượng thuộc loại này, cũng như trong mọi việc khác trên b́nh diện trí năng thông thường.

     Trong một bài tường thuật nhan đề “Hiện tượng phóng ảnh” của tôi đăng trên tạp chí “Theosophist tháng 7 năm 1888, tôi có giải thích mối tương quan ảnh hưởng giữa sự tập trung ư chí đă được huấn luyện thành thục, và tính chất lâu bền của những tác phẩm phóng bút, phóng ảnh, cùng những tác phẩm tương tự khác do việc sử dụng  lư thú và gợi ư về vấn đề Xuất Vía và phóng bút mà ông Wilkie Collins đă diễn tả trong quyển “Hai Định Mệnh”. Đó là một quyển sách đáng đọc bởi mọi sinh viên Huyền Môn cũng như cuốn Zanoni, Một Chuyện Lạ Lùng, hay Chủng Tộc Tương Lai.

     Tuy nhiên, dù có đọc sách và học hỏi kinh nghiệm của người khác nhiều đến bao nhiêu về các vấn đề này cũng không thể so sánh với một kinh nghiệm bản thân dù nhỏ bé như chuyện của tôi đă kể trên, bởi v́ nó làm cho người ta nhận thức được sự thật của định luật Tư Tưởng sáng tạo H́nh Thể, định luật này vẫn tác động luôn luôn trong Vũ Trụ Càn Khôn. Kinh Upanishad của Ấn Độ có đoạn viết: “Phạm Thiên (Brahma) muốn: Ta hăy sinh sôi nảy nở, Ta hăy biến thành thiên h́nh vạn trạng. Ta hăy tăng trưởng…Rối ngài đắm ch́m trong cơn suy tư trầm lặng…Sau khi ngài đă suy tư, ngài bèn phóng xuất ra muôn ngh́n sắc tướng, muôn loài vạn vật trên thế gian. Sau khi đă phóng xuất ra mọi h́nh thể sắc tướng, ngài bèn thể nhập vào mỗi h́nh sắc, mỗi sinh vật…”

      Đoạn kinh ấy có ư nghĩa rất sâu xa đối với tôi. Ư nghĩa của nó c̣n vô cùng sâu hơn thật hơn, gợi ư hơn đối với người nào đă có tự ḿnh suy tư, rồi sáng tạo nên một h́nh thể, hơn là đối với những người chỉ có đọc chữ trên những trang sách, mà không cảm nhận được sự thật vang dội từ chỗ thầm kín sâu thẳm bên trong tâm hồn.

 

III

 

       Tôi c̣n nhớ một trường hợp Xuất Vía khác của tôi, nó giải thích một định luật gọi là”Luật Phản Dội”.Độc giả có thể t́m thấy rất nhiều tài liệu dồi dào phong phú về vấn đề này trong các sách vở nói về khoa Phù Thủy và Phương Thuật. Danh từ “Phản Dội” (Repercussion) ở đây có nghĩa là tác động phản dội lại trên thể xác của những cú đấm, vết đâm chém hay những vết thương khác gây ra trên Thể Vía trong khi nó được phóng xuất ra ngoài và di chuyển như là một thực thể cá biệt. C̣n danh từ Phân Thân có nghĩa là sự xuất hiện của một người ở hai chỗ cùng một lúc; ở một chỗ là cái Thể Xác, c̣n Thể Vía đồng thời xuất hiện ở một nơi khác.

      Trong quyển “Humanité posthume”, ông D’Assier có đề cập đến cả hai vấn đề này. Nói về việc gây thương tích cho các nạn nhân do các nhà phù thủy xuất vía để tác hại cho họ, tác giả viết:

     “Bà phù thủy xuất vía đi vào nhà của một người mà bà có việc muốn trả thù, và khuấy phá y bằng đủ mọi cách. Nếu người này cương quyết tự vệ, và nếu y có sẵn một thứ khí giới nào đó, y có thể chém vài nhát vào cái bóng ma. Khi bà phù thủy tái hồi nhập xác và trở lại trạng thái b́nh thường, bà ta sẽ thấy xuất hiện trên Thể Xác ḿnh những vết thương mà bà đă nhận được trong cơn xung đột bằng Thể Vía với người kia”.

     Những văn khố lưu trữ của Sở Tư Pháp Anh có ghi nhận trường hợp mụ phù thủy Jane Brooks xuất vía đến khuấy phá một đứa trẻ tên Richard Jones một cách rất độc ác. Trong một dịp nọ, đứa trẻ la lên rằng bóng vía của mụ Jane đang có mặt trong nhà, và đưa ngón tay lên như chỉ vào cái bóng ấy. Lúc ấy một nhân chứng có mặt, tên Gilson, bèn phóng tới chỗ ấy và cầm dao chém đùa vào khoảng không tuy rằng y không nh́n thấy ǵ, mà cái bóng ma ấy chỉ có đứa trẻ nh́n thấy. Ngay lập tức, Gilson cùng với người cha đứa trẻ và một người cảnh binh đi đến nhà mụ Jane, và thấy mụ ấy đang ngồi trên ghế, một bàn tay nâng đỡ lấy cái bàn tay kia. Trước sự thẩm vấn, mụ ấy nói không có ǵ xảy ra, nhưng khi người ta kéo tay y ra, th́ thấy cái bàn tay kia có dính đầy máu, và bị một vết chém y như đứa trẻ đă nh́n thấy lưỡi dao của Gilson chém vào bàn tay của cái bóng ma.

     Rất nhiều trường hợp tương tự đă được ghi nhận, tất cả đều chứng tỏ rằng một vết thương gây trên Thể Vía đă phóng xuất ra ngoài, sẽ phản dội lại trên cái Thể Xác ở ngay chỗ bị thương. Dưới đây là kinh nghiệm cá nhân của tôi.

      Trong pḥng làm việc của chúng tôi tại “Lạt Ma Viện”, bên cạnh ḷ sưởi, có treo trên tường một cái đồng hồ lớn mà tôi có thói quen lên giây mỗi đêm trước khi đi ngủ. Một buổi sáng nọ, sau khi rửa mặt, tôi nh́n vào tấm kiếng th́ thấy mắt bên phải bầm đen và tím lại, dường như tôi vừa bị một cú đấm vào mắt. Tôi không biết lư do tại sao, và càng ngạc nhiên hơn khi thấy rằng chỗ bị thương lại không đau nhức chi cả. Tôi cố nhớ lại xem việc ǵ đă xảy ra để t́m nguyên nhân của sự việc ấy, nhưng vẫn vô hiệu. Trong buồng ngủ của tôi, không có cột đứng, góc cạnh tường, hay chướng ngại vật nào có thể làm cho tôi va đầu vào để nhận lấy vết thương, nếu giả thiết rằng tôi đă đi trong giấc ngủ, nhưng thật ra tôi lại không có cái chứng tật đó. Lại nữa, một sự va chạm khá mạnh để làm cho mắt tôi bầm đen như vậy, đương nhiên là phải làm cho tôi thức giấc ngay tức khắc trong lúc đó, nhưng trái lại, như thường lệ tôi đă ngủ thẳng giấc suốt đêm cho tới sáng.

     Thế là tôi vẫn tiếp tục hoang mang, cho đến lúc tôi ngồi lại bàn ăn điểm tâm cùng với bà HPB và một bà bạn của bà đă đến chơi từ hôm qua và ngủ lại trên giường bà HPB đêm ấy. Bà bạn này đă đem lại cái đáp số cho điều bí hiểm kia. Bà ấy nói, khi bà nh́n thấy con mắt bầm tím của tôi:

    “À, ông Đại Tá, chắc ông đă đụng nhằm vật ǵ đêm qua khi ông xuống đây để lên giây cái đồng hồ!”

     Tôi đáp:

    “Lên giây đồng hồ? Bà muốn nói ǵ vậy? Phải chăng bà đă khóa cửa pḥng cẩn thận khi tôi đi lên buồng của tôi?”

    Bà ấy nói:

    “Phải, chính tôi đă đích thân khóa cửa; nhưng làm sao ông có thể xuống đây? Tuy vậy, bà HPB và tôi đều nh́n thấy ông đi xuyên qua vách tường và cửa buồng chúng tôi qua pḥng bên kia, và nghe tiếng động của ông lên giây đồng hồ. Tôi gọi ông, nhưng ông không trả lời, và tôi không thấy ǵ nữa”.

     Khi ấy tôi mới nghĩ rằng nếu tôi đă đi vào pḥng viết bằng Thể Vía và lên giây đồng hồ, th́ có hai việc tất nhiên phải xảy ra:

a)   Cái đồng hồ đă được lên giây đêm qua và không chết;

b)   Từ cửa pḥng đến chỗ ḷ sưởi bên cạnh đồng hồ, chắc phải có một chướng ngại vật nào đó đă chạm vào mắt tôi.

 Chúng tôi xem xét qua một lượt và nhận thấy rằng:

1)   Cái đồng hồ vẫn c̣n chạy, dường như nó đă được lên giây vào đúng giờ như mọi khi.

2)   Gần cánh cửa pḥng có một kệ sách nhỏ đóng vào tường, một góc kệ nhô ra ngoài, chiều cao vừa tầm con mắt tôi để cho tôi có thể đụng vào nếu tôi sơ ư.

 Kế đó, tôi mới nhớ mang máng rằng tôi đă đi từ phía bên kia pḥng đến gần cánh cửa, với bàn tay mặt đưa thẳng ra trước dường như để ḍ đường trong đêm tối, th́nh ĺnh tôi đụng đầu vào một vật ǵ làm cho tôi “tá hỏa tam tinh”, “nh́n thấy ba mươi sáu ngôi sao sáng” như người ta thường nói, rồi kế đó th́…tôi không c̣n nhớ ǵ nữa cho đến sáng.

   Đó là một điều rất lạ lùng; v́ một cái chạm mạnh trên đầu đáng lẽ phải làm cho một người thức giấc trong trường hợp b́nh thường, nhưng khi nó chạm vào Thể Vía đă xuất ra, th́ do hiện tượng Phản Dội, nó để lại dấu vết rơ ràng trên Thể Xác mà không làm cho tôi thức giấc. Trường hợp này c̣n có những khía cạnh lư thú khác nữa. Nó chỉ rằng, với những điều kiện thuận lợi để cho Thể Vía rút lui ra khỏi Thể Xác một cách nhẹ nhàng êm thấm, th́ sự Xuất Vía có thể xảy ra dưới sự thúc đẩy của một ư định cố hữu, chẳng hạn như một thói quen làm một việc ǵ mỗi ngày vào một giờ nhất định. C̣n nếu gặp những điều kiện không thuận lợi cho sự Xuất Vía, mà bị đặt dưới một loạt những điều kiện khác hẳn, th́ đương sự sẽ trở nên một người “thụy du”, y sẽ đứng dậy trong giấc ngủ, rồi đi làm những việc ǵ c̣n lởn vởn trong trí y lúc đó, và trở về giường ngủ say mê li b́ mà không nhớ rơ việc ǵ đă xảy ra.

     Một trong những kinh nghiệm lư thú nhất của tôi, là gặp những người chưa hề quen biết bao giờ ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới, họ quả quyết rằng đă nh́n thấy tôi ở những nơi công cộng, rằng tôi đă đến viếng họ bằng Thể Vía, đôi khi đă nói chuyện với họ về những vấn đề Huyền Môn, hoặc đă chữa họ khỏi bịnh, thậm chí cũng có khi cùng đi với họ lên cơi Trung Giới để viếng các đấng Chân Sư; nhưng tôi không nhớ được ǵ cả về những sự việc này. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ kỹ, th́ điều ấy cũng không lạ ǵ, xét v́ một người mà trọn cuộc đời, và mỗi tư tưởng, nguyện vọng, ước mơ khi thức tỉnh trong đời sống hằng ngày đều có liên quan mật thiết đến một phong trào tâm linh vĩ đại như của chúng tôi, người ấy không có ước muốn nào khác hơn là sự thành công của nó, không có tham vọng nào khác hơn là thúc đẩy nó tiến tới mục đích tối hậu đă vạch sẵn, một người như thế đương nhiên là phải chuyển di đời sống nội tâm hữu thức của ḿnh sang qua cơi vô thức tiềm ẩn trong giấc ngủ, và tiêu diêu phưởng phất theo những luồng sóng điện của chất Tinh Quang để quy tựu với những linh hồn cùng đồng thanh khí, theo luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.

 

CHƯƠNG MƯỜI BỐN

 

MỘT ĐỊNH LUẬT HUYỀN BÍ

 

      Ít lâu trước khi chúng tôi rời khỏi New York, một buổi tối bà HPB và tôi cùng đi ra phố để mua sắm vài món đồ cần dùng cho bà. Những phẩm vật mua sắm trị giá đến năm mươi đô la, và v́ lúc ấy bà không có tiền, nên tôi trả tiền thay cho bà và nhận biên lai. Bận về khi chúng tôi sắp bước vào nhà, bà nắm lấy bàn tay tôi, nhét vào đó vài tờ giấy bạc và nói:

     “Đó là năm mươi đô la của ông!”

      Tôi nói lập lại rằng bà không có tiền riêng, và không có người khách nào đến nhà trước khi đó mà bà có thể mượn tiền. Khi chúng tôi từ nhà ra đi, bà cũng không biết rằng bà sẽ mua những gí, và sẽ phải tiêu xài bao nhiêu tiền.

     Tiền luôn luôn đến với bà khi bà cần dùng, và khi nào đó là một sự nhu cầu chính đáng.

     Có lần tôi được yêu cầu đi đến một thành phố nọ để làm một vài công việc rất quan trọng cho các Chân Sư. Tôi phỏng định rằng làm công việc đó phải mất đến ít nhất là một hay hai tháng, và v́ tôi là người đài thọ mọi khoản tiền chi phí của Hội Quán, cùng những khoản chi tiêu lớn khác nữa, tôi mới nói với bà HPB rằng thật t́nh tôi không thể rời khỏi New York. Bà nói:

     “Được rồi, ông hăy làm ǵ ông nghĩ là đúng. Ông chưa phải là một đệ tử đă tuyên thệ, và các Chân Sư không có quyền bắt ông phải gián đoạn công việc làm ăn thuộc về nghề nghiệp của ông”.

     Tuy vậy,tôi không thể chịu đựng nổi cái ư nghĩ từ chối bất cứ một việc nhỏ nhặt nào khi các Chân Sư cần dùng đến tôi, và tuy tôi không thấy rơ làm sao tôi có đủ huê lợi để đài thọ mọi thứ nhu cầu khi tôi vắng mặt, rốt cuộc tôi vẫn nói rằng tôi sẽ đi với bất cứ giá nào. Bà HPB hỏi tôi sẽ bị thiệt hại mất bao nhiêu nếu tôi đi, tôi mới trả lời rằng nếu tính với cái giá thấp nhất, th́ tôi sẽ mất không dưới năm trăm đô la mỗi tháng.

     Thế rồi tôi đi, và chỉ trở về hai tháng sau đó. Khi tôi đến nhà Ngân Hàng để xem trong trương mục của tôi c̣n bao nhiêu tiền, th́ tôi lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà nghe nói rằng tôi có đến một ngàn đô la trội hơn số tiền mà tôi đă kư thác! Hay là người giữ sổ đă lầm? Không, quả thật đúng như vậy. Khi đó tôi mới hỏi y có nhớ rơ h́nh dáng của người đến gửi tiền vào trương mục của tôi không, mà gửi đến hai lần, mỗi lần năm trăm đô la. Cũng may mà y c̣n nhớ, bởi v́ người đến gửi tiền có một h́nh dáng lạ kỳ: đó là một người phương Đông, h́nh dung rất cao lớn, có những lọn tóc đen và dài phủ đến tận vai, đôi mắt đen rất tinh anh như soi thấu ḷng người, ḿnh mặc áo rộng trắng, nước da màu nâu sậm. Cũng một người ấy đến luôn hai lần, chỉ đưa tiền và yêu cầu bỏ vào trương mục của tôi. Người ấy không có quyển sổ ngân hàng của tôi, và yêu cầu người nhân viên hăy điền vào những mẫu giấy in sẵn để làm thủ tục gửi tiền, v́ người “không biết Anh Ngữ”.

     Khi chúng tôi qua Ấn Độ, bà HPB luôn luôn nhận được tiền trong những lúc nhu cầu cấp bách. Khi vừa đổ bộ xuống Bombay, chúng tôi chỉ vừa có đủ tiền để trang trải những nhu cầu thiết yếu thường nhận trong nhà khoảng độ vài tháng, đừng nói chi những việc mua sắm những đồ xa xí phẩm.Tuy vậy, chúng tôi cũng đă đi lên tỉnh Punjab cùng với hai người bạn Ấn Độ trong một chuyến hành tŕnh đáng ghi nhớ, mà bà HPB đă viết thành một chuyện du kư nhan đề: “Non Cao Rừng Thẳm Của Ấn Độ Huyền Bí”, và đă chi tiêu hết độ chừng hai ngàn Ru-pi mà vẫn không sao cả.

      Những nhu cầu thiết yếu của chúng tôi luôn luôn được đáp ứng, cơm gạo, thực phẩm không bao giờ khô cạn, bởi v́ đă có các Chân Sư cung ứng cho chúng tôi khi chúng tôi làm công việc của các ngài. Khi tôi hỏi làm sao có thể như vậy, v́ các Chân Sư là những vị sống ngoài ṿng tục lụy của thế giới tiền bạc vật chất, th́ bà HPB cho tôi biết rằng các ngài là những đấng giữ ǵn, bảo quản bao nhiêu những kho tàng, hầm mỏ báu vật và của cải chôn dấu mà, tùy theo cái Nghiệp Quả dính liền với chúng, có thể sử dụng v́ lợi ích của nhân loại qua nhiều đường lối khác nhau. Tuy nhiên, có vài thứ kho tàng của cải đó bị ô nhiễm bởi một thứ hào quang sắt máu, tội lỗi, đến nỗi nếu được đào xới lên để đem ra sử dụng trước khi những nghiệp quả báo ứng đă được thanh toán xong, th́ chúng lại nuôi dưỡng thêm những tôi lỗi sát phạt mới nữa và làm cho những nỗi khổ đau của nhân loại càng tăng thêm.

      Một mặt khác, Nghiệp Quả của một vài người khiến cho họ sẽ phát hiện, dường như do sự ngẫu nhiên tính cờ, những hũ vàng, bạc hay bảo vật chôn dấu; hoặc tạo nên của cải tiền bạc dễ dàng bằng con đường kinh doanh sự nghiệp. Những Nghiệp Quả báo ứng đó được thực hiện qua sự trung gian của những tinh linh của loài kim thạch, mà theo sự tin tưởng của người phương Đông, những người được ân sủng của Thần Tài có liên hệ mật thiết do ảnh hưởng của “hành Kim” ngự trị trong khí chất của họ.

      Nói tóm lại, những người thuộc loại kể trên dường như hay gặp may mắn lạ lùng về phương diện tiền tài, làm cho họ “mó vào đâu là hóa ra vàng đến đó”; dù cho họ có thể ngu dại đến đâu trong các vấn đề thế sự, sự may mắn vẫn luôn luôn đi kèm với họ không lúc nào rời.

     Cũng y như thế, những người có khí chất trội hẳn về “hành Thủy”, sẽ có khuynh hướng hoạt động trên mặt nước và sống cuộc đời phiêu lưu trên sông hồ; họ rất thích thú với nghề thủy thủ và sẽ theo đuổi nghề nghiệp ấy đến cùng, bất chấp mọi nỗi gian nguy hay đau khổ.

     Người nào có sự tương quan thích hợp với những tinh linh của Không Khi1trong bản chất tự nhiên của họ, lúc nhỏ thường hay thích trèo cao, leo cây hay leo nóc nhà; và khi lớn lên, họ sẽ thích leo núi, ngồi trên khinh cầu, lái máy bay, hoặc theo đuổi những nghề nghiệp ǵ làm cho họ tách rời khỏi mặt đất. Bà HPB có kể cho tôi nghe nhiều chuyện để giải thích cái nguyên tắc đó, và đời người có vô số những trường hợp lạ lùng khó hiểu, chỉ có thể giải thích được bằng định luật tương quan về khí chất với các chủng loại Tinh Linh Ngũ Hành như đă nói ở trên.

     C̣n nói về Hội Thông Thiên Học, tôi có thể nói rằng trong khi bà HPB và tôi không ai được phép tiêu xài hoang phí, nhưng chúng tôi không bao giờ bị để cho phải khổ sở thiếu thốn về những nhu cầu cần thiết cho đời sống và cho công việc làm của ḿnh. Đă có biết bao nhiêu lần chúng tôi bị cạn tiền, triển vọng về tài chánh vô cùng bấp bênh và chàn nản đến mức làm xuống tinh thần, nhưng rốt cuộc tôi luôn luôn nhận được vào giờ chót, từ phía này hay phía khác, những món tiền để trang trải mọi chi phí cần thiết, và công việc của chúng tôi không hề bị ngưng trệ một ngày nào v́ lư do thiếu phương tiện để xúc tiến các hoạt động của Hội.

      Người đệ tử của Chân Sư thường không đủ tư cách xét đoán xem lúc nào là cần thiết hay không để cho y nhận được tiền khi y thừa hành lệnh trên để hoàn thành công tác. Khi bà HPB được lệnh đi từ Paris sang New York hồi năm 1873, không bao lâu bà đă bị túng quẩn, thiếu thốn đến cùng cực, và đă phải nấu lại xác cà phê cũ để uống lại nhiều lần v́ không có tiền mua cà phê mới; và v́ sinh kế bà đă phải làm nghề may thuê vá mướn cho một lăo chủ tiệm tạp hóa. Bà không hề nhận được những món quà bất ngờ, và không đá nhằm một bị bạc ở dưới chân giường khi bà thức giấc! Đó là v́ thời giờ chưa đến.

      Tuy nhiên, mặc dù sống trong cơn túng thiếu, ít lâu sau khi đến New York, bà đă cất dưới đáy rương một số tiền lớn (độ chừng hai mươi ba ngàn quan) mà Sư Phụ bà giao cho bà cất giữ, để c̣n chờ lịnh. Sau cùng, bà được lịnh đi đến Buffalo. Thành phố này ở đâu, và đi đến đó bằng cách nào, bà cũng không biết ǵ cả, cho đến khi bà hỏi:

       “Con phải làm ǵ ở Buffalo?”

      Ngài đáp:

      “Không cần biết: hăy cứ đem số tiền kia theo.”

     Khi đến nơi, bà được lịnh hăy kêu một chiếc xe ngựa rồi đi đến một địa chỉ, và đưa số tiền ấy cho một người nào đó. Bà sẽ không cần giải thích ǵ cả, mà chỉ lấy biên nhận rồi ra đi. Bà làm theo lời dặn: người kia có ở tại địa chỉ nói trên, và đang ở trong một t́nh trạng bi đát. Y đang viết một lá thư từ biệt cho gia đ́nh, với một khẩu súng lắp đạn để trên bàn, và sẽ tự bắn vào đầu trong ṿng nửa giờ nếu không có bà HPB đến giải cứu!

      Sau đó bà có kể cho tôi biết rằng đó là một người rất cao quư, tốt lành nhưng đă bị lừa gạt mất hai mươi ba ngàn quan, và v́ những biến cố sắp xảy ra như một hậu quả (những biến cố có tầm mức quan trọng cho thế giơi), nên y cần được phục hồi lại số tiền đă mất trong một cơn khủng hoảng đặc biệt, và bà HPB là người được chỉ định làm cái công tác cứu trợ đó.

      Khi chúng tôi gặp nhau, bà đă hoàn toàn quên mất tên họ và địa chỉ của nhười kia. Đây là một trường hợp mà người được chọn làm sứ giả đem tiền cho người thụ hưởng lại là bà HPB trong cơn quẫn bách cùng cực, nhưng không được phép tiêu xài một quan tiền nào trong số tiền được giao phó cho bà cất giữ, để mua lấy cho ḿnh một gói cà phê!

      Tôi c̣n nhớ một trường hợp khác nữa mà bà HPB được chỉ định để “ban phát ân huệ của Thần Tài”, nói theo ngôn ngữ b́nh dân. Cũng may mà người thụ hưởng đă ghi lại câu chuyện này trên giấy trắng mực đen.

      Dường như trong một buổi họp của vài nhà Thần Linh Học danh tiếng ở Boston, có người nói chuyện tờ tạp chí Spiritual Scientist có thể ngưng xuất bản v́ thiếu sự bảo trợ tài chánh. Ông Charles Foster, một nhà đồng tử trứ danh đang có mặt lúc ấy, mới phát ngôn trong trạng thái nhập đồng, và tuyên bố quả quyết rằng sự thất bại ấy chỉ là một vấn đề thời gian. Thật vậy, cơn khủng hoảng tài chánh quả thật đang hăm dọa sự sống c̣n của tờ tạp chí, v́ vị chủ nhiệm tờ báo là ông Gerry Bown sắp phải trả một khoản tiền lớn, mà ông lại không có đủ phương tiện để thanh toán. Những sự kiện trên đă được công bố trong tờ tạp chí cùng với mẩu chuyện đối thoại dưới đây mà tôi có cắt để dành:

       “vài ngày trước đây, vị Giám Đốc tờ Spiritual Scientist nhận được giấy báo đến nhận tiền tại Sở Bưu Điện do một bưu phiếu điện tín gửi cho ông. Ông đi đến nơi và trải qua cái kinh nghiệm sau đây:

      Địa điểm: Sở Bưu Điện.

     Thời gian: Giữa trưa. Ngồi bên trái là nhân viên Sở Bưu Điện. Từ cửa bên mặt, bước vào một người đưa ra cái giấy báo nhận tiền.

     Người thư kư: Ông có trông đợi tiền của ai gửi không?

    Người lănh tiền: Đó là tên họ và địa chỉ của tôi trên giấy báo, mà Sở Bưu Điện đă gởi đến cho tôi. Tuy nhiên, tôi cũng không biết người gửi tiền cho tôi là ai.

    Người thư kư: Ông có quen biết người nào tên Sir Henry de Morgan không?

    Người kia(miệng cười toang hoác): À, tôi có nghe nói đó là vong hồn của một nhà hiệp sĩ đă sống cách đây trên hai trăm năm mươi năm, người ấy chăm sóc đặc biệt đến cuộc sống tiện nghi của tôi. Tôi sẵn ḷng kư tên nhận tiền.

     Người thư kư (bật ngửa người và đổi giọng): Ông có quen biết ai ở đây có thể xác nhận căn cước của ông không?

    Người kia: Có.

     Đến đây, một nhân viên Sở Bưu Điện được gọi đến để nhận diện người kia và y được trả tiền ṣng phẳng.

     Một giờ sau đó, một bức điện tín được gửi đến với lời lẽ như sau:

      “Tôi đóng góp số tiền X… đô la để trả khoản chi phí phải thanh toán vào ngày 19 tháng 6, và thách thức ông Charles Foster thực hiện lời tiên tri của ông ta. Yêu cầu lời thách thức này được công bố. Hăy đến Sở Bưu Điện mà lănh tiền và gửi điện tín cho biết đă nhận.

        Sir Henry de Morgan”

      Số tiền ấy được gửi đến từ một thành phố cách đây rất xa. Theo lời yêu cầu của người gửi, chúng tôi đă công bố bức điện văn trên. Chúng tôi không có ư kiến ǵ về việc này. Chúng tôi đă đưa bức điện văn cho nhiều nhà Thần Linh Học tên tuổi xem và một người trong bọn họ đưa ư kiến rằng có lẽ một người nào trong giới đồng tử đă đùa ghẹo chúng tôi. À, ra thế đấy! Chúng tôi sẵn ḷng muốn bị ghẹo đùa càng nhiều lần càng hay, bao lâu mà có người muốn đùa ghẹo chúng tôi bằng cách đó!”

       Lẽ tất nhiên, “thành phố cách xa” đó là Philadelphia, và người gửi là bà HPB, v́, như đă nói trước đây, chúng tôi muốn giúp đỡ vị Chủ Nhiệm tờ tạp chí ấy vượt qua một cơn khủng hoảng tài chánh. Tôi hoàn toàn biết rơ t́nh h́nh tài chánh của bà HPB lúc ấy, và tôi biết chắc chắn rằng bà không có khả năng gửi tiền bạc, dù số lớn hay số nhỏ, cho bất cứ một người nào. Bà hẳn là đă nhận được tiền, cũng như bà đă nhận được để mua sắm phẩm vật ở New York, và để chi tiêu trong chuyến du hành ở Ấn Độ, tức là của Quần Tiên Hội. Tên Henry de Morgan trong bức điện tín tức là John King, một vong linh khuất mặt của bà HPB dùng để sai vặt và để làm các hiện tượng.

  Hết



[1] Nhà ái quốc Ư đấu tranh cho sự thống nhất của Ư Đại Lợi (1807 – 1882) chống sự phân chia nước ư, do nước Áo, Pháp, và Ṭa Thánh La Mă chủ trương.

[2]  Một làng gần La Mă, nơi nghĩa quân Ư của Garabaldi bị quân đội của liên minh Pháp và Ṭa Thánh La Mă đánh bại. Bà Blavastsky bị thương nặng trong trận này khi bà được 37 tuổi (LDG).

[3] Cả hai loại trên đều được gọi chung là âm binh (Lời dịch giả)

[4] Isis Unveiled: Isis là tên vị Nữ Thần Ai Cập, Tượng trưng sự Minh Triết Thiêng Liêng. Tựa sách ngụ ư là: Vén Màn Bí Mật của Thiên Cơ

[5]  Các  bạn    thân  hữu  đều  thân  mật  gọi    bằng  cái  tên  ghép  HPB.  Trong  sách  này  tác  giả  cũng  gọi  như  thế  luôn  cho  tiện.

[6]   Giúp  Denis  Papin  t́m  ra  năng  lực  của  hơi  nước  để  phát  minh  ra  máy  tầu  thủy. (Lời  Dịch  Giả).

[7]   Bản  dịch  việt  ngữ  nhan  đề “tây  phương  huyền  bí”.  Nhà  xuất  bản  Xuân  Thu  USA  ấn  hành  1993.

[8]  (*) ISIS  UNVILED: Bộ  sách  đầu  tiên  của    HPB, đă  được  trích  dịch  một  vài  đoạn  nhan  đề “Thiên  Nhiên  Huyền  Bí".

[9]   Với  Chân    bên  xứ  Tây  Tạng.

[10] Hamsa: danh từ ẩn dụ của Huyền Học Ấn Độ, ngụ ư Tinh Thần hay Tiểu Linh Quang. Huyền thoại Ấn Độ cho rằng con hạc có khả năng gạn lọc sữa với nước, ngụ ư Tinh Thần con người vốn Toàn Năng, biết phân biệt Thực Hư, Chân Giả.

 

[11] (*) Các nhà Đông Phương học ưu tú nhất đều coi bộ sách này như một ngụy thư thời cổ. Tôi chú thích sách ấy ở đây chỉ với ư định diễn tả phương pháp nhập xác mà thôi.

[12] (*)  Mật hiệu của Tập Đoàn Tiên Thánh phân bộ Á Châu.

[13] (*)  Trụ sở Hội Thông Thiên Học đặt tại tư gia của hai nhà Sáng Lập tại 302 West 47 St, New York Citi, Tiểu bang New York, Hoa Kỳ.

[14] (*) Một nguyên tử không phải là một đơn vị thuần nhất, mà là một hợp tố của chất liệu không gian do tác động của điện khí tạo nên.

 

HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  BOOKS  MAGAZINES