HOME sách   TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH  thIỀN HỌC  BÀI VỞ   THƠ  ẢNH TẾT 2006 ENGLISH BOOKS MAGAZINES 

 

CÙNG AI ĐAU KHỔ

À CEUX QUI SOUFFRENT

 Tác giả: AIMÉE BLECH

“Hăy để ḷng lắng nghe mọi tiếng kêu than, tựa như đóa sen nọ phơi trần ḷng nhụy uống ánh sáng ban mai.

“Bạn hăy đừng để một giọt lệ nào bốc khô dưới ánh nắng cháy, trước khi bạn chưa tự ḿnh chặm ráo những khóe mắt ưu phiền.

“Bạn hăy để nước mắt nóng hổi của thế gian rơi lên tim bạn và đọng lại đó. Và, bạn đừng chặm nó, trước khi niềm đau gây ra nó chưa phai mờ.”

H.P. BLAVATSKY
(Tiếng nói vô thinh)

CÙNG AI ĐAU KHỔ  

mục lục đầu sách cuối sách

GIỚI HẠN

NHỮNG NỖI KHỔ

VẤN ĐỀ ĐAU KHỔ

THÔNG THIÊN HỌC VÀ TÔN GIÁO

TIẾN HÓA VÀ LUÂN HỒI

THƯỢNG ĐẾ ẨN TÀNG

LỢI ÍCH CỦA ĐAU KHỔ

VẤN ĐỀ THIỆN ÁC

SỰ B̀NH ĐẲNG VÀ T̀NH HUYNH ĐỆ

LUẬT HY SINH

LUẬT NHƠN QUẢ

VÀI BIỆN BÁC VỀ LUẬT NHÂN QUẢ

NHỚ LẠI TIỀN KIẾP

SỰ CẦU NGUYỆN

VAI TR̉ CỦA TƯ TƯỞNG

SỰ CHẾT

 

SỰ CẤU TẠO HUYỀN BÍ CON NGƯỜI

CƠI TRUNG GIỚI

THẦN LINH HỌC

NHỮNG ĐẤNG CỨU TRỢ VÔ H̀NH

ĐỪNG BUỒN RẦU

T̀NH XƯA NGHĨA CŨ

CƠI THIÊN ĐÀNG

HẠNH PHÚC CÓ PHẢI LÀ ẢO GIÁC

HAI CON ĐƯỜNG

ĐỨC KY TÔ

TÔN GIÁO ĐẠI ĐỒNG

CUỘC HÀNH HƯƠNG ĐAU KHỔ VÀ CON ĐƯỜNG THỬ THÁCH

CÁC ĐẤNG CHƠN SƯ

B̀NH AN CHO NHỮNG TÂM HỒN ĐAU KHỔ

 

 

Hỡi quư bạn, quư anh chị đang đau khổ, dầu quư bạn bị thử thách và đau khổ như thế nào, tôi, một linh hồn đau khổ, cũng xin gởi đến quư bạn những trang giấy nầy, với niềm hoài vọng nồng nàn làm vơi bớt nỗi ưu tư của quư bạn, và làm lóe lên một tia sáng vỗ về trong chuỗi ngày hắc ám của quư bạn.

GIỚI HẠN
mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Tuy nhiên tôi phải đặt một giới hạn. Trong quư bạn có những người xem thường, hoặc không cần những lời của chúng tôi, v́ các bạn ấy được hộ tŕ bởi tôn giáo hay đức tin dũng mănh của ḿnh. Những người nầy được an ủi dưới chơn Thập Tự Giá, hay dưới một biểu tượng tôn giáo khác. Đối với các bạn ấy, tôi chỉ biết nói: “Các bạn nên trung kiên với những điều bạn tin tưởng, nếu bạn tin một cách chân thành; các bạn hăy trung kiên với niềm tin ấy nếu nó đủ sức đem lại bạn sự an tĩnh. Như thế, tôi không có ǵ để hiến thêm cho quư bạn.

Ở đây, tôi chỉ ngỏ lời với những ai không có tôn giáo hay đă rời bỏ tôn giáo ḿnh, với những người hoài nghi đă dần dần hay đột ngột mất cả đức tin, hoặc với những ai, tuy tin tưởng nhưng ḷng tin không đủ sức giúp họ chịu đựng các nỗi bất công ở đời.

Với các bạn ấy, trong quyển sách nhỏ nầy, tôi cố giải thích sự đau khổ, nguồn gốc và mục đích của nó để t́m phương thuốc chữa trị. Trong khoa học linh hồn, trong sự minh triết thiêng liêng mà chúng tôi gọi là Thông Thiên Học, tôi c̣n ở bước đầu và chỉ có thể nêu ra một vài chỉ dẫn nghèo nàn. Ước vọng thúc giục tôi là giúp đỡ một vài huynh đệ. Nếu tôi không thành công, quư bạn nên qui lỗi ở tôi, ở sự dốt nát của tôi và xin chớ trách Thông Thiên Học.

NHỮNG NỖI KHỔ
mục lục đầu sách cuối sách chú thích

 Hỡi các bạn đau khổ, các bạn đừng quên, không phải chỉ có một ḿnh bạn khổ. Chung quanh bạn c̣n có biết bao người đau khổ. Bạn nên nghĩ đến họ và an ủi họ, chớ đừng giam nhốt ḿnh trong nỗi khổ riêng biệt một cách ích kỷ và vô bổ. Đau khổ há không phải là số phận chung của nhơn loại hay sao ? Chúng ta gặp đau khổ trên mỗi bước đi, khi th́ thầm lặng, kín đáo, khi th́ bộc lộ bằng những lời oán than tuyệt vọng. Trong các đô thị, nếu lắng nghe, bạn sẽ nhận ra vô số đau khổ vật chất và tinh thần. Ôi ! nhơn loại khổ nàn và bạc phước làm sao ! Nhưng đồng thời cũng vinh quang cho nhơn loại làm sao ! Là v́, các đau khổ của nhơn loại là những niềm đau khổ sinh sôi; là v́: nhơn loại đang sáng tạo Đấng Siêu Linh ! (Theo Giáo lư Minh triết Cổ truyền th́: Toàn thể nhơn loại đều lần theo một con đường Tiến Hóa Vĩ Đại. Và như Đức Thích Ca đă nói: Chúng sinh đang thành Phật, tức là thành Đấng Giác Ngộ, trọn lành).

Đây cũng chưa đúng lúc để tôi đề cập đến mục đích của sự khổ. V́ trước khi đề cập đến toàn diện vấn đề, tưởng chúng ta cũng nên biết qua ít niềm đau khổ riêng rẽ trên thế gian nầy.

 *
     *   *

Hỡi bạn, anh của tôi, bạn rất nghèo khó túng cùng. Đă từ bao lâu rồi, bạn phải lâm cảnh khốn cùng: không nhà, không cửa, bữa đói bữa no. Bạn phải tủi cực vô cùng, chịu đựng một cuộc sống thật là bấp bênh ! Ngày nào cũng thế, bạn sống ngày lại ngày trong lo âu phiền muộn. Tương lai bạn thật là đen tối ! Biết mấy đêm dài bạn sống cảnh màn trời chiếu đất, lạnh lẽo dưới sương gió. Biết bao đơn xin việc làm, tŕnh hết hăng nầy đến sở nọ. Biết mấy cuộc tranh đấu gay go và, đủ điều thiếu thốn đă dày ṿ bạn ! Số phần bạn quả vô cùng đau khổ !

Hỡi bạn, anh của tôi ơi ! hạnh phúc của bạn đă tiêu tan rồi ! Bạn đă mất người bạn gái mến yêu mà bạn quư hơn chính bạn. Cuộc đời chỉ c̣n là một gánh rất nặng nề đối với bạn. Bạn đă nếm qua những ngày dằn vặc, rỗng không, những đêm dài trắng mắt ảm đạm, những cơn tỉnh giấc bồn chồn nặng nhọc sau những giấc ngủ chập chờn.

Và bạn, một bà mẹ đau khổ, mới vài tuần nay, bạn c̣n siết chặt trong tay để ru ngủ một đứa con xinh xắn tợ thiên thần, bạn c̣n hôn đôi bàn chơn bé nhỏ của nó như điên như dại. Rồi, bỗng nhiên một nấm mộ mở ra, để lạnh lùng khép lại trên tấm h́nh hài cưng quư ấy, mảnh huyết nhục của bạn ! Vấn đề tử vong, từ nay, đối với bạn là một mối sầu triền miên.

Hỡi bạn, anh của tôi, v́ một chứng bịnh kinh niên vô phương chữa trị, bạn không sao rời khỏi giường bịnh, bạn không thể ĺa chiếc ghế phế nhân của bạn. Thật không một ngày nào mà bạn chẳng đau đớn vừa thể xác, vừa linh hồn, v́ bạn hoàn toàn bất lực, không đi đứng được, và, phải khổ tâm nhờ vả mọi người trong mọi việc.

Hỡi bạn, đứa em gái đáng thương, em đă yêu với tất cả tấm ḷng trinh bạch và em đă bị lường gạt bởi một gă Sở Khanh. Em đau khổ vô cùng. Nhữnng chi trước kia em gọi là t́nh yêu, hạnh phúc, là lời ca tiếng nhạc, nay đă trở thành oán ghét, rẻ khinh và thù hận. Do đó, cuộc đời em trở thành đen tối, nặng nề như địa ngục.

C̣n bạn, đứa em gái của tôi ơi, bạn có làm chi nên tội mà người ta luôn luôn bêu riếu nói hành em, khiến kế hoạch em bị trở ngại, hạnh phúc em bị lung lay, hành động em bị nghi ngờ. Em phải ngậm ngùi chịu mất dần bao bạn bè thân yêu. Đấy là một bất công và là một thử thách to lớn cho em, một tâm hồn đa cảm.

C̣n anh, anh ước mong danh vọng, tiếng tăm, anh mơ trở thành một nghệ sĩ trứ danh. Nhưng mỉa may thay, số phận cứ măi d́m anh vào im lặng và bóng tối, trong những công việc ti tiện, những phận sự quá tầm thường ! Sự khao khát một lư tưởng cao cả và những hành động hào hùng của anh bị khinh miệt.

Từng giờ, anh gặp toàn chế giễu và bực dọc. Từng giờ, anh phải cúi đầu trước cái định mệnh tầm thường ấy khiến anh vừa căm hờn vừa chán nản.

*** ***

C̣n phần của bạn, bà chị của tôi ơi ! Chị hằng khóc trong cảnh cô đơn. Chị thấy ḷng tràn ngập t́nh cảm mến thương. Thế mà chị phải đè nén nó tận đáy tim. Chị cam chịu cảnh đơn côi, không mẹ, không chồng, cũng không con, để được chăm nom, thương mến và vỗ về. Chị khao khát t́nh thương. Sự khao khát ấy ṿ xé chị đêm ngày. Và ngày lại ngày, sự cô đơn ấy càng nặng nề hơn măi !

******

C̣n anh, anh thương mến của tôi ! Tại sao anh chán nản thế ? Thôi ! tôi đă hiểu rồi ! Anh tưởng đă từ bỏ được cái quá khứ tội lỗi, bẩn thỉu của anh ! Sau những cuộc chiến đấu gay go, anh ngỡ ḿnh đă chủ trị được những bản năng bồng bột; anh tưởng đă t́m được sự bằng an, với một tâm hồn trong trắng vui tươi, với những ước vọng tâm linh cao cả mà anh đang ôm ấp. Nhưng rồi, một cám dỗ bất ngờ đột nhiên đến với anh, và trớ trêu thay, cái quá khứ tưởng đă chết kia lại bừng dậy ! Những địch thủ chiến bại xưa, đứng lên, hùng hổ và thô bạo hơn lúc nào cả ! Cái bản chất đê tiện lại hiện ra, hăm dọa anh ! Thôi rồi ! anh đă thua trận, đă kiệt sức và không dám nh́n thẳng tương lai, anh sợ hăi nhiều đổ vỡ mới.

******

C̣n chị, chị yêu mến của tôi, chị đang khổ v́ đức tin của chị. Đức tin ấy, trước kia chưa được kiên cố nay lại bị khuynh đảo bởi những danh từ mâu thuẫn, những tín điều cạn hẹp, những kẻ giả nhân, giả nghĩa. Chị muốn trở lại với ḷng tin xưa, nhưng không được. Chị mến tiếc vị Thượng Đế của thời thơ ấu, nhưng chị không biết cầu nguyện làm sao ! Than ôi ! chị không thể cầu nguyện nữa ! Đối với chị, cơi trời nầy đă vắng tanh, không c̣n đẹp đẽ huy hoàng nữa ! Chị đă gơ cửa khắp nơi để t́m Chơn Lư, nhưng ở đâu chị cũng gặp toàn là hoài nghị và đen tối !

 ****** 

C̣n anh, nỗi khổ của anh cao thượng hơn v́ tính cách vô ngă của nó. Anh đang khổ tâm v́ mảng lo cho nhơn loại. Dưới mắt anh, nhơn loại thật là bệnh hoạn ! Anh đào sâu vấn đề nghèo đói. Anh t́m hiểu các khủng hoảng xă hội và đạo đức vô vùng trầm trọng đang đến hồi bế tắc. Anh lưu tâm đến các nỗi khốn khổ vô phương cứu chữa, đến các tội lỗi xảy ra trong bóng tối, đến sự khao khát lạc thú đang biến con người ích kỷ thành những con ác thú. Anh nghĩ đến các cuộc ăn chơi quá độ với những tai họa có thể ngừa được, nếu nhơn loại tốt đẹp và trong sạch, ngay thẳng và công b́nh hơn. Anh đau khổ v́ anh thấy ḿnh bất lực trước các hoàn cảnh nan giải đó. Anh sẵn sàng hy sinh cho nhơn loại đam mê, dốt nát và đáng thương. Và tận chốn sâu thẳm của tâm hồn anh, măi vang lên những tiếng kêu thương khó hiểu của: tai nàn, đau khổ, bất công ! Than ôi ! anh tự nói: “Tại sao có những bài tính nguy hiểm ấy ? Và tại sao thế ?”

 ******

Tôi đă kể nhiều nỗi khổ ở thế gian nầy, nhưng chắc chắn, tôi cũng bỏ sót một số không ít. Nhiều độc giả sẽ nói với tôi: “Bà ấy không đoán được nỗi thống khổ cùng với những thử thách nặng nề khốc liệt của tôi đâu v. v. . . !” Hỡi các bạn, đại để các bạn đừng quên rằng: “Cảnh khổ của chúng ta luôn luôn như có vẻ trầm trọng hơn cảnh khổ của người khác, và chúng ta thường có thói quen xem thường tất cả các thử thách nào không phải là của ḿnh. Đó là tâm lư thường t́nh của con người.

VẤN ĐỀ ĐAU KHỔ
mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Song le, thưa chư huynh tỷ, tôi đến với quư bạn không phải để giảng giải khoa tâm lư hay phân tách các thứ đau khổ ở quư bạn. Tôi chỉ có thể đề cập sự đau khổ qua khía cạnh THÔNG THIÊN HỌC mà thôi. Như vậy, tôi sẽ tŕnh bày theo quan điểm của chúng tôi, thế nào là nguyên nhân, là lợi ích, là mục đích của đau khổ. Và như thế, tôi bắt buộc phải nêu ra một ít giáo lư Thông Thên Học. Ước chúng nó soi sáng quư bạn như đă soi sáng tôi.

****** 

Bàn về vấn đề đau khổ, quả thật là khó khăn ! Nhưng nó rất quan trọng v́ nó liên quan trực tiếp đến mỗi người chúng ta. Hằng ngày, đau khổ xảy ra trong mọi đời sống, cho mọi sự tiến bộ trên mọi bước của khách hành hương [1], trước khi đến tột đỉnh vinh quang của con đường tiến hóa.

Có lẽ bạn hỏi: “Phải chăng đau khổ là một định luật ? Không, nó không phải là một định luật. Nếu nó là một định luật th́ định luật ấy do con người tạo ra chớ không phải do trời. Đau khổ chỉ là kết quả hiển nhiên của mọi sự vi phạm luật trời. Con người sở dĩ bị đau khổ là v́ đă hành động trái luật trời, trong kiếp nầy hay các kiếp trước. Và v́ vậy, người không thể không đau khổ, y như một con trẻ không sao tránh khỏi phỏng tay khi đă trót đùa với lửa. Như vậy, đau khổ của chúng ta là hậu quả của các hành động, ngôn ngữ và tư tưởng của chúng ta trong hiện tại hay quá khứ.

Sự nhận định nầy đặt chúng ta trước hai định luật quan trọng: nền tảng của giáo lư Thông Thêin Học, cũng như của nhiều tôn giáo khác từ ngàn xưa. Ấy là luật Tiến Hóa bao hàm cả luật Luân Hồi và Nhơn Quả, mà giáo lư Thông Thiên Học cố gắng tŕnh bày lại cho nhơn loại cận đại, hầu giúp cho họ hiểu nguyên nhân và lợi ích của đau khổ.

THÔNG THIÊN HỌC VÀ TÔN GIÁO
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Nhưng đến đây, có lẽ câu hỏi đầu tiên của bạn sẽ là: “Cái tôn giáo mới nào, đột ngột ra đời, mà có thể tiết lộ Chơn lư cho thế gian đây ?”

Tôi xin đáp: “Thông Thiên Học không phải là một tôn giáo mới. Nó cũng không phải là một tôn giáo. Nó đă có từ ngàn xưa và được xem như là nền móng và sự tổng hợp các tôn giáo cùng học thuyết đạo đức. Nó là khoa học của linh hồn. Nó là Minh Triết cổ truyền được tŕnh bày lại trong thời buổi hiện kim. Nền Minh Triết cổ truyền nầy không cố ư đánh đổ các tôn giáo hiện tại, cũng không cố ư xem ḿnh là một đối thủ của chúng. Trái lại, nó có mục đích liên minh với các tôn giáo để chống lại thuyết duy vật và đồng thời liên kết các tôn giáo lại, v́ mỗi tôn giáo đều có khuynh hướng cho ḿnh nắm giữ Chơn lư, và cũng không nhận ra Chơn lư ấy dưới một h́nh thức khác, trong bất cứ một tôn giáo khác nào !”

Thông Thiên Học ước mong giúp đỡ được các tôn giáo mở rộng chơn trời lắm khi bị giới hạn của chúng, ḥa giải chúng với khoa học, làm tỏ rạng các biểu tượng bị quên lảng của chúng và đem lại cho giáo lư chúng một sinh lực mới. Nó đến với các tôn giáo, hai tay rộng mở, với những kiến thức dồi dào, và mỗi ngày một phong phú hơn. Đại để, Thông Thiên Học và chức vụ của nó là thế.

TIẾN HÓA VÀ LUÂN HỒI
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Bây giờ, chúng ta hăy trở lại hai Đại Luật mà tôi đă nói với các bạn khi năy, trước hết là luật Tiến Hóa hay đúng hơn là luật Luân Hồi.

Sự tin tưởng ở các đời sống kế tiếp của linh hồn đă có từ ngàn xưa. Các tôn giáo cổ của Ấn Độ đă dạy như thế; Pythagore, Platon và các môn phái Néo-Platonisme xác nhận lại, vài linh mục Thiên Chúa Giáo cũng chấp nhận niềm tin ấy, và theo nhiều đoạn kinh Phúc Âm, th́ Đức Jésus cũng có dạy qua.

Trên b́nh diện đạo đức, nếu quư bạn quan sát quan niệm linh hồn tái sinh trong nhiều kiếp quư bạn sẽ thấy rằng quan niệm ấy hữu lư, công b́nh và thỏa đáng hơn bất kỳ lư thuyết chính thống hay học thuyết nào. Cao cả tuyệt vời và công minh tột bực, luật Luân Hồi vượt xa thuyết tiền định nguy hại. Thuyết nầy biến Thượng Đế nhơn từ thành một đao phủ thủ. Đâu có thể nào Thượng Đế lại đào tạo linh hồn nầy thanh cao, linh hồn kia hèn hạ ! Đâu có thể nào Ngài tạo một linh hồn ưu tú, rồi đặt linh hồn đó trong một hoàn cảnh tốt đẹp, để rồi đưa nó lên Thiên Đàng. Đồng thời, Ngài tạo một linh hồn khác hạ tiện, rồi đem đặt nó vào một hoàn cảnh bỉ ổi, khiến nó không tránh được những tội lỗi nặng nề ! Nếu Thượng Đế hành động như thế, th́ quả Ngài là một tội nhơn không hơn không kém ! Ai lại có thể chấp nhận một giáo lư bất công, quái đản như thế ! Trước giáo lư ấy, nhiều người công phẩn thốt lên, không chút ngần ngại: “Nếu Thượng Đế của anh như thế, th́ tôi chẳng thích chút nào; thà là tôi sống một nơi hoang liêu, c̣n hơn sống trên cơi trời do một người không tốt điều khiển !”

Than ôi ! Đức Chúa cao cả đă sáng lập tôn giáo của T́nh Thương và của Hy Sinh là: Thiên Chúa Giáo, cao đẹp thế nào mà nay lại thất chân do những tín đồ hẹp ḥi, chỉ mang danh nghĩa, mà không tuân giữ giáo lư của vị Giáo chủ thiêng liêng.

Không, Thượng Đế không sinh linh hồn nầy xấu xa, linh hồn kia tốt lành. Xin đừng gán hành động độc ác, bất công ấy cho Đại Từ Phụ của tất cả sinh linh. Linh hồn như thế nào là tùy nó tự đào tạo lấy nó xuyên qua nhiều kiếp làm người kế tiếp. Những linh hồn cao thượng là những linh hồn đă tiến xa, đă trải qua nhiều bài học kinh nghiệm trong cả ngàn kiếp người. Ấy là những linh hồn đă chiến đấu trong nhiều thế kỷ, và đă chế ngự được bản chất thấp hèn, rèn luyện được những đức tánh có được ngày nay.

C̣n những người xấu xa, hung dữ và yếu hèn, chẳng qua là những linh hồn thơ ấu, chưa ư thức được điều lành, điều dữ và tâm thức (kết quả của vô số kinh nghiệm) chưa được mở mang. Các linh hồn non nớt ấy c̣n phải học hỏi nhiều ở trường đời đắng cay, đau khổ.

 ****** 

Người Thông Thiên Học chúng tôi xác nhận điều nầy, mà tôi, xin quư bạn chấp nhận như một giả thuyết và đừng vội bác bỏ trước khi nghiên cứu kỹ càng. Điều đó là các điểm dị đồng giữa các linh hồn, chẳng qua là sự khác biệt về tuổi kiếp, nghĩa là tŕnh độ tiến hóa. Linh hồn càng trẻ nó càng dốt nát, xung động, dễ nô lệ cho dục vọng. Khi tâm thức c̣n cạn hẹp, nó chưa biết được điều phải lẽ quấy, và chưa biết suy luận. Nhưng trên con đường tiến hóa rất dài, rất chậm, và cũng dễ chán ở quăng đầu, linh hồn càng tiến th́ càng biến chuyển, càng tăng trưởng, càng cải thiện. Các xác thân mà nó đă nương trụ, các cái Ngă mà nó đă mang (và đă vứt như những chiếc áo cũ) để thể hiện nó ở cơi trần, mỗi lần chúng tan ră là mỗi lần chúng lưu lại ở nó một ít di sản kinh nghiệm. Di sản nầy khá nghèo nàn trong đoạn đầu, dồi dào thêm măi, và như thế, linh hồn tăng trưởng lần lần. Và tất cả kinh nghiệm ấy – đa số là đau khổ - lần hồi cấu thành Tâm Thức.

Các bạn hăy nghĩ đến vô số kiếp cần thiết để tạo một tâm thức tế nhị. Các bạn hăy nghĩ đến bao nhiêu đau khổ mà linh hồn phải chịu để học một bài học. Và như ta đă thấy ở trên, nếu đau khổ là hậu quả của điều ác, th́ điều ác là hậu quả của vô minh. Linh hồn vô minh làm quấy v́ nó bị lôi cuốn bởi những xúc động thấp hèn, những cuồng vọng gớm ghiết, và nó làm quấy măi, cho đến một khi kia, v́ quá đau khổ, v́ quá đau khổ, nó lưu ư và trực ngộ ra rằng: “Cái khổ luôn luôn phát sinh từ điều ác, chừng ấy nó bắt đầu suy luận, rút tỉa kinh nghiệm và xa lánh điều quấy”. Đó là giai đoạn đầu của sự xây đắp mầm móng của tâm thức.

Lúc đầu tâm thức rất thô sơ. Con người tránh điều quấy không phải v́ điều nầy xấu xa mà v́ muốn tránh đau khổ do điều quấy gây ra. Tuy nhiên, nhờ các kinh nghiệm kế tiếp, tâm thức một ngày một trở nên phung phí, đồng thời trí thông minh cũng mở mang. Nhờ vậy con người tiến hóa mau hơn. Các bản năng xấu xa, các xúc động thô bạo nhường chỗ cho cảm t́nh thanh cao, cho t́nh thương nồng thắm, khiến anh có thể quên ḿnh và biết trọng nhân phẩm ḿnh. Lần lần anh trở thành con người của bổn phận.

 ****** 

Chúng ta hăy trở lại Cơ Tiến hóa của nhơn loại. Sau nhiều kiếp tiến hóa nữa, con người của bổn phận trở thành ân nhân của loài người. Trí tuệ anh mở rộng, nguyện vọng anh cao cả.. T́nh thương và công lư hướng dẫn anh đến chỗ quên ḿnh: từ bỏ thị hiếu và quên hạnh phúc tư riêng. Anh tiến đến đức hy sinh. Rồi một ngày kia, anh rời bỏ các t́nh luyến ái chật hẹp, để hợp nhất với Đại Ngă và ḥa đồng với nhơn loại, với Thượng Đế. Bản ngă anh tiến hóa trong biển cả của t́nh thương. Bây giờ anh chỉ muốn sống cho mọi người mà anh xem như huynh đệ, chỉ muốn nhập thế để hiến ḿnh cho công cuộc giúp đời. Nguyện vọng của anh là soi sáng, an ủi và ban rải sự an lạc đă có ở ḷng anh. Nhờ được hợp nhất với Đấng Tối Cao, mà anh cảm thấy tràn đầy phúc lạc, và không c̣n quyến luyến các thú vui vô vị của cơi trần. Anh đă được một sự bằng an trong tâm hồn mà không ai có thể tranh giành và cũng không có một biến cố nào có thể làm phai nhạt. Đó là vầng Thái Dương chói rạng muôn đời trên các nơi phong ba băo tố.

Anh tiến măi lên cao, lên tận đỉnh vinh quang của con đường dốc. Sau cùng, anh trở thành một Đấng Chơn Sư Minh Triết. Nhưng tuy đă thành một bậc Siêu nhơn, anh vẫn tiếp tục tiến từ Vinh Quang nầy đến Vinh Quang khác. Khi anh hoàn thành sự tiến hóa của loài người, anh sẽ sang qua con đường tiến hóa siêu nhơn loại, ở các cơi giới khác trong các vũ trụ khác nữa. Cuộc tiến hóa vĩ đại nầy khiến ta hoa mắt. V́ quả thật chúng ta c̣n nhỏ bé quá, trí óc ta cạn hẹp quá, làm sao chúng ta có thể thực hiện sự vinh quang nầy ? Tốt hơn là chúng ta đừng nghĩ tới. Nếu chúng ta hiểu được chút nào, chúng ta có hưởng chút đó. Sau nầy, chúng ta sẽ tiến cao và sẽ hiểu nhiều hơn.

 ******

Quư bạn chắc sẽ hỏi tôi: “Sự tiến hóa huy hoàng nầy phát sinh từ đâu ? Đâu là nguồn gốc nó ?”

- Nguồn gốc nó vốn có từ vô thỉ, rất xa, thật xa chúng ta. Và tôi sẽ trả lời bạn như Đức KRISHNA: “Bản nguyên của vạn hữu không sao hiểu biết được !”

THƯỢNG ĐẾ ẨN TÀNG 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Tuy nhiên, Thông Thiên Học dạy chúng ta điều nầy.

Mỗi linh hồn là một điểm Linh Quang của Thượng Đế, hay của Đại Hồn. Vậy, mỗi linh hồn là Thượng Đế trong trạng thái tiềm tàng. V́ Thượng Đế đó chưa ư thức được bản thể thiêng liêng của ḿnh. Và chính để khai mở ư thức nầy mà linh hồn phải trải qua các kinh nghiệm của kim thạch, thảo mộc, cầm thú, nhơn loại, đến Thánh, Thần, Tiên, Phật. Bắt đầu nó hạ sâu xuống vật chất trên con đường nhập thế. Và sau đó, nó tiến lên quả vị siêu linh trên con đường xuất thế, trong một thời gian vô số kiếp.

Khi nhập thế, Chơn Thần bắt đầu nhập vào các loài tinh chất. Kế đó, nó sang loài kim thạch, thảo mộc rồi đến thú cầm, để tiến lần đến sự cá thể hóa mà thành người. Như vậy, cầm thú là đàn em của chúng ta.

Ở đây, tôi không tiện tŕnh bày diễn tŕnh tiến hóa của linh hồn ở các giai đoạn chuẩn bị thành người, v́ như thế chúng ta sẽ đi xa đề. Chúng ta chỉ cần suy diễn một vài điều liên hệ đến thuyết luân hồi mà chúng ta đang t́m hiểu.

LỢI ÍCH CỦA ĐAU KHỔ
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

  Chúng ta đă biết đau khổ là hậu quả của điều ác, của sự vi phạm luật trời, và điều ác phát sinh từ sự vô minh. Vậy, cội rễ của đau khổ là vô minh. Như thế, muốn diệt khổ phải bứng cái rễ đó, nghĩa là phải phá vô minh. Và, phá bằng cách nào ? Phải làm cách nào để thay nó bằng minh triết ? Chúng ta phải nhờ kinh nghiệm. Và kinh nghiệm như tôi đă nói, thường là những điều khổ. Thế là ta phải kết luận: đau khổ thật là hữu ích, nó là ân huệ. Đau khổ là một điều kiện thuận lợi, một yếu tố cần thiết cho sự tiến hóa của con người. Nó mở mang tâm thức, rèn luyện linh hồn. Không có nó, cuộc tiến hóa sẽ tŕ huỡn khôn cùng. Là v́ tâm thức chỉ phát triển mau trong băo tố, khi tâm hồn bị khích động bởi những xúc cảm ồ ạt, dục vọng bạo tàn, đời sống khắt khe. Như vậy, đau khổ rất cần ở giai đoạn đầu và hữu ích suốt thời gian tiến hóa. Linh hồn càng trưởng thành, nỗi khổ càng da diết, càng tinh tế. Đau khổ là ḷ lửa đốt tan các ham muốn đê hèn và ích kỷ. Nó c̣n là trường học của thiện cảm, và t́nh thương. Đôi khi, nó ray rứt, nhưng lúc nào nó cũng bồi dưỡng ḷng từ ái trong ta, khiến ta dễ thông cảm với mọi nỗi đau khổ quanh ta. Nếu không đau khổ làm sao ta có thể mở rộng ṿng tay để đón những người bạc phước, làm sao ta có thể t́m những lời lẽ dịu dàng, thích hợp để xoa dịu những vết thương ḷng ?

Như vậy, tại sao ta quá sợ đau khổ ? Tại sao ta cố tránh nó ? Dấu hiệu của thời đại chúng ta là tránh mọi đau khổ. Trong mục đích này, chúng ta sáng chế đủ thứ thuốc. Ta không thể chịu nổi một cơn đau nhức nhẹ. Ta không dám nh́n sự nghèo đói, những khu nhà tồi tàn. Ta không dám xem những trang sách mô tả sự mổ xẻ sinh vật, hay cảnh nô lệ của biết bao nhiêu phụ nữ đáng thương. Như thế, là v́ ta muốn tránh cho ḷng khỏi rung động, hay xao xuyến, đau khổ.

VẤN ĐỀ THIỆN ÁC 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Không có điều quấy th́ không có đau khổ. Và, bởi đau khổ cần thiết, bởi nó giúp vào sự tiến hóa của linh hồn, nên điều quấy cũng có sự hữu ích của nó. Quư bạn đừng nên vội nói : “Ư nghĩ nầy thật là vô luân !” Tại sao vô luân ? Nếu chúng ta lănh hội được luật tiến hóa, th́ ta sẽ thấy những chi cản trở bước tiến của con người mới thực là vô đạo, vô luân. Đối với chúng tôi, người Thông Thiên Học, đạo đức là sống hợp với luật trời, là nương theo ḍng triều đi lên ấy, tức là ḍng tiến hóa. Điều ác, theo chúng tôi là những chi làm trễ nải, những chi ngăn chặn ḍng tiến vĩ đại ấy, những chi trái với bước tiến của toàn thể hay của cá nhơn. Quả thật không có chi tương đối những điều quấy. Dục t́nh ích kỷ rất cần để kích thích các linh hồn thơ ấu, chúng thúc đẩy các linh hồn ấy chiến đấu để gia tăng sức mạnh. Chúng c̣n mở mang trí tuệ. Như thế, chúng đâu gây nhiều tai hại. Nhưng đối với chúng ta, sáng suốt hơn và tiến hóa hơn, dục t́nh, ích kỷ và tham vọng là điều quấy v́ chúng ngăn cản bước tiến hóa của chúng ta và xui chúng ta chống lại Thiên Luật. Tất nhiên, nếu chúng ta khăng khăng hành động theo các điều quấy ấy, đời sống của chúng ta sẽ đổ vỡ và đau khổ.

Thường thường, linh hồn ấu trĩ cần trải qua điều quấy gây đau khổ, linh hồn mới ư thức được các hành động trái luật trời. Làm sao có thể khuyên dạy một linh hồn chế ngự dục t́nh, và bản chất đê tiện, nếu nó không bị đau khổ v́ chúng ? Lại nữa làm sao một linh hồn thơ ấu có thể hoạt động nếu không được kích thích bởi ḷng ích kỷ và tham vọng ? Làm sao chúng ta có thể thuyết phục nó bằng ư niệm bổn phận, bằng lư tưởng hay bằng hạnh hy sinh, v́ nó chưa biết thế nào là phải, thế nào là quấy ? Điều nó cần là những chi vừa tầm hiểu biết của nó. Một đứa trẻ phải là xấu xa, mà rất hữu ích, v́ chúng thúc giục sự tiến hóa của linh hồn. Ở tŕnh độ tiến hóa của những linh hồn non trẻ ấy, v́ trí tuệ c̣n kém cỏi, nên con người tuy thô bạo, chớ không làm sao có thể đọc những sách khoa học, có thể dùng những dụng cụ giải phẫu ? Trong một tác phẩm sau cùng của bà A. Besant, bà viết : “Làm sao bạn biết lẽ công b́nh, nếu bạn chưa thấu triệt sự bất công ? Làm sao bạn có thể chọn điều lành, nếu bạn chưa biết việc ác ? Làm sao bạn nhận ra ánh sáng nếu không có bóng tối ? Sức mạnh chỉ có thể nảy nở bằng đấu vật, bằng nỗ lực, bằng thao dượt. Cũng thế, sức mạnh nội tâm không bao giờ phát hiện và gia tăng, nếu linh hồn không thất vọng, đau buồn”.

Tóm lại, đối với chúng ta, người Thông Thiên Học, quấy và ác là: những chi ngăn cản sự tiến hóa của con người. Khi một điều quấy giúp vào sự tiến hóa, nó không c̣n là một điều quấy mà là một việc cần ích. Vậy chúng ta nên khoan dung đối với linh hồn thơ dại và nghiêm khắc đối với ḿnh. Những linh hồn ấy đang học bài học của họ, như chúng ta đang học bài học khó hơn của chúng ta. Và, một ngày kia, họ cũng sẽ học đến những bài học khó nầy. Khi các ư nghĩ nầy được hiểu rơ, bạn sẽ lănh hội được thế nào là điều ác.

Khi đọc những ḍng chữ nầy, chắc có bạn sẽ thắc mắc như vầy : “V́ điều quấy cũng tốt, th́ tôi sẽ thỏa măn ḷng dục của tôi, tha hồ, cần ǵ thận trong !”. Bạn ấy đă hiều lầm tôi. Các độc giả hăy tin chắc rằng, đối với các bạn, điều quấy không c̣n là một sự lợi ích, tốt lành nữa, khi mà bạn cố ư làm quấy, nghĩa là bạn làm ác một cách có ư thức; tất nhiên nó phải hại bạn và ngăn cản bước tiến của bạn.

SỰ B̀NH ĐẲNG VÀ T̀NH HUYNH ĐỆ 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Thế là trong nhơn loại, có đủ hạng linh hồn, khác nhau về tuổi tác, khác nhau về tŕnh độ tiến hóa. Có những linh hồn ấu trĩ và cũng có những bậc siêu nhân đă tiến đến tột đỉnh tiến hóa của nhơn loại. Ấy là những bậc mà chúng ta gọi là các Đấng Chơn Sư Minh Triết với một ḷng tôn kính chơn thành. V́ vậy, mà không sao có sự b́nh đẳng trên thế gian nầy được. Làm sao ta có thể thiết lập sự b́nh đẳng trong xă hội khi nó không có trong thiên nhiên, trong vũ trụ ? Trong gia đ́nh nhơn loại, luôn luôn có kẻ nhỏ, người lớn, kẻ thanh, người trược, kẻ ngu khờ, người lỗi lạc.

Nhưng nếu luật tiến hóa quả quyết không sao có sự b́nh đẳng giữa loài người, th́ nó dạy ta một bài học quan trọng về t́nh huynh đệ, về sự liên đới giữa con người.

Trên chiếc thang tiến hóa, chúng ta đă trải qua các nấc thấp. Ở một thuở nào, chúng ta đừng lạm dụng sức lực chúng, mà phải thương yêu và d́u dắt chúng. Những ai thương thú vật và sống gần gũi chúng, đều biết rằng t́nh thương giúp chúng tiến mau; chúng tỏ ra hiền lành, thông minh và biết suy nghĩ; chúng có trí khôn gần giống con người. Thật hết sức đúng mà nhận rằng: “Chúng nó là những đứa em thấp kém của chúng ta, chúng quả là những thí sinh sắp sửa vào hàng nhơn loại. Và, cái quyền mà chúng ta tự phụ đối xử với chúng, chẳng qua là quyền của kẻ mạnh”.

Tiến lên một vài nấc nữa, chúng sẽ ở vào thời kỳ cổ lổ của nhơn loại. Ở giai đoạn nầy, tất cả chúng ta đều có làm ác, đều có gieo đau khổ để mưu lợi cho ḿnh, bằng tư dục ích kỷ. Có thể chúng ta là kẻ sát nhơn hay ít nhứt cũng là người hung ác, ngu đần, bởi vậy, bổn phận của chúng ta là giúp đỡ các linh hồn thơ ấu, đàn em trẻ dại của chúng ta, bằng các nâng cao tâm t́nh chúng và đánh tan sự vô minh đang bao bọc chúng.

Trên tất cả nấc thang tiến hóa, chúng ta đều có bổn phận đối với đàn em thơ dại, đối với các bạn ngang hàng cũng như đối với các bậc lăo thành.

T́nh huynh đệ và liên đới thay thế sự b́nh đẳng một cách tốt đẹp. Là v́, nơi nào b́nh đẳng duy tŕ sự oán ghét, ngờ vực và hoài nghi, th́ nơi ấy t́nh huynh đệ nới rộng ṿng tay kết hợp và thương mến. Điều nầy là một ưu điểm và là một sức mạnh của Hội Thông Thiên Học được truyền bá trên khắp thế giới. Nó đặt nhẹ sự giúp đỡ vật chất mà nhiều công cuộc từ thiện đă đảm trách. Nó chuyên chú vào sự giúp đỡ đạo đức, trí thức và tâm linh [2].

Các bạn hăy tưởng tượng các kiếp sống ở cơi trần như một cuộc đăng sơn vĩ đại và khó khăn đến đỗi có vẻ như không thể nào thực hiện. Nhưng ngọn núi trắng tuyết đă hiện ra cho các bậc huynh trưởng nhanh chơn và cương quyết. C̣n đàn em thơ ấu c̣n lần ḍ từ bước trong thung lũng âm u và vấp chơn vào đủ thứ chướng ngại, v́ chưa ư thức được lộ tŕnh. Trước các em nầy, trên khắp quăng đường, nhơn loại trung b́nh, nửa tin, nửa ngờ, cũng đang tiến theo chơn các huynh trưởng, trên con đường hành hương diệu vợi, mà họ chưa hiểu được nguyên lai và mục đích.

Trong cuộc đăng sơn nầy, t́nh huynh đệ phải được xem như một dây xích vô tận, mà mỗi cá nhơn là một khoen con. Chúng ta không thể đơn độc tiến lên một ḿnh: chúng ta cần theo chơn một người, đồng thời dẫn dắt thêm một người. Bạn đă được một người giúp bạn nhảy qua khe núi, th́ bạn cũng phải đưa tay d́u dắt một người khác đang kiệt sức phía sau. Đó là cách bạn tỏ ḷng tri ơn, v́ nhơn loại là Một, khi bạn giúp một người là bạn giúp tất cả, kể cả ân nhân bạn đó, v́ trên đời, đâu phải luôn luôn bạn được dịp trả ơn ngay cho người đă thi ơn cho bạn.

Chúng ta hăy cố gắng thực hiện t́nh huynh đệ đại đồng ấy. Chúng ta hăy cảm nghe sự sống chung quanh rung động ở tâm ta. Chúng ta hăy xem các huynh đệ của ta là chính ta. Những điều ta biết dù ít oi, chúng ta hăy chia sớt cho họ. Nếu ta thấy một tia sáng Chơn lư huy hoàng hiện trên con đường, hăy hưởng cái hạnh phục tuyệt vời khi hạnh phúc ấy được đem chia cho bạn cùng đường. Chính khi làm những công việc phụng sự nầy, chúng ta sẽ tiến lần lần đến mục đích xa xăm, mà hiện nay chúng ta chưa ư thức được rơ ràng sự vinh quang kỳ diệu.

 ******

Trước khi sang qua luật Nhơn Quả kỳ diệu, liên quan mật thiết với luật Tiến hóa và luật Luân Hồi, tôi tưởng nên giải đáp một câu hỏi có thể làm cho một vài bạn thắc mắc.

Các bạn sẽ hỏi: “Tại sao muốn tiến đến quả vị Tiên Thánh, con người phải trải qua nhiều kinh nghiệm, phải đắm ḿnh trong tội lỗi, phải chịu đau khổ đủ điều như thế ?

Đành rằng Thượng Đế có thể sáng tạo một con người hoàn toàn. Nhưng Ngài không muốn làm thế, v́ tạo một con người trọn lành là tạo một con người máy. Ngài muốn con người được tự do. Ngài muốn con người tiến đến sự toàn tri, đến Chơn ngă, đến quả vị thánh hiền bằng chính kinh nghiệm của ḿnh. Ngài muốn con người nếm mùi tội lỗi và trải qua nhiều gian lao cần thiết cho sự mở mang tâm thức. Ngài muốn trên con đường tiến hóa, con người biết thế nào là yếu hèn, đau khổ, để thông cảm với các bạn đường. Có thể, hoa từ bi mới nở ở ḷng anh, để chuẩn bị anh trong sứ mạng cao quư cứu đời. Ngài “muốn” thế, là v́, đó là một điều “cần thiết”.

LUẬT HY SINH 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Đến đây, tôi bắt buộc phải nói đến luật Hy Sinh thiêng liêng trong việc sáng tạo vũ trụ.

Theo giáo lư Thông Thiên Học, luật Hy Sinh thiêng liêng (mà sự chuộc tội ở Thiên Chúa Giáo chỉ là một phản ảnh nhỏ) là Công Đức vô lượng của Đức THƯỢNG ĐẾ, là công nghiệp của Đấng Tối Cao. Trong t́nh thương bát ngát, trong niềm lạc phúc tràn đầy, trong sự vinh quang khôn tả. Ngài tự giới hạn ḿnh, tự giam hăm ḿnh trong h́nh hài sắc tướng do Ngài sáng tạo. Mục đích của Ngài là hóa sinh vô số sinh linh, và các sinh linh nầy, khi đang tuần tự tiến lên, lần hồi ư thức được ḿnh là những tiểu trung tâm trong đại trung tâm, là những tiểu ngă trong đại ngă, là những Thánh linh trong Thượng Đế vô biên. Ngài quả thật là Đại Từ Phụ, v́ sự sống của Ngài lan tràn khắp nơi, ở ḷng ta cũng như ở trong ḷng vạn vật, v́ tâm thức Ngài bao trùm tâm thức của chúng ta và rung động cùng chúng nó. Ngài ở trong ta và ta ở trong Ngài.

Để giải rơ điều nầy, tôi xin nêu một so sánh. Thân thể ta có một sự sống duy nhứt, nhưng nó được tạo thành do nhiều tế bào, và các tế bào nầy lại có những sự sống riêng, trong sự sống duy nhứt của thân thể. Thân thể ư thức được các cảm giác của tế bào và xem như là cảm giác của ḿnh.

Cũng thế ấy, tâm thức vô biên của Thượng Đế bao trùm các tâm thức nhỏ bé của chúng ta. Cũng thế ấy, tâm trí toàn tri và cùng khắp của Ngài thu nhận các cảm giác của chúng ta là những nguyên tử nhỏ bé so với Ngài. Những cảm giác của mỗi hột nguyên tử trong cơ thể ta, để so sánh th́ cũng như chúng ta đối với Đức Thượng Đế vậy – “Tóc trên đầu con cũng đă được đếm”, Đức Chúa dạy như thế !

Dù nhỏ bé, hèn mọn hay bất toàn, nếu chúng ta ư thức được sự hy sinh thiêng liêng nầy th́ sự hiến dâng bừng dậy ở ḷng ta: chúng ta muốn đáp lại tiếng gọi của t́nh thương, chúng ta hoài băo được giúp vào công cuộc tế độ cao cả, và sẵn sàng hiến dâng thân thể, trí tuệ, linh hồn ta để giúp Ngài cùng những vị pḥ tá Ngài.

Nhưng than ôi ! chúng ta c̣n hèn mọn nên không thể bay lượn lâu trên trời cao, chúng ta chỉ vươn lên đó trong những phút giây ngắn ngủi. Rồi khi ngọn lửa thiêng tắt lịm v́ thiếu sức tư dưỡng, chúng ta cũng lại rơi về cơi đời ích kỷ, tầm thường.

Bây giờ, nếu chúng ta hiểu vũ trụ được sáng tạo và duy tŕ do sự hy sinh thiêng liêng; nghĩa là, do sự giới hạn của vô biên, do ân huệ của Thượng Đế hằng ban rải khắp nơi, chúng ta sẽ hiểu sự giới hạn nhứt thời nầy [3], tạo sự bất toàn nhứt thời. Trong những điều kiện mà Ngài tự đặt ḿnh vào v́ t́nh thương chúng ta, Ngài không thể hành động trái với luật Tiến Hóa. Ngài không thể tạo một con người hoàn toàn thánh thiện. Nhưng Ngài có thể chuyền cho mọi người sự sống của Ngài với những tiềm lực thiêng liêng.

Con người là một v́ Thượng Đế chưa ư thức được bản ngă thiêng liêng của ḿnh. Và chỉ ư thức được, khi nào trải qua các giai đoạn tiến hóa như tôi đă tŕnh bày ở phần trước., nghĩa là, sau khi nếm qua quả “thiện”, quả “ác”. Và hơn nữa, sau khi các tiềm năng thiêng liêng của trí tuệ, ư chí và t́nh thương được biến chuyển thành những đức tính cá nhơn.

LUẬT NHƠN QUẢ 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Chúng ta đă thấy, đau khổ là một đ̣n bẫy cất chúng ta lên khỏi bùn nhơ của dục vọng, một điều kiện thuận tiện, cần thiết cho sự tiến hóa và một yếu tố giáo hóa rất quư báu. Chúng ta cũng đă thấy: tội ác bắt nguồn trong vô minh, và đau khổ phát nguyên từ tội lỗi. Quy tắc nầy bao trùm tất cả, kể cả các trường hợp cá nhơn và đặc biệt. Tất cả các đau khổ của chúng ta là kết quả của những tư tưởng, lời nói, hành động xấu xa mà chúng ta đă tạo ra trong kiếp nầy hay các kiếp trước.

Thế là, chúng ta lại đứng trước một Đại Luật rất quan trọng mà triết lư Đông Phương gọi là KARMA (hành động). Luật nầy bổ sung luật Luân Hồi, và có thể gọi là luật Báo Ứng, luật Nhơn Quả, sự Công B́nh Nội Tại hoặc Công Lư Hằng Cửu.

Nếu quư bạn hiểu được chức vụ của luật Nhơn Quả trong đời sống cộng đồng của nhơn loại cũng như trong đời sống nhỏ bé của cá nhơn, quư bạn sẽ lănh hội rơ ràng hai vấn đề: đau khổ và định mệnh, sẽ thấy sự Công B́nh Thiêng Liêng chiếu rực rỡ ở nơi mà trước kia quư bạn chỉ thấy bất công và phiền năo [4].

Chơn lư nầy có vẻ quen thuộc với chúng ta. Quư bạn suy nghĩ kỹ xem. Quư bạn há không từng đọc lời của Thánh Paul: “Các ông đừng lầm, người ta không thể đùa cợt với Thượng Đế. Ai gieo cái chi th́ gặt cái nấy”. Đó là đại cương của luật Nhơn Quả: Đă có nhơn th́ có quả. Một nghiệp quả luôn luôn phát sinh từ một nguyên nhơn. Nguyên nhơn nào cũng tạo nghiệp quả. Và, nhơn với quả luôn luôn cân xứng.

Tất cả các đau khổ của chúng ta là những món nợ mà chúng ta trả cho xă hội hoặc cho Thiên Luật. Những người mà chúng ta gây đau khổ trong quá khứ, luật Nhơn Quả sẽ đặt họ trên bước đường của chúng ta như là những chướng ngại để phá hoại hạnh phúc của chúng ta một cách ư thức hay vô thức. Đó là những món nợ mà chúng ta trả trực tiếp cho người. Trái lại, nếu chúng ta làm hại ai, mà vi phạm Thiên Luật, th́ luật Nhơn Quả cũng trừng phạt chúng ta bằng biến cố và đau khổ.

Nhưng danh từ trừng phạt ở đây không đúng lắm, dù rằng đau khổ xảy ra dưới h́nh thức một h́nh phạt.

Là v́, nó gợi ở trí ta một Đấng Thiêng Liêng nắm quyền thưởng phạt và khiến chúng ta nghĩ đến Đấng Jéhovah [5] trừng phạt con cháu Ngài. Thật ra, Luật Trời nhơn từ, không bao giờ trừng phạt, mà chỉ thản nhiên điều chỉnh một sự quân b́nh đă mất, bằng cách đem lại cho kẻ bất cẩn một bài học hữu ích và công bằng. Cũng như quư bạn đâu thể gọi là “trừng phạt” khi một đứa trẻ bị phỏng tay v́ thọc tay ấy vào lửa. Đa số hành vi chúng ta đều giống như vậy.

Khi chúng ta làm quấy v́ vô minh th́ đau khổ xảy ra liền theo đó. Đó không phải là sự trừng phạt, mà chính là một bài học nhằm khuyên dạy chúng ta tránh mọi lỗi lầm. Nhờ các bài học bổ ích và nghiêm khắc ấy, nhờ các kinh nghiệm đau khổ ấy mà lần lần chúng ta thoát khỏi lưới vô minh.

Luật Tiến Hóa là luật Điều Ḥa. Khi mà sự quân b́nh đă mất do một tội lỗi, th́ sự quân b́nh ấy chỉ có thể tái lập bằng cách người phạm lỗi phải chịu đau khổ, y như khi một nhánh cây bị một trẻ em tŕ xuống, nhánh ấy vượt khỏi tay em, bật lên, và đập ngay vào mặt em. Luật Nhơn Quả chỉ có thế, thật là thực tế, thật là khoa học !

Có lẽ bạn nói: “Nếu vô t́nh làm quấy mà phải chịu tội th́ thật là bất công !” Nhưng làm thế nào tránh được tội bởi đó là hậu quả của nguyên nhân và không nhân nào không tạo quả cả. Khi ta đặt tay vào lửa th́ làm sao ta khỏi phỏng tay?

 Tuy nhiên, trên bàn cân nhân quả, động cơ và ư muốn nặng hơn hành động bội phần. Hành động chỉ thu hẹp ở cơi trần, cơi vật chất; c̣n động cơ và ư muốn th́ gây âm hưởng trong các cơi vô h́nh. Nơi đây, tác động của chúng tác động mạnh mẽ hơn ở cơi trần rất nhiều. Khi một hành động tốt đẹp và hữu ích, mà động cơ lại ích kỷ th́ hành động ấy chỉ có thể tạo một hạnh phúc cạn hẹp. Ví dụ: một người xây một bịnh viện với mục đích được ân thưởng huy chương hay được người đời ca tụng, hành động ấy tạo cho anh những hạnh phúc ở cơi trần trong một kiếp sau; những động cơ ích kỷ sẽ đem lại anh những đau khổ tinh thần.

Như thế, động cơ càng thanh cao th́ nghiệp quả càng tốt đẹp.

Khi con người tiến hóa cao, nghiệp quả trở nên phức tạp, v́ trong một thời gian ngắn, ta có thể có những hành động vừa cao thượng vừa thấp hèn, tạo những quả vừa tốt vừa xấu. V́ vậy, các Đấng Thiêng Liêng đảm trách luật Nhân Quả có một phận sự rất khó khăn v́ các nhân không thể cùng sanh quả trong một kiếp. Các Ngài phải chọn lọc nghiệp xấu tốt, và phân chia cho con người trả trong nhiều kiếp. Nhân nào không thể sanh quả ngay được th́ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện ở một kiếp sau. Chính các nghiệp quả nầy dệt nên mệnh số của chúng ta. Chính nó tạo ra ta, đặt ta ở xứ nào, trong một hoàn cảnh nào và gây những biến cố vui buồn trong đời ta. Chúng ta đừng ngạc nhiên tại sao hạnh phúc của chúng ta hiếm hoi và ngắn ngủi, tại sao tai họa xảy đến cho chúng ta quá thường ! Đối với chúng ta tŕnh độ tiến hóa c̣n thấp, chúng ta há không làm quấy nhiều hơn hành thiện hay sao ? Nhứt là tư tưởng: động cơ thúc đẩy chúng ta hành động c̣n ô trược !

Tuy nhiên, khi kiến thức chúng ta mở rộng, chúng ta sẽ làm chủ được vận mệnh chúng ta phần nào. Người dốt nát nô lệ cho dục vọng và ham muốn, và như thế là nô lệ của số mạng ḿnh. Trái lại, nếu chúng ta biết Luật Trời, chúng ta có thể tạo nghiệp quả tốt bằng hành động và tư tưởng thanh khiết, từ bi [6]. Chúng ta không tránh các nghiệp quả đă tạo ở các kiếp trước – v́ thiếu nợ th́ phải trả - nhưng, chúng ta có thể “vô hiệu hóa” nghiệp quả hiện tiền. Tôi xin đơn cử một ví dụ: trong kiếp nầy, ta đă gây đau khổ cho ai, th́ có thể ngay bây giờ, chúng ta cố t́m cách để giúp đỡ người đó. Đó là một cách trả nợ. Các vị tu cao, biết được tiền kiếp của ḿnh, nên có thể dùng cách đó để chuộc những lỗi lầm xưa.

Đến đây, bạn có thể hỏi tôi: “loại nhân nào sẽ tạo ra quả nào ?” Về vấn đề nầy, người ta không thể đặt một qui tắc tổng quát. Đừng tưởng rằng kiếp nầy, trong một cuộc đi săn, bạn lỡ bắn một người nào đó găy chân; th́ trong một kiếp sau, người nầy sẽ bắn bạn găy chân lại. Đành rằng, khi bạn bất cẩn gây thiệt hại cho người, th́ bạn sẽ trả quả, nhưng bạn có thể trả một cách khác hơn là bị một phát súng bắn cũng găy chân y như thế. Nhân và quả có thể khác nhau về bản chất, nhưng bằng nhau về động lực.

Tuy nhiên, nhân và quả thường thường đồng bản chất, nếu cơ hội được thuận tiện. Chẳng hạn như, một án mạng: có thể sẽ gây một cái chết dữ dội; một cuộc đời trụy lạc: có thể gây một đời sống tật nguyền. Nếu sự trụy lạc đi đến mức độ đê hèn quá, nó sẽ tạo ra sự đần độn. Đại để, sự thỏa măn vô độ các ham muốn xấu xa, sẽ tạo nên đủ thứ thiếu thốn. Người ta thường nói: sự hung ác gây điên cuồng; lười biếng th́ si mê tŕ độn; ngạo mạn th́ phải chịu nhục nhă; người ích kỷ sẽ không có bạn và thiếu t́nh thương. Những ai đă bỏ qua cơ hội tiến hóa tâm linh sẽ không thể gặp những dịp tiến lên. Bà mẹ nào bỏ bê con cái cũng sẽ gặp lại nó, sẽ yêu mến nó, rồi nó sẽ chết sớm, để lại cho bà sự mến tiếc và đau khổ. Những trẻ bị hành hạ, có thể là những kẻ bạo tàn trong một tiền kiếp.

Đại khái, đó là một vài mẫu nhân và quả tương đồng đi kề nhau. Nhưng tôi xin lập lại là không nhứt định có một qui luật tổng quát, v́ tác động của nhân quả vô cùng phức tạp, ngoài tầm hiểu biết của chúng ta.

Và để cho bạn đọc ư thức tính cách phức tạp ấy của luật Nhân Quả, tôi xin nói thêm rằng, luật nầy chẳng những chi phối đời sống cá nhân mà cả vận mạng thế giới nữa. Mỗi nước có một nghiệp quả mà dân trong nước cùng tạo ra. Chiến tranh, tai trời, dịch bịnh v. v. . . ., tàn sát cả muôn cả ngàn người, ấy là những nghiệp quả chung. Quyển Ánh Sáng Trên Đường Đạo dạy: “Con hăy nhớ tội lỗi và ô nhục thế giới là tội lỗi và ô nhục của con, v́ con là một thành phần của thế giới. Nghiệp quả của con được kết liền vào nghiệp quả chung”.

VÀI BIỆN BÁC VỀ LUẬT NHÂN QUẢ    
   
mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Bạn sẽ hỏi: “Các điều nói trên rất đẹp. Nhưng đâu là bằng chứng ? Chúng nó rất mới mẻ, khác hẵn những điều tôi biết và chúng làm tôi ngạc nhiên.”

Tôi nghĩ, khi bạn đến với tôi là bạn cần một vài an ủi. Nếu tôi tŕnh bày các bằng chứng Thông Thiên Học, tôi phải để nhiều th́ giờ và vượt xa vấn đề đau khổ mà không làm cho nó sáng tỏ thêm. Tuy nhiên nếu bạn thấy các ư kiến tôi vừa tŕnh bày có một ít giá trị, hay có thể an ủi bạn, bạn nên đọc sách Thông Thiên Học để t́m các bằng chứng nói trên. Bạn hăy cố đi sâu vào giáo lư của chúng tôi, rồi sau khi nghiên cứu tinh tường, rất có thể, những chi bây giờ chỉ là giả thuyết sẽ trở thành một Chơn lư sống động.

NHỚ LẠI TIỀN KIẾP 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Tuy nhiên, bạn có thể đưa ra một biện bác tự nhiên liên hệ đến vấn đề đau khổ, một lối bác bẻ mà tôi đă được nghe nhiều lần. Nó như thế nầy: “Bà nói rằng luật Nhân Quả rất công b́nh, nhưng phải chăng công b́nh, khi chúng ta đau khổ v́ những nhân mà ta đă tạo ra ở kiếp trước, và bây giờ không c̣n nhớ được một mảy may ǵ.”

Đó quả là một bác bẻ rất tự nhiên, tôi xin lập lại như thế. Song le hẵn quư bạn không nghĩ đến điều nầy: “đối với đa số nhân loại, có một vài sự kiện mà con người không thể thực hiện trong cơi hữu h́nh, nghĩa là chúng ta không thể nhớ được các tiền kiếp”.

Tại sao ta không nhớ các kiếp trước của ta ? Là v́ trong mỗi kiếp, chúng ta có một xác thân khác, một khối óc khác. Khối óc là một dụng cụ mà linh hồn chỉ dùng trong một kiếp người mà thôi. Vả lại, nếu bạn không thể nhớ tất cả kỷ niệm của thời thanh xuân hay thơ ấu, những kỷ niệm mà chính khối óc bạn đă ghi nhận, th́ làm sao bạn có thể nhớ các việc xảy ra trong tiền kiếp ? Tuy nhiên, đôi khi có những bộ óc tinh vi có thể ghi nhận được các rung động vi tế của Chơn Nhơn. Trong trường hợp nầy, người ta có thể nhớ ít nhiều các tiền kiếp. Hơn nữa, khi con người xuất khỏi thể xác trong giấc ngủ, th́ nhớ lại quá khứ; v́ thể Vía (cảm thể hay thể t́nh cảm) ghi nhận dễ dàng các rung động nói trên. Trong thể Trí, tinh vi hơn nữa, các kỷ niệm nầy c̣n rơ ràng và chân xác bội phần. Riêng về con người tiến hóa cao đă thực hiện được sự liên lạc giữa khối óc vật chất (Phàm Ngă) và Chơn Nhơn, người ấy có thể nhờ Chơn Thân mà nhớ lại rơ ràng tất cả kiếp trước (v́ thể nầy vốn trường tồn từ kiếp nầy sang kiếp khác).

Người ta thường sánh Chơn Nhơn với một xâu chuỗi ngọc trai mà mỗi hạt trai là một kiếp sống. Với sự so sánh nầy, bạn hiểu rằng, khi chúng ta đặt được chiếc cầu giữa tâm thức vật chất (Phàm Ngă) [7] và Tâm Thức siêu đẳng (Chơn Ngă), th́ chúng ta nhớ lại trọn vẹn quá khứ.

Ta thấy rằng kiếp trước của ta thế nào th́ bây giờ đời sống chúng ta thế ấy. Chúng ta hăy cổi bỏ những ǵ chúng ta đă hoạch đắc trong kiếp nầy và nhớ lại những khuynh hướng của chúng ta lúc nhỏ, những thói hư và nết tốt bẩm sinh, những sở đoản và sở trường, những điều ḿnh ưa hay ghét, th́ chúng ta biết được dễ dàng cá nhân của ḿnh trong kiếp chót, kế đây.

Bây giờ chúng ta đề cập lại vấn đề công bằng đặt ra như vầy: “Có công bằng chăng, khi ta phải chịu đau khổ v́ những lỗi lầm xảy ra trong các kiếp trước ?” Để trả lời câu hỏi nầy, tôi xin nhường lời lại cho một ng̣i bút hùng biện và có uy tín hơn tôi.

Sự lăng quên có xóa mất những lỗi lầm hay tiêu hủy các hậu quả của các lỗi lầm ấy chăng ? Một kẻ sát nhân quên mất vụ án mạng gây ra bữa trước, có thay đổi được hành động hay hậu quả việc làm đă rồi của anh chăng ? Các kiếp lai sinh chỉ là hậu nhựt của những tiền kiếp. Và nếu nước từ bi của sông Léthé [8] đă xóa mờ quá khứ, những năng lực tích tụ ở linh hồn từ đời nầy sang đời nọ, vẫn tác động ở tương lai.

Trái lại, nếu người ta có thể nhớ các kiếp trước, th́ sự bất công khắc khe sẽ hiện ra, v́ chúng ta sẽ đau khổ triền miên trước một quá khứ dẫy đầy tội lỗi xấu xa, một quá khứ có thể đă hoen ố v́ án mạng nữa.

Hơn nữa, nếu ta biết tại sao ta bị phạt, nghĩa là, nếu ta biết rơ lỗi nào của chúng ta đă làm, sẽ gây ra trừng phạt nào; và chừng nào h́nh phạt ấy sẽ xảy ra trong cuộc đời ta, th́ phải chăng trừng phạt ấy sẽ quá nặng nề, so với tội lỗi của chúng ta. Chừng ấy, người người đều nguyền rủa vị nào lại bắt chúng ta nhớ các kiếp trước, để biến đời sống thành một nguồn khốn khổ không nguôi, một nỗi kinh hoàng không dứt và làm tê liệt mọi hoạt động, mọi sáng kiến của chúng ta, trong một giấc mộng quá khứ hăi hùng.

Con người tuy thường bất công hay hung ác cũng không muốn cho kẻ tử tội đau khổ, v́ vậy, cho đến phút chót mới cho anh biết sự bác đơn ân xá của anh. Xem thế th́, Luật Trời chẳng là kém từ bi hơn luật đời chăng ?

Vô minh như chúng ta, thật sự là một sự táo bạo khi chúng ta phỉ báng những công tŕnh vĩ đại của các Đấng Minh Triết. Nếu chúng ta hiểu biết chút ít, nếu chúng ta cảm thông ít nhiều với Cơ Trời mầu nhiệm, chúng ta sẽ thấy rằng ơn Trời không bỏ quên một mảnh nhỏ nào của vũ trụ, hay một sinh vật nào, mà không chăm nom như một Đấng Cha Lành. Và chúng ta cũng ư thức được rằng: “Nơi nào v́ mù quáng, chúng ta thấy toàn sự rỗng không, sự bất toàn hay bất công, th́ một tia sáng rực rỡ chỉ cho chúng ta thấy sự sống lan tràn khắp nơi và ban rải t́nh thương cho vạn vật thân yêu, từ hột nguyên tử c̣n ngủ say, đến Chơn Linh Hành Tinh chói ḷa, mà Tâm Thức bao trùm toàn vũ trụ.

Thật ra, chính sau khi chết, một khi thoát ra khỏi các lớp vỏ hư ảo, linh hồn mới có thể soát lại một cách vô tư kiếp sống vừa qua và kiểm điểm tất cả hành động và hậu quả cùng với các lỗi lầm và sa ngă, với các động lực và nguyên nhân. Nhờ thế, linh hồn gia tăng kiến thức, khả năng và chiến đấu dễ dàng hơn với các chướng ngại đồng loại ở một kiếp sau. Như vậy, những chi nó học đều được lưu lại với nó. Những cái chi nó không biết th́ bây giờ biết được, và xuyên qua “Tiếng Nói Của Lương Tâm”, tiếng nói nầy bảo cho Phàm Nhơn biết đâu là bổn phận. Sự minh triết nầy là kư ức toàn hảo, v́ nó là tinh hoa của muôn ngàn kinh nghiệm trải qua. Trong những lúc cần phải quyết định khẩn cấp, con người nhờ nó chớ không sao ngồi ôn lại những sự việc liên hệ đă xảy ra trong quá khứ xa xăm, để t́m một lối xử sự tốt đẹp. Bài học đă được chiêm nghiệm và đồng hóa trong sự an lạc ở bên kia cửa tử. Do đó, linh hồn mới ứng đáp lanh lẹ, quả quyết và chắc chắn, như nó luôn luôn nghe tiếng gọi phân minh dường như ra lệnh cho nó: “Hăy làm điều nầy, hăy tránh điều nọ. . . .”

Dù sao trên đường tiến hóa, một ngày kia, những tư tưởng trong khối óc sẽ trở nên tinh vi, sau nhiều năm tinh luyện, và nhờ vậy mà con người nhớ được các kiếp trước. Nhưng, đến lúc nầy th́ các kư ức ấy không c̣n nguy hiểm, v́ linh hồn đă trả xong một phần lớn các nghiệp báo xấu, và cũng đủ dũng cảm để phù tŕ Phàm Nhơn, trước viễn ảnh đau khổ sắp xảy ra.

Trong Cơ Tiến Hóa thiêng liêng, mọi việc đều xảy ra đúng lúc, trong một phối hợp toàn mỹ, khiến người ta không sao không nh́n nhận sự toàn năng của Đấng Hóa Công.

SỰ CẦU NGUYỆN 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Đây là một phác họa vội vàng và tất nhiên là bất toàn về Đại Luật Công Bằng cao cả và bất biến, do đó mà cuộc đời của chúng ta diễn ra thành một chuỗi nhân quả kế tiếp. Hẵn nhiên, một phác họa vội vàng, đôi khi không khỏi mang nhiều bất lợi, có thể tạo nên hoài nghi và ít nhiều dị luận. Chẳng hạn như vài biện bác vừa được giải đáp ở đoạn trước. Bạn có thể hỏi: “Cần chi phải cầu nguyện, khi đă tin vào Luật Nhân Quả. Tin tưởng “nhân nào, quả nấy”, tức là phủ nhận quyền năng của mọi sự cầu nguyện rồi.”

Nếu bạn cho rằng: “cầu nguyện là một nhu cầu tinh thần th́ bạn nên cầu nguyện.” Lúc bấy giờ, sự cầu nguyện là một mănh lực tinh thần đem lại bạn nhiều phấn khởi và sự an tịnh. Cầu nguyện là mở rộng tâm hồn đón nhận ảnh hưởng thiêng liêng. Khi nguyện cầu, bạn tắm hồn trong cảnh giới thanh cao.

Nhưng coi chừng, bạn cần nên hiểu kỹ danh từ “cầu nguyện”. Thường th́ đa số người ta cầu nguyện để xin những lợi lộc vật chất; những ham muốn nhỏ nhen. Chẳng hạn: cầu an, cầu lợi, cầu danh, cầu phước, cầu lộc, cho thân nhân hoặc cho ḿnh. Sự cầu xin ấy chỉ là những mong ước ích kỷ tầm thường, để củng cố cho hạnh phúc riêng tư và bám níu ảo ảnh. Đó là những ước vọng vô minh.

Đối với chúng tôi, người Thông Thiên Học th́ cầu nguyện là: “cho ra”. Cầu xin là nguyện vọng nồng nàn dâng lên Thượng Đế, vị Thượng Đế ở trong ta và ở ngoài ta. Đó là sự hiến dâng ḿnh cho Thiên Ư, sự chiêm ngưỡng một lư tưởng cao siêu, một cử chỉ phục tùng, một niềm tin tưởng và tri ơn nồng nàn hướng về Thiên Luật Cao Cả. Cầu nguyện c̣n là lời kêu gọi tha thiết được phù trợ về tinh thần, trong những ngày đen tối đầy thử thách.

Cầu nguyện như thế khác xa với sự cầu nguyện ích kỷ, thiếu hẵn tâm từ, để van xin lợi lộc vật chất. Ở thế gian hằng ngày bạn cũng đă từng thấy diễn ra măi sự van xin lợi lộc của người đời, và người ta cũng được toại nguyện dễ dàng khi nhiệt thành mong muốn. Sự cầu xin lợi lộc vật chất không thể nào vượt lên các cơi cao. Nó phát từ cơi thấp (cơi trần) nên nó gây ảnh hưởng và đơm bông kết trái tại cơi ấy.

Đức Christ có nói: “Đức Cha trên Trời biết rơ nhu cầu của các Người, trước khi các Người cầu xin Ngài. . .” Vậy th́, chúng ta cần chi phải cầu xin ?

Nếu bạn chưa hiểu được Luật Trời, mù tịt về tương lai vận mệnh bạn, th́ chắc ǵ những điều cầu xin của bạn không đi ngược lại với quyền lợi và sự phát triển tinh thần của bạn ?

Phàm Ngă vốn sợ đau khổ, thích một cuộc đời không phiền toái, ưa sống an nhàn và êm ấm; trong khi Chơn Ngă, với những kinh nghiệm chưa thật vững vàng, biết rằng: “Con người chỉ tiến nhanh và thành công nhứt trong đau khổ cùng nghịch cảnh, nhờ những trận chiến nội tâm quyết liệt . . .”

Nói thế tất có bạn thất chí, mất tin tưởng sẽ bảo: “Chúng tôi cũng không có  quyền cầu xin Thượng Đế xóa cho chúng tôi một phiền lụy nữa sao ?”

Bạn ơi ! ở đây tôi không nói đến “quyền” đâu ! Bạn có thể nắm níu cái “quyền” đó tùy ư bạn. Nhưng có lẽ bạn không làm thế, nếu bạn hiểu tôi. Và bạn sẽ vui ḷng cầu nguyện để được ban cho một năng lực tinh thần, hầu chịu đựng nổi bất cứ thử thách nào trên đời bạn. V́ bạn sẽ hiểu: Chính nhờ sự thử thách ấy mà bạn dứt khoát được món nợ đă vay. Đó là một cơ hội tiến bộ quư báu cho bạn.

Đối với người Thông Thiên Học, sự cầu nguyện tốt lành nhứt, thích hợp nhứt là: “Cầu xin cho Ư Chí ḿnh được thực hiện”. [9]

Mănh lực từ bi và thanh tịnh súc tích trong lời cầu nguyện trên. Có thể nói: Đó là bùa linh thiêng liêng, mà chỉ có ai đọc nó với tâm thành hay với niềm tin sâu xa mới cảm thông tuyệt đối !

Với bạn nào theo Giáo phái Calvin (Tân giáo phái thời xưa ở Genève vào thế kỷ 16), bạn c̣n có thể lập lại lời nầy: “Hỡi Thượng Đế, điều Ngài muốn . . . con xin tuân lănh ư Ngài ! . . . khi Ngài muốn. . .” V́ trong những cảnh giới thanh cao, Thượng Đế, Luật và Con Người là Một. Luật Nhân Quả thật rơ là sự biểu lộ ư chí của Thượng Đế.

Có thể bạn c̣n thắc mắc: “Đă đành là thế, nhưng tôi không thể cầu nguyện cho tha nhân sao ?”

Dĩ nhiên, bạn có thể cầu nguyện cho kẻ khác. Bạn hăy cầu xin cho người đau khổ được che chở tinh thần để đủ sức chịu đựng nghịch cảnh, mà không chán nản. V́ trong lúc bạn cầu nguyện, bạn đă thành tâm thông cảm và gởi đến người đau khổ thiện cảm và tư tưởng thanh tịnh của bạn. Đó là ân lành và tâm từ của v́ Thượng Đế trong bạn đă được ban ra và bao bọc, phù tŕ người đang chới với. Nhưng bạn chớ tin tưởng vào lời cầu nguyện thấp thỏi, dù là cầu nguyện cho anh chị em, cho huynh đệ của bạn cũng vậy.

Đa số người Thông Thiên Học không cầu nguyện. Nhưng nếu có thể, th́ cứ hằng ngày, vào một giờ nhứt định, họ để một thời gian riêng vào việc tham thiền. Phương pháp nầy khó hơn, trừu tượng hơn là sự cầu nguyện . . ., v́ nó là một kỷ luật tinh thần. Nhưng nó đem lại một kết quả tiến bộ rất rơ rệt, nhanh chóng và điều ḥa. Trong khoảng một khắc hay nửa giờ đồng hồ trầm tư mặc tưởng, hành giả Thông Thiên Học tập định trí một cách kiên tŕ. Sự tập trung tư tưởng làm tăng trưởng nơi chúng ta những quyền năng trí tuệ tâm linh, tùy hành giả định trí vào một đồ vật cụ thể, một tư tưởng trừu tượng hay một đức tính nhứt định.

Tóm lại, nếu sự định trí hướng về Tinh Thần Thượng Đế, về Nguồn Gốc của mọi Sự Sống, mọi năng lực, mọi an lạc, là nó hướng vọng và khích động v́ Thượng Đế nội tại.

VAI TR̉ CỦA TƯ TƯỞNG 
     mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Ở đoạn trước, chắc bạn ngạc nhiên mà nghe tôi nói rằng trên phương diện nhân quả, các tư tưởng và ư muốn của chúng ta c̣n tạo ra những nhân quan trọng hơn là hành động, và do đó nó cũng gây nhiều đau khổ hơn. Ở ngoài đời, lối cư xử của một người được xem là quan trọng hơn tư tưởng của anh. Người ta chỉ đ̣i hỏi anh hành động hợp lẽ, rồi thôi, c̣n nguyên nhân khiến anh hành động có vị tha hay không, tư tưởng của anh có thanh khiết hay không, cái đó không can hệ ǵ. Có nhiều trái cây vỏ ngoài rất tốt, nhưng bổ ra th́ ruột hư thối nát. Biết bao người, mă ngoài cũng tốt đẹp như vậy, mà đời sống nội tâm họ xấu xa, dơ bẩn, v́ bị đầu độc bởi những tư tưởng ích kỷ, bần tiện.

Trên phương diện nầy, Thông Thiên Học chủ trương một chiều hướng đạo đức khác hẳn, mà các bạn đă biết qua khi tôi tŕnh bày vấn đề thiện ác. Thông Thiên Học xem sự “chủ trị tư tưởng” quan trọng hơn là “chủ trị hành động”. Nếu tư tưởng chúng ta trong sạch, thanh cao, nếu ư muốn và nguyên nhân chơn chánh, vị tha, tất nhiên hành động sẽ tốt đẹp và đời sống con người sẽ trở thành một trung tâm đạo đức cao đẹp. Trái lại, nếu lối cư xử của chúng ta đứng đắn, mà tư tưởng hư hoại th́ chúng ta sẽ là một nguy cơ cho những người xung quanh, cho xă hội. Như vậy quư bạn thấy, khi chúng ta chỉ suy tư mà thôi th́ chúng ta đă tạo cho chúng ta những trách nhiệm rồi.

Mỗi tư tưởng là một động lực linh hoạt trong không gian. Tôi không nói đến các tư tưởng mập mờ, không chủ đích, tiếp nối không ngừng trong trí năo, mà tôi muốn nói đến các tư tưởng thật sự phân minh, rơ ràng và xác định. Các tư tưởng nầy có một đời sống và một h́nh dáng mà người có nhăn thông [10] có thể miêu tả. Khi nó được lập lại nhiều lần th́ càng trở nên mạnh mẽ, và nơi nào hạp với chúng th́ chúng được thu hút đến. Như vậy, một tư tưởng thương yêu hay hào hiệp sẽ củng cố các tư tưởng thương yêu hay hào hiệp khác. Trái lại, một tư tưởng oán ghét, hận thù, khi nhập vào trí óc của một kẻ yếu đuối, hèn hạ, th́ có thể xúi giục anh gây ra án mạng.

Như vậy, tư tưởng của chúng ta là những viên đá nam châm lúc nào cũng thu hút về với nó những tư tưởng đồng loại. Giữa chúng ta, có một trao đổi không ngừng, tạo cho mỗi người một trách nhiệm nặng nề, v́ nếu chúng ta có những tư tưởng bất chính dưới lớp vỏ đạo đức, chúng ta đầu độc bầu không khí tinh thần và tâm linh xung quanh, mà nhứt là con cháu trong nhà, v́ trẻ con rất nhạy cảm. Chắc quư vị có gặp những đứa trẻ “già háp”, chúng không c̣n tính chất ngây thơ và hồn nhiên, mà rất khôn lanh, xảo quyệt. Nguyên nhân của tâm trạng bất hạnh nầy là những tư tưởng xấu xa của người xung quanh cảm nhiễm chúng từ giây từ phút.

Những tư tưởng cũng là một lực lượng hùng hậu, tốt đẹp mà chúng ta có thể sử dụng để nâng cao mức độ đạo đức của nhân loại hay phát triển những t́nh cảm mến yêu, từ ái, rất cần để băng bó những vết thương ḷng. Chúng ta cũng có thể phát ra trong không trung những luồng sinh lực tâm linh để phấn khởi những linh hồn đau khổ. Chúng ta có thể tạo khắp nơi những động lực phúc đức, an lành. Đấy quả là một nguồn phúc lạc. Biết bao người ít phương tiện hoạt động ở cơi hữu h́nh, biết bao người đau ốm, bệnh tật, đui mù đều có thể trở thành ân nhân của nhân loại, nếu biết sức mạnh của tư tưởng ! “Dù bị giam nhốt trong ngục tù, chúng ta cũng có thể tự do hoạt động cho Thiên Cơ.”

SỰ CHẾT 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Trong khi luận về luật Nhân Quả; chúng ta đă nói qua sự đau khổ và vài ba nguyên nhân của nó. Giờ đây, tôi xin tŕnh bày cùng quư bạn một nguyên nhân thường xảy ra nhứt, và không ai tránh được: ấy là sự chết. Chúng ta đă mất bao nhiêu kẻ thân yêu và một ngày kia chúng ta cũng sẽ chết.

Đối với người Thông Thiên Học, “chết” không phải là một điều kinh khủng, nó cũng không chấm dứt đời sống con người. Nó chỉ là một sự thay đổi hoàn cảnh và trạng thái. Và với sự thay đổi nầy, chúng ta mang một lối sinh hoạt khác với lối sinh hoạt ở cơi trần. Khi bạn thấy một người Thông Thiên Học sợ chết, bạn hăy tự bảo rằng: người đó chưa phải là một người Thông Thiên Học. Người Thông Thiên Học thật sự luôn luôn thản nhiên và tin tưởng trước sự chết. Anh biết những ǵ đă xảy ra cho anh và xem sự chết không phải là một điều xa lạ hay đáng sợ. Anh biết các bạn thân sẽ đón tiếp anh nồng hậu ở bên kia cửa tử và sẽ chỉ dẫn anh trong cuộc đời mới mà anh sắp sống. V́ vậy anh không lo lắng. Nếu ở cơi trần anh có nhiều tật xấu, anh sẽ lưu lại lâu ở cơi Trung giới (ấy là cơi luyện tội của Cơ Đốc Giáo). Nhưng ở đây trong ít lâu, anh sẽ tự làm cho ḿnh trở nên hữu ích, và sống một cuộc đời hoạt động và tận tụy: đó là một điều an ủi lớn cho anh. Dù sao, anh cũng biết, sau một thời gian, nhờ các cố gắng và nguyện vọng của anh, anh sẽ thoát khỏi cơi nầy để sang cơi Thượng giới, nơi đây, anh sẽ hưởng một sự an lạc tuyệt vời.

Bạn ơi ! Sự chết chỉ có thế ! Vậy tại sao lại ghê sợ nó ? Tại sao ta xem nó như một vực thẳm tối om đang chờ chúng ta, thay v́ nh́n nó như một bước tiến vào cơi ánh sáng ? Những người thân mến của chúng ta không bao giờ chết, “mất”. Nếu ta xé được màn vật chất đang che mắt ta, nếu ta thoát khỏi cái thể xác vật chất nầy, chúng ta sẽ thấy họ vui vẻ, tươi cười. Họ sống như chúng ta đang sống. Họ thấy chúng ta và muốn an ủi chúng ta, nhưng chúng ta không thấy họ, không nghe họ, v́ thể xác vật chất của chúng ta không thể nhận được các rung động tinh vi phát xuất từ họ. V́ vậy, chúng ta tưởng không bao giờ gặp họ lại, cơ hồ như không có sự sống trường tồn ở bên kia cửa tử. Họ rất buồn rầu mà thấy chúng ta khổ sở một cách vô lư như thế.

Các bạn có biết không, ban đêm chúng ta thường đến với họ và sống bên họ, khi vía ta xuất ra khỏi xác thân đang ngủ. Chúng ta rất sung sướng được gần gũi họ, nhưng khi ta thức, ta không nhớ chi cả, v́ các rung động tinh vi của thể vía không thể chuyển sang khối óc xác thịt chưa được tinh nhạy của phần đông chúng ta.

Tuy nhiên, thỉnh thoảng một vài cảm giác c̣n lưu lại mơ hồ như những dấu vết của một giấc mơ: đó là những mảnh kư ức về sự sinh hoạt của chúng ta ở cơi Trung giới. Các cảm giác ấy tế nhị đến đỗi khi chúng ta muốn bám víu vào chúng th́ chúng càng tan mau.

Hơi các bạn đang khóc những người thân yêu dấu, nếu bạn sống một cuộc đời thanh khiết, nếu các bạn trau giồi các quan năng tri thức và đạo đức, nếu các bạn phát triển được một vài linh năng tiềm tàng ở các bạn, các bạn có thể chuyền sang khối óc vật chất của các bạn, những điều được thấy ở cơi Trung giới lúc ban đêm. Vậy nhớ được hay không những việc xảy ra ở cơi Trung giới là tùy các bạn. Đó là vấn đề thời gian, ư chí và kiên nhẫn. Ấy là kết quả sự phát triển đời sống nội tâm, của những quyền năng tiềm tàng mà người thế tục ít ai lưu ư.

SỰ CẤU TẠO HUYỀN BÍ CON NGƯỜI 
     mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Tới đây để vấn đề được sáng tỏ, chúng tôi bắt buộc phải tŕnh bày sự cấu tạo con người theo quan điểm Thông Thiên Học, và các cơi mà chúng ta sẽ sống với một tâm thức sáng tỏ, ngoài cơi hồng trần.

Con người không phải được cấu tạo một cách thô sơ với một thể xác và một linh hồn như các tôn giáo thường dạy. Sự cấu tạo con người phức tạp hơn. Theo giáo lư Thông Thiên Học, con người gồm tất cả bảy nguyên lư. Mỗi nguyên lư hoạt động trong một thể riêng, ở một cơi riêng đồng chất với thể liên hệ. Điều nầy khó hiểu nhưng suy kỹ th́ rất hợp lư.

Phần đông chúng ta hiểu rằng chỉ có một nguyên lư đau khổ, thương mến, suy tư, mong ước v. v. . . . Và nguyên lư ấy là Linh Hồn. Chúng tôi nghĩ khác. Đành rằng, Linh Hồn mà chúng ta không sao diễn tả, gồm tất cả các quan năng đó, nhưng nó biểu hiện trong nhiều môi vật, trong nhiều thể khác nhau; một thể cho t́nh cảm, một thể cho tư tưởng cụ thể, một thể khác cho t́nh thương và hạnh hy sinh v. v. . .

Để dễ hiểu, chúng tôi xin nêu một ví dụ: sự biểu hiện của điện. Tùy bản chất các vật nhận nó, điện biểu hiện khi th́ bằng ánh sáng, khi th́ bằng động lực, khi th́ bằng tác động hóa học v. v. . . .

Điện lúc nào cũng thế. Nhưng sự biểu hiện th́ khác. Linh hồn cũng vậy, nó có tính cách duy nhứt. Nhưng biểu hiện th́, lúc bằng t́nh cảm, lúc bằng tư tưởng.

Các thể nói trên được gọi là bảy nguyên lư của con người. Bảy nguyên lư đó được chia làm hai phần: bốn nguyên lư dưới tạo thành Phàm Nhơn, ba nguyên lư cao tạo thành Chơn Nhơn. Bốn cái trước vô thường, tạm bợ; ba cái sau bất diệt, trường tồn.

Bây giờ, các bạn đă quen với thuyết luân hồi, bạn nên nhận rơ ràng, Phàm Nhơn chẳng qua là đại diện, hay nói đúng hơn là, dụng cụ của Chơn Nhơn ở cơi trần. Phàm Nhơn của chúng ta dù nam hay nữ, dù sang hay hèn, dù b́nh dân hay vương giả, nó chỉ nhắm một mục đích, một chức vụ, là: thu thập kinh nghiệm giúp Chơn Nhơn phát triển, v́ các kinh nghiệm, sau mỗi lần chết, đều tích tụ ở Chơn Nhơn, từ kiếp nầy sang kiếp khác.

Quư bạn sẽ hỏi tôi: “Phàm Nhơn gồm những ǵ ?” Tôi xin đáp lại bằng một câu hỏi khác: “Những ǵ tạo ra đời sống của chúng ta ?” Đời sống của chúng ta được tạo bằng hành động, bằng t́nh cảm, bằng tư tưởng. Và hành động biểu lộ bằng thể xác, t́nh cảm bằng thể vía (thể t́nh cảm), tư tưởng bằng thể trí.

Thể vía và thể trí được gọi bằng danh từ chung là: “Vía Trí”. V́ trong sự tiến hóa của con người, trong một giai đoạn khá dài, tư tưởng kết liên với t́nh cảm. Hai thể nầy được tạo ra bằng những vật liệu tinh vi hơn chất dĩ thái. Ngoài hai thể trên, ta c̣n một thể nữa gọi là thể phách, tạo ra bằng chất dĩ thái, mà nhiệm vụ của nó là thu hút sinh lực của thái dương để nuôi thể xác xuyên qua hệ thần kinh. Nó c̣n làm trung gian giữa một bên, thể “Vía Trí”, và một bên, thể xác. Chính nó chuyền qua thể xác, cảm xúc của thể vía, và tư tưởng của thể trí. Vậy, chính do thể vía mà chúng ta đau khổ, sung sướng, và do thể trí mà chúng ta suy tư, lư luận.

Xác, vía và trí là dụng cụ của chúng ta ở cơi trần. Chính chúng nó tạo thành Phàm Nhơn, và đổi mới trong mỗi kiếp. Sự cấu tạo của chúng tùy luật Nhân Quả. Chúng nó thể hiện tất cả những quả mà chúng ta đă gieo. Dù chúng nó như thế nào: tốt hay xấu, tầm thường hay siêu việt, chúng ta phải thọ lănh một cách vui vẻ. Điều quan trọng là chúng ta phải cố gắng tinh luyện chúng, đồng thời sử dụng chúng một cách khôn ngoan. Làm thế, chúng ta c̣n gieo cho tương lai nữa.

 ******

Nhưng không phải hết đâu. Chúng ta hăy quan sát chúng ta, hăy xem chúng ta sinh hoạt, rồi chúng ta sẽ thấy trong chúng ta có cái ǵ cao sêu, khả kính và trầm lặng. Trong những lúc tâm ta an tịnh, nó trồi lên để kêu gọi những ǵ đẹp đẽ nhứt ở ḷng người. Sự hỗn loạn của lục dục, thất t́nh, che lấp tiếng huyền diệu ấy, những khi cảm xúc và tư tưởng lắng dịu, chúng ta có thể giao tiếp với tinh thần nội tại ấy, mà giáo lư Thông Thiên Học gọi là Chơn Thần.

Như quư bạn thấy, sự cấu tạo con người rất phức tạp, khác hẳn lư thuyết đơn giản được chấp nhận bấy lâu. Theo sự cấu tạo ấy, con người gồm:

1- Một Phàm Nhơn, hoạt động với nhiều cơ quan, mỗi cơ quan có một chức vụ riêng. Nó có tánh cách vô thường.

2-  Một Chơn Nhơn, với những linh năng mộc mạc lúc đầu, nhưng về sau phát triển lần lần.

3- Một Chơn Thần cao cả, hướng dẫn sự tiến hóa của chúng ta. Ấy là Thượng Đế ở ḷng ta. Đề cập đến Chơn Thần, Thánh Paul nói: “Tinh thần Thượng Đế ngự ở chúng ta”. Và Đấng Christ dạy: “Đây nầy tất cả các người đều là Thượng Đế”.

  ******

Qua sự giải thích đơn giản nầy, điều nên lưu ư là đừng lầm Chơn Ngă và Phàm Ngă. Đứng quan trọng hóa Phàm Ngă. Nó chẳng qua là dụng cụ của Chơn Ngă mà thôi. Đừng khi nào cho ta là Phàm Ngă đó. Đừng khi nào đồng hóa ta với xác thân, với t́nh cảm, với tư tưởng của chúng ta. Được như thế, Phàm Ngă sẽ ngoan ngoăn phục tùng và chúng ta sẽ tránh được nhiều chiến đấu đau khổ, không phí phạm sinh lực và sẽ được b́nh an.

Chơn Ngă luôn luôn b́nh thản và đứng ngoài các biến cố của cuộc đời, đó là điểm Linh Quang của Thượng Đế ở ḷng ta.

Chúng ta phải đồng hóa với Chơn Ngă ấy, phải cố tiến đến sự ḥa hợp với cái Ta thật ấy.

Khi nói với Đức Ki Tô, Thánh Baptiste bảo: “Ngài phải tăng trưởng, c̣n tôi phải tiêu ṃn”. Đó là điều phải xảy ra ở ḷng ta, nó sẽ đến với chúng ta, nếu chúng ta nhận định thế nào là Chơn Ngă bất diệt, thế nào là Phàm Ngă vô thường. Phàm Ngă phải tiêu ṃn lần để nhường chỗ cho Chơn Ngă: Tâm Thức thiêng liêng, cho Thượng Đế ở ḷng ta măi măi tăng trưởng. Đó là sự ḥa hợp với Chơn Ngă. Đức Ki Tô phán: “Ta với Cha ta là một”. Sự ḥa hợp thiêng liêng trác tuyệt ấy sẽ đến với chúng ta trong tương lai [11]. Trong lúc chờ đợi; “Đời sống chơn thật của con người là sự an nghỉ trong sự ḥa hợp với Chơn Ngă tối thượng [12]”. “Đừng sống trong hiện tại, đừng sống trong tương lai, mà hăy sống trong vĩnh cửu [13]”.

CƠI TRUNG GIỚI 
mục lục đầu sách cuối sách chú thích

 Linh hồn tác động trong năm cơi tùy theo thể của nó. Trong năm cơi đó, chúng ta gác qua cơi trần mà ai ai cũng biết, và hai cơi trên v́ chúng vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta.

Tôi đă nói qua cơi Trung giới, đó là cơi của cảm xúc, một cơi có sắc tướng như cơi hồng trần, những vật chất cơi ấy tinh vi quá nên chúng ta không thấy và khoa học cũng không quan sát được. Những rung động của cơi ấy biểu hiện bằng t́nh cảm và dục vọng nên người ta gọi nó là Dục giới. Vật chất của cơi nầy lẫn lộn với vật chất cơi trần, cũng như vật chất các cơi trên nữa lẫn lộn với nó. Vật chất các cơi thanh trược khác nhau, nhưng lẫn lộn nhau cùng một chỗ.

Sau khi từ trần, con người sang qua cơi Trung giới. Cơi nầy rất giống cơi trần, v́ nó cũng là cơi sắc giới, và các vật thể của cơi trần đều có ở đây. Cũng như cơi hồng trần có nhiều chất: đặc, lỏng, hơi, dĩ thái; cơi Trung giời cũng có nhiều chất thanh trược khác nhau. Cơi nầy được chia làm nhiều cảnh phân minh, từ cảnh đông đặc, trọng trược nhất đến cảnh tinh vi nhất.

Trong thời gian sống ở cơi trần, thể vía của chúng ta được tạo ra bằng cảm xúc. Nếu cảm xúc ấy trọng trược, thể vía chỉ gồm những chất trọng trược của cơi Trung giới, do đó, sau khi chết, nó bị giữ lại lâu trong cảnh thấp nhất của cơi nầy. Cảnh nầy đen tối, bẩn thỉu nên được sánh với địa ngục, nhưng nó không giam giữ linh hồn đời đời. . . Ở cảnh nầy, các linh hồn xấu xa, đê tiện rất khổ sở, v́ các dục vọng của họ bị nung đốt và các thèm khát của họ không thể thỏa măn được (v́ xác thể là phương tiện của dục vọng không c̣n). Cảnh nầy tương tựa cảnh trần, nên họ thường sang qua cơi trần, tiếp tục lân la các nơi bẩn thỉu như lúc sanh tiền, và c̣n chuyền cho những người ở đây những tư tưởng tà vạy, tội lỗi. Họ là “ác quỷ” mà Kinh Thánh và Kinh Phật thường nói, nhưng họ không ở măi trong t́nh trạng đó, mà nhờ quyền lực nhiệm mầu của cơ Tiến Hóa, dục vọng của họ lần lần tiêu ṃn, chất ô trược lần lần bị đào thải, và họ sẽ vươn lên các cảnh cao.

May thay, những người thân yêu của chúng ta sau khi từ trần không đến các nơi buồn thảm đó. Sau khi rời bỏ xác thân, họ bất tỉnh trong một thời gian vài ngày hay vài giờ, rồi thức tỉnh trong một cảnh của Dục giới, tương ứng với thể chất cấu thành dục thể (thể vía) của họ. Ở đây họ ư thức rơ ràng mọi việc, nếu ở trần gian họ đă phát triển quan năng suy tư. Qua sự trung gian của thể vía, họ tiếp xúc được với cơi Trung giới, nơi đây sự vật cũng hiển nhiên, thấy được, rờ được, giống y như ở cơi trần. Họ cũng cảm xúc, cũng suy tư, và quan năng suy tư của họ c̣n linh hoạt hơn, v́ họ không c̣n bắt buộc suy tư bằng khối óc vật chất (óc của xác thịt). So sánh đời sống bây giờ với đời sống trần gian, họ thấy rơ đời sống trần gian. Họ nhận thấy rơ đời sống ấy quả là một “ảo ảnh”.

Như vậy, các người thân mến của chúng ta được b́nh an và hạnh phúc trong lúc tạm lưu ở cơi Dục giới, nếu ở cơi trần họ có một đời sống thanh cao. Ở đó họ có thể đảm nhận những công việc trí thức hay nghệ thuật mà họ thích. Điều kiện sinh hoạt của họ tùy thuộc cảnh mà họ lưu trú. Trong trường hợp họ ở các cảnh cao, họ có thể tưởng là họ ở cơi Thiên Đường.

THẦN LINH HỌC 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Tôi tưởng cần nói ít lời về sự tai hại có thể xảy ra cho các bạn ta ở cơi Trung giới. Tai hại đó là sự buồn thảm của ta và sự cầu hồn.

Bánh xe Tiến Hóa lúc nào cũng quay và khi con người từ trần, nhờ tác động của nó, thể vía vứt bỏ lần lần các chất trọng trược, trở nên tinh khiết và vươn lên các cảnh cao. Sự tiến hóa ấy được thuận đà và thúc nhanh hơn là nhờ các nguyện vọng cao đẹp của linh hồn. Nhưng nếu các người thân yêu ở cơi trần khóc lóc, thở than, linh hồn sẽ đau khổ và bị lôi kéo trở lại cơi trần. Như vậy, vong linh không siêu thăng được, và mất rất nhiều th́ giờ, cho đến khi nào họ giác ngộ và hướng mắt lên các cơi trên.

Việc cầu hồn c̣n tai hại hơn. Tôi không cố ư công kích đường lối và phương pháp của các bạn Thần Linh Học. Các bạn ấy là những nhà khảo cứu tận tụy và chơn thành. Trong hiện tại họ là những nhà tiền phong trong việc thám hiểm cơi vô h́nh. Nhiều bạn chúng ta đă đi ngang qua giới thần linh trước khi bước vào Thông Thiên Học.

Thần Linh Học và Thông Thiên Học đều chống lại thuyết duy vật, nhưng đôi bên dùng những phương tiện khác nhau. Các nhà Thần Linh Học áp dụng phương pháp thực nghiệm, họ t́m cách liên lạc với cơi vô h́nh bằng cách gọi các vong linh trở lại cơi trần với những phương tiện vật chất. Trái lại, các nhà Thông Thiên Học cố thoát ra khỏi thể xác, họ tập xuất vía, để tự ḿnh quan sát các cơi vô h́nh và tiếp xúc trực tiếp với các vong linh. Phương pháp nầy đ̣i hỏi một đời sống thanh khiết và nhiều cố gắng liên tục.

Sự so sánh sau đây của một bạn tôi, giúp chúng ta hiểu rơ hai phương pháp ấy. Một hôm, bạn có nói với tôi: “tôi có cảm giác các bạn Thần Linh Học cắt cánh các vị Thiên thần để họ sa xuống cơi trần, c̣n các nhà Thông Thiên Học th́ cố gắng làm cho cánh ḿnh mọc ra để bay lên gần các Đấng ấy”.

Về các hiện tượng Thần Linh Học, các nhà Thông Thiên Học tin rằng có, nhưng về nguyên nhân các hiện tượng ấy, họ luôn luôn không đồng ư với các bạn Thần Linh Học, v́ trong thiên nhiên có rất nhiều năng lực huyền bí mà con người chưa hiểu được. Trong trường hợp có sự liên lạc thực sự với người chết, th́ một vài tai hại có thể xảy ra. Trước hết, vong linh không thể siêu thăng sớm. Hơn nữa, trong trường hợp bất đắc kỳ tử, sự liên lạc ấy đánh thức một cách đột ngột vong linh đang mê, làm cho vong linh đau khổ nhiều, v́ cảnh giới xung quanh ḿnh rất âm u, bẩn thỉu. Nếu vong linh ấy c̣n đam mê các thú vui vật chất, nỗi đau khổ sẽ gia tăng v́ vong linh không thể thỏa măn các thú vui ấy trong cơi Trung giới. Do đó, vong linh t́m cách ám ảnh đồng tử để hưởng một ít dục lạc trần gian.

Đôi khi, có những vong linh cần liên lạc với người sống để căn dặn một vài điều khẩn cấp. Trong trường hợp nầy, chúng ta nên thỏa măn ư nguyện của họ để giúp họ nhẹ nhàng siêu thăng. Nếu vong linh t́m cách liên lạc với chúng ta, chúng ta không nên cản trở, nhưng chúng ta đừng gọi họ về, v́ làm thế, ta không giúp họ, mà c̣n gây hại. Chúng ta hăy cầu nguyện cho họ và giao phó họ cho các Đấng Cứu Trợ Vô H́nh, đó là phương cách hay hơn hết.

NHỮNG ĐẤNG CỨU TRỢ VÔ H̀NH 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Có lẽ các bạn sẽ hỏi tôi: “Các Đấng Cứu Trợ Vô H́nh là ai ?” [14]

Đây, chúng tôi lại đề cập đến một trong những đặc ân to lớn của Thông Thiên Học. Đối với người Thông Thiên Học, sự hiểu biết cơi vô h́nh lúc đầu có tính cách lư thuyết, nhưng về sau trở nên thực tế, v́ họ tiếp xúc với cơi ấy một cách ư thức. Những Đấng Cứu Trợ Vô H́nh là các Huynh Trưởng của chúng tôi tu đă đến mức khá cao, và được đặc ân giúp đỡ nhân loại bên kia cửa tử. Các Ngài phụng sự nhân loại ngày và đêm, v́ đối với các Ngài, thời gian yên ngủ không phải là thời gian bỏ đi. Trái lại, khi xác thân ngủ, th́ vía các Ngài xuất ra, qua cơi Trung giới để an ủi vong linh mới từ trần và hướng dẫn họ tiến lên ánh sáng. Biết bao vong linh đau khổ, đáng thương trên cơi mới lạ, v́ thành kiến, v́ sợ hăi, nhất là sợ Địa Ngục. Các Đấng Cứu Trợ Vô H́nh trấn an họ, và giảng giải cho họ biết cách thức siêu thoát lên các cơi trên.

Các Đấng ấy giúp đỡ (tùy nghiệp lực của nhân quả) những người c̣n sống ở cơi trần, trong những thiên tai hay hoạn nạn khác nhau. Sự giúp đỡ của các Ngài hiện ra như phép lạ. Biết bao nhiêu người được vững tâm, an tịnh trong những cảnh cùng bách khó khăn, nhờ các Ngài.

Tuy nhiên, con số các vị Cứu Trợ Vô H́nh c̣n rất ít, và mỗi hội viên Thông Thiên Học có bổn phận tinh luyện ḿnh như thế nào để có thể đảm đương những công việc tốt đẹp đó, tức là gia tăng đội Thiên Sứ phù trợ vô h́nh ấy.

Trước khi có thể tự ḿnh xuất vía như các Ngài, chúng ta có thể đảm nhận một phần công việc nói trên. Khi chúng ta muốn giúp đỡ người nào, trước khi ngủ, chúng ta hăy cầu nguyện và quyết tâm đến giúp người đó. Nhờ vậy, trong khi ta ngủ, vía ta sẽ đến với người ấy để giúp an ủi, dắt d́u. Đến lúc thức, đành rằng là ta không nhớ ǵ, nhưng nhớ hay quên, việc ấy không quan trọng, quan trọng là sự giúp đỡ của chúng ta, và sự giúp đỡ ấy có thực. Quả thật, nhiều linh hồn đau khổ, dù c̣n tại thế hay đă qua đời, được trấn an và phấn khởi bởi những lời khích lệ của chúng ta. Nhớ được các việc chúng ta làm ở cơi Trung giới là một điều khó, và, đối với chúng ta mới tu tập, quên đi là điều tốt hơn. Đôi khi, khi thức giấc chúng ta c̣n giữ một ấn tượng trong giấc ngủ, tuy yếu nhưng rất chắc, và như thế, cũng đủ khuyến khích chúng ta trong thời kỳ sơ tu.

Tôi có thể giải thích với các bạn các thứ chiêm bao và các kư ức về công việc đă làm ở bên kia cửa tử, nhưng làm thế, tôi sẽ vượt khỏi khuôn khổ quyển sách nầy.

ĐỪNG BUỒN RẦU 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Các bạn thân yêu ơi ! một lần nữa, tôi xin bạn đừng buồn rầu. Sự buồn rầu ấy không những vô ích mà c̣n có hại, v́ nó cản trở sự tiến hóa của vong linh. Đừng gọi họ trở xuống với bạn, trái lại, bạn hăy vươn lên để gặp họ. Sự thương yêu của bạn phải là một sức mạnh giúp họ tiến chớ đừng là một khối đá bắt họ dừng chân. Làm sao cho sự cầu nguyện của quư bạn giống như một hạt sương mát mẻ đối với họ. Làm sao tư tưởng quư bạn thắm đượm t́nh thương, niềm tin và hy vọng, để tạo cho họ một bầu không khí an tịnh và tươi sáng !

Quư bạn hăy sống một cuộc đời cao thượng, thanh khiết. Đó là một cách hữu hiệu nhất để tỏ ḷng mến yêu họ. Là v́ đời sống của bạn càng thanh cao, vị tha và quảng đại, bạn càng hoạt động hữu hiệu ở cơi vô h́nh. Các bạn đừng buồn rầu, đừng tuyệt vọng, đừng nghĩ rằng người thân của bạn không c̣n ở cơi trần là đời bạn đă hết ! Bạn hăy sống bằng an như họ c̣n ở bên cạnh bạn, và bạn hăy nhiệt thành, tận tụy trong công việc hằng ngày của bạn.

T̀NH XƯA NGHĨA CŨ 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Phải, bạn hăy sống thanh cao, sống bằng an, rồi bạn sẽ t́m lại các người thân mến, không phải ở bên kia cửa tử mà thôi, mà c̣n trong các kiếp vị lai nữa. Bạn sẽ cùng sống với họ, cũng như bạn đă sống với họ.

Bạn đừng nghĩ rằng, những dây ràng buộc thân thiết, những cảm t́nh sâu đậm kết hợp bạn với họ chỉ phát sinh trong kiếp nầy thôi. Nó đă có từ thuở xa xưa, vô cùng xa xưa. Theo thuyết Luân Hồi, nếu bạn yêu mến họ tha thiết, là v́ bạn đă yêu mến họ ở một kiếp nào. Do lẽ đó, ta mới giải thích nổi những mối thiện cảm tự nhiên cũng như những t́nh thương đột ngột giữa những người vừa mới quen biết mà đă khắn khít với nhau ngay. Thường thường người ta cho đó là những “tiếng sét t́nh”, nhưng thật là những dây nhân quả tái nối, những thâm t́nh đă được kết tạo từ các tiền kiếp.

Trên đường đời, trong kiếp nầy, v́ hậu quả của một mối t́nh tốt đẹp hay tội lỗi xa xưa, mà luật Nhân Quả đă đặt chúng ta đối diện với những tâm hồn liên hệ, khi th́ cùng chung sống gắn bó vô cùng mật thiết với nhau trong hạnh phúc êm ấm đủ đầy, khi th́ khổ tâm chịu đựng nhau, sống cạnh nhau, lạnh lùng như người xa lạ, hoặc cam chịu cảnh ly cách năo ḷng suốt kiếp. Cạnh chúng ta, cũng có những người mà chúng ta khó làm thân, cũng không thể bộc lộ nỗi ḷng, dù cuộc sống bắt buộc ta phải tiếp xúc hằng năm dài với họ. Ấy là những người mà ta mới gặp lần đầu, trong những kiếp luân hồi.

Giữa vợ chồng, cha con, anh em, đôi khi ta thấy có những sự bất ḥa, giá lạnh, mà người đời thường đổ cho bởi “t́nh khí xung khắc” mà ra. Nhưng thật ra sự xung khắc ấy, không chi khác hơn là “nghiệp quả” của một cái nhân nghiệt ngă gây ra trong một kiếp qua, và bây giờ, các linh hồn cứ gặp lại trong hiện tại, không phải để yêu thương, mà để thanh thỏa các mối bất ḥa cố cựu chưa dứt khoát.

Và nếu trong cuộc đời hiện tại, bằng những cố gắng, những nhượng bộ lẫn nhau, họ không làm cho các đóa hoa Khoan Dung, Từ Ái và Hy Sinh hé nở được trên bờ hố thẳm ly cách họ, th́ luật Nhân Quả tức là luật Công B́nh sẽ đặt họ lại, diện đối diện, trong một kiếp cận kề. . . V́ từ ngàn xưa, Đức Phật đă dạy ta: “Chỉ có t́nh thương mới dập tắt hận thù”.

CƠI THIÊN ĐÀNG 
mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Cơi Thiên Đàng ! Làm sao tôi có thể tả được cái mức độ hạnh phúc của linh hồn (sau cái chết lần thứ hai) khi nó từ bỏ thể vía, rời cơi Trung giới để siêu thăng lên cơi Thiên Đàng ! Linh hồn bừng tỉnh giữa một vùng ánh sáng vinh quang, đệm trong một khúc nhă nhạc êm ái tuyệt với. Linh hồn chỉ tiếc một điều, là không có những người mến yêu ở đó để cùng hưởng lạc phúc. Rồi bỗng nhiên, những người thân mến ấy hiện ra, vui vẻ kề cận. Bây giờ linh hồn ấy không c̣n thiếu ǵ nữa cả: những lạc thú tao nhă trí thức, nghệ thuật, tâm linh dần dần đến với anh, tùy anh là nhà bác học, nghệ sĩ hay nhà tu. Lạc thú ấy dồi dào, đầy đủ, linh hồn có thể hưởng được bao nhiêu th́ có bấy nhiêu.

Ở Thiên Đàng, linh hồn sẽ hưởng thành quả của những hành vi vị tha, của những tư tưởng cao đẹp, của những nguyện vọng tâm linh, của các cố gắng trí thức về nghệ thuật mà anh đă có ở cơi trần. Thành quả ấy dồi dào, phong phú vô cùng. Lẽ dĩ nhiên là ai đă gieo nhiều th́ hưởng nhiều, và đời sống hạnh phúc ấy có thể kéo dài từ thế kỷ nầy sang thế kỷ nọ.

Ai ai cũng có thể lên cơi Thiên Đàng, cho đến linh hồn non dại, vô minh, hung ác, miễn là ở cơi trần, họ có một vài tư tưởng cao thượng, một ít hành động nhân từ, nhưng, mùa gặt của họ nghèo nàn, ngắn ngủi. Tuy nhiên, hạnh phúc ấy sẽ lưu lại linh hồn những ấn tượng tốt đẹp để giúp nó hướng thượng kiếp sau.

Những bạn có óc thực tế và nhiệt thành muốn gấp rút hoàn thành cuộc tiến hóa có thể nghĩ rằng: linh hồn phí nhiều thời giờ ở trên cơi Thiên Đàng. Không đâu. Thiên Đàng có thể sánh với một pḥng thí nghiệm rộng lớn, nơi đó, các kinh nghiệm thanh cao đẹp đẽ được chuyển thành thiên tư, các cố gắng biến thành năng khiếu, các nguyện vọng trở nên ư chí. Nhờ sự biến chuyển đó, khi trở lại cơi trần, con người trở nên phong phú hơn với nhiều ư chí, năng khiếu và thiên tư. Như thế, thời gian ở Thiên Đàng rất cần thiết cho sự tiến hóa của linh hồn.

 ******

Trong các bạn, có người sẽ than rằng: Thế th́, chúng ta phải luôn luôn lo nghĩ đến sự tái sinh tại cơi trần. Các tôn giáo của chúng tôi cũng hứa với chúng tôi một đời sống hạnh phúc trên Thiên Đàng. Nhưng đời sống ấy chẳng phải hạn định trong một số ít hay nhiều thế kỷ mà thôi đâu, mà c̣n được kéo dài trong vô cùng, vĩnh cửu.

Bạn ơi ! bạn hăy tự hỏi: Làm sao một nguyên nhân hữu hạn có thể sanh ra một kết quả vô hạn được ? Như vậy là mâu thuẫn, tức là nghịch lại với tất cả luật thiên nhiên rồi !

Không đâu, không bao giờ có một hạnh phúc đời đời để ban thưởng một việc lành hữu hạn [15], cũng như không có sự đau khổ dằng dặc nơi địa ngục để trừng phạt một việc ác. Chỉ có một sự gặt hái hạnh phúc tṛn đầy, cân xứng với công phu đă cho ra mà thôi.

Nếu tin rằng sự trừng phạt phải đời đời, kiếp kiếp, dằng dặc chịu khổ đau nơi địa ngục, th́ quả đó là một sự ngờ vực to lớn, quái gở về ḷng Từ Ái của Đấng Sanh Hóa vạn vật vậy !

Và nếu bạn cứ khăng khăng cho rằng khoảng thời gian hạnh phúc trên Thiên Đàng kéo dài nhiều thế kỷ kia, hăy c̣n quá ngắn, th́ tôi xin nói thêm như vầy: Trên thế gian nầy, nếu bạn đă từng trải qua những ngày hạnh phúc tràn đầy trong t́nh thương chân chính hay t́nh cảm thanh cao, bạn có thể nào lường được hạnh phúc ấy bằng thời gian chăng ? Bạn há chẳng cảm thấy rằng: một giây phút hạnh phúc trên, bao trùm cả hàng vạn kỷ, rằng, thời giờ và những ngày vui sướng qua nhanh chóng trong khoảnh khắc đó sao ?

Ấy thế, khoảng thời gian dài để hưởng hạnh phúc trên Thiên Đàng trôi qua vừa nhanh chóng vừa bất tận !

Thiên Đàng gồm nhiều cảnh, trong ấy linh hồn tuần tự tiến lên. Nhưng, các chi tiết nầy không quan hệ đối với vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu đây, và như vậy chúng ta cũng sẽ không nói đến sự tan ră của thể trí sau khi linh hồn sinh hoạt một thời gian trên cơi Thượng giới, và sự trở lại cơi trần của linh hồn trong một kiếp lai sinh.

 ******

Tôi biết trong các bạn, có nhiều người cũng ước mong đề cập đến điều bí ẩn khó hiểu sau đây. Nó bao trùm đời sống của chúng ta, khiến cho các bạn không thể hiểu được tại sao trong khi các bạn đang sống trong một “h́nh thể Phàm Nhơn” tại cơi trần, lại có thể, đồng thời, sống trong “một h́nh thể tư tưởng”, tại Thiên Đàng, giữa những người thân yêu của bạn.

Làm sao một việc như thế lại có thể có được ? Làm sao cho tôi đây, người đang nói chuyện với các bạn, tôi có thể sống đầy ư thức tại cơi trần, mà không hay biết rằng, có một bạn thân khác của “chính tôi”, cũng đang cùng một lúc, có mặt tại cơi Thượng giới, bên cạnh một bạn hữu nầy hay một bạn hữu nọ ?

Đó là điều mà tôi sẽ cố gắng giải bày để các bạn nhận thức được.

Luận giải quá sơ lược về cơi Trung giới và Thượng giới, hay nói cách khác là, nơi cơi Luyện tội (Trung giới) và Thiên Đàng, tôi không tiện nói thêm cho các bạn biết rằng ở hai nơi đó “tư tưởng có quyền năng tạo thành h́nh thể”. Tại đó, có sẵn những khối chất khí đặc biệt tinh vi và dễ dàng uốn nắn, người ta gọi chúng là “tinh hoa tố”. Loại tinh hoa nầy luôn luôn sống động, đó là Chơn Thần bắt đầu “nhập thế”, nếu các bạn c̣n nhớ điểm nầy [16]. Và tinh hoa tố đó là vật liệu dùng để kiến trúc đủ thứ “h́nh thể tư tưởng”. Mỗi khi một tư tưởng lay chuyển, th́, một mớ tinh hoa tố tự cấu hợp thành h́nh thể một cách nhanh như chớp. H́nh thể nầy được tồn tại trong một thời gian dài hay ngắn tùy theo sức mạnh và sự bền dai nhiều hay ít của tư tưởng.

Vậy mà, khi một vong linh tại cơi Thiên Đàng gởi một tư tưởng mến thương sâu đậm, yêu dấu nồng nàn đến một người mà nó quư mến đang sống tại cơi trần, th́ vong linh ấy tạo được một h́nh ảnh đúng đắn của người bạn ấy, dù đó là một h́nh ảnh được “lư tưởng hóa” [17].

Đó là điểm thứ nhất cần ghi nhớ.

Và, sau đây là điểm thứ nh́. Như tôi đă nói: Con Người Thiêng Liêng (Chơn Ngă) gồm có một phần trí tuệ đơn thuần (Thượng Trí) và một phần tinh thần thanh cao hơn nữa (Bồ Đề Tâm). Chơn Nhơn thường trú ngụ tại từng trên của Thượng giới (Thượng Thiên) [18].

Tôi cũng có cho các bạn biết thêm rằng từ Thượng Thiên, Chơn Nhơn không thể trực tiếp ảnh hưởng đến Phàm Nhơn của Nó luân hồi nối tiếp, làm đại diện cho Nó tại cơi trần. Nhưng Nó phóng ra một tia của chính bản thể Nó, để linh hoạt Phàm Nhơn. Cái tia sáng ấy tạo thành Hạ Trí của Phàm Nhơn [19].

Giờ đây các bạn hăy ghi nhớ điều nầy: Các bạn hăy tưởng tượng nh́n thấy vị Chơn Nhơn cư ngụ tại cơi Thượng Thiên, trong h́nh dáng của một ngôi mặt trời nhỏ bé, đang tung rải những tia sáng của nó ra mỗi đường hướng. Một trong những tia ấy luồn vào Phàm Nhơn, khiến cho Phàm Nhơn linh hoạt được tại cơi trần.

Về mặt khác, khi một vong linh từ cơi Hạ Thiên gởi một tư tưởng thương yêu đến một bạn thân của nó, là một Phàm Nhơn đang sống tại cơi trần, th́ tư tưởng ấy tạo ra một “h́nh tư tưởng”, giống hệt Phàm Nhơn của người bạn thân ấy. Đồng thời, tư tưởng thương yêu lại tự di chuyển đến cơi Thượng Thiên để kích động vị Chơn Nhơn đă sản xuất ra Phàm Nhơn nọ. (Phàm Nhơn của người bạn dưới trần). Vị Chơn Nhơn bèn phóng ra một tia khác vào “h́nh tư tưởng”, khiến cho nó trở nên sống động và lâu tan.

Bây giờ các bạn đă hiểu cái h́nh tư tưởng vừa nói đó được thêm linh hoạt xiết bao, v́ lẽ nó tiếp nhận được sinh lực do cái tia xuất phát từ chính bản thể của Chơn Nhơn.

Và chính v́ vậy mà các bạn có thể tồn tại một cách hữu ư thức, chẳng những tại cơi trần mà c̣n luôn tại Thiên Đàng nữa. H́nh ảnh của bạn là một con người khác của “chính bạn” đó. Nó cũng là một ảo ảnh, y như Phàm Ngă của bạn, không hơn không kém, dù cho Phàm Ngă ấy tin chắc rằng, chỉ có nó là quan trọng hơn hết[20].

HẠNH PHÚC CÓ PHẢI LÀ ẢO GIÁC
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Tôi đă nói với bạn rằng: ảo ảnh luôn luôn tùy thuộc vận cụ mà trong đó tâm thức đang luân chuyển [21].

Khi tâm thức lưu chuyển trong thể xác th́ nó cho đời sống tại Trung giới là ảo ảnh. Khi nó tụ trong thể vía, th́ nó thương xót đời sống ảo ảnh trần gian. Nếu tâm thức hoạt động tại cơi Thượng giới, nó nhận thức ra tính cách hư ảo của đời sống ở trần gian và Trung giới. Và nó hữu lư, khi nó cảm nhận như thế, v́ nó gần sự Thực hơn tâm thức hồng trần hai bực.

Khi tâm thức càng tiến cao được bao nhiêu, th́ chúng ta càng được gần sự Thực bấy nhiêu.

Với những ai trong quư bạn cứ khư khư xem hạnh phúc trên cơi trên là ảo giác, tôi xin nói rằng: “Nếu không có cái gọi là ảo giác đó th́ Thiên Đàng chẳng là Thiên Đàng đâu”. Thiên Đàng phải phô bày lư tưởng của một niềm an lạc chí phúc, dồi dào nhất, hoàn toàn nhất. Như những phần trước tôi đă giải thích với quư bạn: “Cơi Thiên Đàng hay Thượng Thiên làm bằng chất khí tuyệt thanh bai, cực tinh vi. Sự rung động nơi ấy thật là nhẹ nhàng, không thể tưởng được với sự hiểu biết của giác quan thuộc khối óc hồng trần. Dĩ nhiên là, nơi ấy tuyệt đối những tư tưởng xấu xa, ô trược không thể tiến lên được. Và như thế, Thiên Đàng hẳn phải là thế giới của những bà mẹ hiền, những bà vợ tốt, tức là của những con người tinh thần, có những tư tưởng thanh cao sáng chói t́nh thương cao quư. Đời sống trên cơi Thượng giới (Thiên Đàng) vô cùng linh hoạt hơn đời sống tại cơi Trung giới và hồng trần. Và chất khí trên đó lại dễ nắn hơn ở các cơi dưới thấp. Nơi ấy, khi có một tí sự sống rung  động (một tư tưởng khởi động) là có sự thành h́nh ngay tức khắc. Và mỗi tư tưởng tốt đẹp, vị tha hiện lên là có ngay một h́nh tư tưởng sống mạnh mẽ và linh động. Do đó, mà những con người cao thượng khi ở thế gian đă từng sống một cuộc đời vong kỷ, vị tha, th́ khi thác về cơi Thiên Đàng, vẫn được an vui trong niềm hạnh phúc của lư tưởng vị tha tốt đẹp ấy. Họ vẫn được bao vây bởi những h́nh ảnh của những người mà ḿnh hằng thân mến khi c̣n tại thế.

Bạn sẽ bảo rằng: “Trên cơi cao ấy, người ta (người quá văng) có thể thấy và theo dơi các người thân yêu dưới trần thế, và như vậy, người ta có thể chăm nom họ như lúc c̣n sanh tiền !”

- Không phải thế đâu ! Giữa cơi Thiên Đàng và hồng trần, đại để không có sự liên lạc thật sự được, v́ chất khí tạo ra hai cơi ấy một thanh, một trược rất khác biệt nhau. Sự rung động thanh trược khác nhau của hai cơi cũng không thể cùng ứng đối với nhau được. Nhơn đó, nếu những tư tưởng hắc ám, sa đọa (của một đàn con côi mất mẹ) hay những tư tưởng chán nản, buồn rầu (của một ông chồng chết vợ đau khổ v́ đàn con ḿnh bị bà vợ kế ác nghiệt hành hạ) lên được tận cơi thanh cao, tức cơi Thiên Đàng, th́ lúc ấy, các bà mẹ, bà vợ hiền thục trên ấy sẽ phải đau khổ biết ngần nào ! Và nếu sự kiện trên có thực, th́ Thiên Đàng, cơi phúc tuyệt vời như tôi đă đề cập qua, theo quan niệm của Thông Thiên Học hẳn chẳng phải là cơi phúc nữa!

- Bạn cũng cần nên biết điều nầy, lời nói của thế gian không có năng lực diễn tả chính xác, rơ ràng sự dị biệt giữa hai cách sinh hoạt của tâm thức thế gian và Thượng giới (Thiên Đàng). V́ thế mà tôi không thể nói một cách rơ ràng những ǵ “thuần lư”, thuộc “cơi vô sắc tướng” (Thiên Đàng), bằng ngôn ngữ chật hẹp của cơi trần, một “cơi sắc tướng” và rất giới hạn.

Tuy nhiên, bạn nên tin chắc rằng, Luật Trời (Nhân Quả, Luân Hồi tức Luật Tiến Hóa, Luật Hy Sinh) luôn luôn tác động hết sức tốt lành, và với ḷng tin cậy chân thành, bạn cứ an ḷng cậy nhờ Thiên Luật, vào Đấng Thượng Đế Bác ái, chí công, Đấng Thượng Đế mà thật sự là Cha Sinh của muôn loài vạn vật, của trọn cả bầu vũ trụ, bạn cố gắng sống thuận ư Ngài, bạn cố nhẫn nại và trọn vẹn sống theo gương Ngài th́ bạn hẳn hiểu được điều mà bạn hằng muốn biết, điều mà hôm nay bạn chưa rơ. . .

HAI CON ĐƯỜNG 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Hỡi các anh, các chị, nếu các bạn chăm chỉ theo dơi tôi, th́ đến đây các bạn hiểu ít nhiều quan niệm của người Thông Thiên Học về sự đau khổ. Tôi đă cố gắng chứng minh rằng đau khổ luôn luôn là những kết quả của những “nhân” mà chúng ta đă tạo, và như thế, chính chúng ta tự ḿnh tạo số mệnh của ḿnh. Tôi đă cố gắng chứng minh rằng đau khổ có sự lợi ích và mục đích của nó, rằng nó rất cần cho sự tiến hóa và cuối cùng, khi con người tiến đến quả vị tiên thánh, th́ đương nhiên nó không c̣n nữa.

Trước khi chúng ta từ giă nhau, nếu quư bạn đă bớt sợ đau khổ, nếu quư bạn đă quen với nó ít nhiều, tôi sẽ tŕnh bày nó dưới một sắc thái khác, một sắc thái vinh quang mà các bạn sẽ rất kính mến. Trong chốc lát, chúng ta sẽ bước vào “con đường đau khồ” [22] mà tôi sẽ phác họa các giai đoạn. Bên con đường đau khổ ấy (cũng là con đường vinh quang) có một con đường khác hẹp hơn, ít dốc hơn, mà người ta gọi là “con đường thử thách”.

Đau khổ ! Thử thách ! Những danh từ có thể làm chúng ta chồn chơn, lùi bước. Vậy theo bạn, ai là người bằng ḷng bước chơn trên những con đường đó ? Ấy là những người dũng cảm, tận tụy, họ mong mỏi được hợp tác vào công nghiệp cứu thế vĩ đại, tuy họ biết sức lực họ c̣n kém cỏi. Họ nguyện tiến mau trên con đường đạo, tiến trong năm mười kiếp thay v́ cả ngàn kiếp như đa số nhân loại. Họ tiến mau như thế để có thể hợp tác với Thiên Cơ một cách hữu hiệu, để có thể hiến ḿnh trọn vẹn và giúp vào sự tiến hóa chung cho đến khi nào con người cuối cùng được giải thoát. Đó là những Đấng Cứu Thế: Đức Krishna, Đức Phật, là những vị cứu thế ở Đông phương, Đức Ky Tô, là vị cứu thế ở Tây phương. Đức Ky Tô đạt ngôi vị vinh diệu ấy không phải do cái chết của Ngài ở Thập tự giá, mà bởi trọn Kiếp Sống sau cùng, bởi các Kiếp Sống khác của Ngài đều hiến dâng cho nhân loại.

ĐỨC KY TÔ 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Đem đối chiếu bậc vĩ nhân siêu việt như Đức Ky Tô với các đấng siêu linh khác như Đức Krishna, Đức Phật Thích Ca, mà có lẽ, theo ư quư bạn, các Ngài không có ngôi thứ trên Thiên Đ́nh, như thế, tôi đă làm phật ư quư bạn, hay ít ra cũng làm quư bạn ngạc nhiên. . . ? Thật ra các Ngài cũng là sứ giả của Thượng Đế, con cái của Đức Cha trên Trời, huynh đệ của Đức Ky Tô [23]. Các Ngài sáng lập ra các tôn giáo lớn đă soi sáng và đưa đến Thượng Đế hằng triệu sinh linh. Các Ngài đă đem đến cho nhân loại Đông phương “đạo pháp thích hợp với họ”, cũng như Đức Ky Tô đă cho chúng ta, người Tây phương, những giáo lư mà chúng ta rất cần”.

Đức Ky Tô, vị Chơn sư phi phàm ấy chỉ đến với chúng ta từ 19 thế kỷ nay. Làm sao ta có thể nghĩ rằng Thượng Đế có thể bỏ rơi trong hắc ám và tội lỗi nhân loại lúc bấy giờ, v́, trước Ngài, đă từng có nhân loại trên địa cầu rồi ? Nghĩ như thế có phải chăng là hoài nghi sự Minh Tríết, T́nh Thương và sự Công Bằng của Ngài ?

Đức Ky Tô cũng tiến hóa như chúng ta. Như chúng ta, có lúc Ngài cũng vô minh và yếu đuối, chiến đấu và đau khổ, và, chỉ sau một cuộc hành tŕnh diệu vợi xuyên qua nhiều kiếp người, Ngài mới trở nên Đấng Vinh Quang mà chúng ta tôn thờ, Đấng sáng lập Thiên Chúa Giáo mà cho đến ngày nay, Ngài c̣n phải chăm nom. Ngài có bị hạ thấp, bị lăng nhục chăng, khi chúng ta cho rằng Ngài không phải là Đấng Cứu Thế duy nhất ? Sự Chí thiện, ḷng Từ bi của Ngài có mất đi phần nào không, nếu ta nghĩ rằng có những Đấng Cao Cả khác đă mở rộng ṿng tay như Ngài để cứu vớt nhân loại ?

TÔN GIÁO ĐẠI ĐỒNG
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Thật là buồn mà nói rằng, trong các tôn giáo, hồ như chẳng có tôn giáo nào cho ḿnh cao siêu hơn tất cả và khinh rẻ tôn giáo khác bằng Thiên Chúa Giáo của chúng ta. Chúng ta măi nghĩ rằng Thiên Chúa Giáo mới được Thượng Đế hộ tŕ, chấp nhận, rằng, chỉ có một ḿnh nó truyền dạy Chơn Lư, và chỉ có nó mới cứu rỗi nhân loại. V́ hiểu như thế, chúng ta không chịu học hỏi các tôn giáo bạn như Phật Giáo, Ấn Độ Giáo v. v. . .  Với một thiên kiến chấp nhất ấy, lẽ dĩ nhiên là đa số tín đồ Thiên Chúa Giáo, không chịu học hỏi các tôn giáo lớn thời xưa, để đối chiếu với tôn giáo của ḿnh, tôi muốn nói đến Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, những tôn giáo của Cổ Ai Cập, Hi Lạp v. v. . . chỉ riêng chấp nhận Do Thái Giáo, và quen thuộc với tôn giáo ấy mà thôi.

Sự thật th́, Thiên Chúa Giáo chỉ là một mặt của hột kim cương Chơn Lư, một nhánh trong nhiều nhánh của Tôn Giáo Gốc, Tôn Giáo Đại Đồng.

 ****** 

Tại sao có sự khinh rẻ ấy ? Các tín đồ Thiên Chúa Giáo há không thể tiếp tục phụng sự và thờ phượng Đức Ky Tô, sau khi nhập vào Tôn Giáo Đại Đồng ? Các tín đồ Cơ Đốc Giáo La Mă hay Hi Lạp, Tin Lành hay Tân Giáo, há không nói ḿnh là người của Thiên Chúa Giáo đó sao ? Người Thông Thiên Học chúng tôi cũng thế, trước hết chúng tôi là tín đồ của Tôn Giáo Đại Đồng (mà Thông Thiên Học cố chấn hưng), sau đó, chúng tôi mới là Phật tử hay tín đồ Thiên Chúa Giáo, Ấn Độ Giáo v. v. . .  tùy theo tôn giáo mà chúng tôi riêng thờ phượng. Đa số chúng tôi, vừa giữ tôn giáo của chúng tôi, vừa tuân thủ giáo lư Thông Thiên Học. Một huynh trưởng của chúng tôi nói: “Đối với chúng tôi, người Thông Thiên Học, chúng tôi cho rằng, mọi tôn giáo đều chơn chánh, không có tà giáo, v́ tà giáo là ǵ chứ ? Ấy chẳng qua là một lối riêng nh́n thấy Chơn lư của mỗi người. Và, dĩ nhiên là, cách nh́n đặc biệt riêng rẻ đó không thể nào giống nhau ! Đối với chúng tôi, quả thật có danh từ “Tôn Giáo” (viết hoa), theo ư nghĩa nguyên thỉ, duy nhất và tuyệt đối của nó, chứ không có tiếng “tôn giáo” (viết thường) với cái ư nghĩa cạn hẹp, riêng rẻ thường t́nh. V́ lẽ đó mà chúng tôi không bao giờ khuyên ai bỏ tôn giáo nầy theo tôn giáo nọ. Trái lại chúng tôi nói: “Nếu bạn là tín đồ Thiên Chúa Giáo, bạn hăy cố gắng là tín đồ Thiên Chúa Giáo duy linh và nhà Huyền bí học, tức là bạn hăy đi sâu vào tôn giáo của bạn để t́m nguyên lư, căn do, chứ đừng chịu đứng một chỗ bên mặt ngoài”. Đối với tín đồ tôn giáo khác, chúng tôi cũng nói như thế. Chúng tôi làm việc cho Phật Giáo với các Phật tử, cho Ấn Giáo với các tín đồ Ấn Giáo, cho Thiên Chúa Giáo với các con chiên Thiên Chúa v.v. . .

Theo chúng tôi các tôn giáo đều thiêng liêng, nên chúng tôi mong mỏi chúng phát triển nhiều hơn và trở nên cao đẹp hơn. Tóm lại là, làm sao cho các tôn giáo thừa nhận t́nh thương Thượng Đế và t́nh thương nhân loại để làm nền tảng chung[24].

Tư tưởng thanh kỳ nầy được diễn tả như sau trong quyển sách Thiên Chúa Giáo:

“Bạn hăy kính Giáo hội của bạn, hầu thấu triệt nó với bản sắc đại đồng của cái Tinh thần thuần khiết. . .

“Bạn hăy trung thành với biểu tượng bạn tôn thờ, nhưng ḷng kính mến và lối thực hành của bạn phải thấm nhuần tính cách đại đồng và Tinh thần thuần khiết. . .

“Bạn hăy thương yêu Thượng Đế và nhân loại một các chân thành, rồi bạn sẽ thấy không thể loại bỏ một tôn giáo hay một sự cúng kiến nào cả, v́ chính dưới những nghi thức khác nhau mà mọi người tôn thờ một đấng duy nhất Thượng Đế. Và t́nh thương thuần khiết bạch ấy sẽ biến cải các lối thờ phượng thành một sự tôn thờ chung và duy nhất, các tôn giáo riêng biệt thành một Tôn Giáo Đại Đồng . . .

“Hăy tôn thờ Tinh thần và Chân lư ở Thượng Đế rồi các sự chia rẽ tôn giáo tan biến trong t́nh thương. Bạn sẽ thấy các tôn giáo là những lối biểu lộ của một Tinh thần và và một Chân lư duy nhất. Bạn sẽ an nghỉ trong một linh điện ḥa đồng, nơi đó, ai ai cũng sẽ chiêm ngưỡng Đức Thượng Đế duy nhất mà Đức Ky Tô là vị Giáo chủ. Một tông đồ há chẳng nói: “Thượng Đế là T́nh thương và ai sống trong T́nh thương là sống trong Thượng Đế và Thượng Đế ngự ở trong ḷng người” [25].

Tôi xin trở lại ư nầy. Tại sao lại chỉ nh́n vào một tia sáng thay v́ ngước mắt nh́n lên Nguồn Sáng phát sinh ra tia ấy, Nguồn Sáng đó là Chân lư và là căn bản chung cho các tôn giáo ?

Một chân trời hiện ra sẽ huy hoàng xiết bao, nếu chúng ta tiến đến tận nguồn của Sự Sống; nếu chúng ta nh́n nhận tất cả tôn giáo lớn là những ngọn đuốc phát sinh từ một Ngọn Lửa thiêng và được chăm nom bởi một Đấng Chí Tôn duy nhất; nếu chúng ta ư thức rằng các Giáo chủ là những sứ giả, những người con của một Đấng Cha Lành phái đến trong các thế kỷ khác nhau để giáo hóa và phổ độ chúng sinh.

CUỘC HÀNH HƯƠNG ĐAU KHỔ VÀ CON ĐƯỜNG THỬ THÁCH      mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Tôi đă đi xa đề, xin quư bạn tha lỗi cho. Thật ra, đó cũng là điều rất cần để giúp chúng ta dứt khoát hẳn với mọi ư nghĩ không rơ ràng. Bây giờ chúng ta hăy trở lại cuộc hành hương đau khổ của chúng ta.

 ******

Quăng đầu của cuộc hành hương nầy là con đường thử thách dẫy đầy khó khăn nhưng vô cùng vinh diệu. Khi thí sinh bước chân vào, anh đă biết rơ những ǵ đang chờ đợi anh. Anh biết người ta sẽ đ̣i hỏi anh một sự cố gắng nhẫn nại liên tục trong các lănh vực trí thức, đạo đức và tâm linh. Và trên các phương diện nầy, anh cảm thấy ḿnh tầm thường, bé mọn và nghèo nàn.

Anh phải cố gắng nhiều để kiểm soát và tập trung tư tưởng, đồng thời chủ trị cái trí của anh. Đó là một điều không phải dễ. Cách đây 5000 năm, Arjuna nói với Krishna: “Hỡi Krishna, trí con lao chao, ồ ạt, chủ trị nó khó như chủ trị gió vậy.” (Bhavagad Gita)

Thí sinh c̣n phải chủ trị dục vọng và chiến thắng phàm nhơn. Anh phải trau luyện tánh t́nh, tập tận tụy, quên ḿnh và cố hành thiện v́ ḷng yêu mến điều lành, chớ không phải để người thán phục và cũng không phải để được tiến hóa cao hơn người.

“Con hăy tăng trưởng như đóa hoa tăng trưởng, vô t́nh nhưng nồng nàn khao khát để mở ḷng hoa ra không khí. Cũng bằng cách ấy, con nên thúc giục tâm hồn con khai mở trước đời sống vĩnh cửu. Nhưng con đừng ham tăng trưởng, mà hăy quư mến sự trường tồn, có thế, con tự ḿnh phát triển tất cả nét quang huy của tấm ḷng khiết bạch, thay v́ tự con làm cho con chai đi bởi ḷng say mê tư ngă.” (Ánh Sáng Trên Đường Đạo)

Chừng đó, anh sẽ gặp nhiều trở ngại v́ một linh hồn nguyện hiến dâng ḿnh cho nhân loại th́ các nỗi khó khăn, thử thách sẽ xảy ra liên tiếp. Đó là bước đầu của con đường đau khổ. Anh cam chịu v́ anh biết Ơn Trên đang dồn quả cho anh, để anh trả mau trong vài kiếp. Nhờ thế, gánh nặng sẽ vơi, và anh sẽ nhẹ tiến trên đường Đạo. Có thể, đôi khi anh thất bại, vấp ngă trước cám dỗ, có thể anh gặp những phút giây đen tối, nhưng anh quyết tiến nhờ sự gia hộ của các Đấng Cao Cả mà anh thành tâm phụng sự một khi linh hồn đă thoáng thấy ánh sáng thiêng liêng, nó không sao quên được. Khi nó đă ư thức được mục đích huy hoàng của nó, nó phấn khởi như có đôi cánh thần và sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh, dù là hy sinh tính mạng để phụng sự Thiên Cơ. Có lẽ đôi khi anh cũng bị vấp ngă v́ cám dỗ quá mạnh, hay v́ bản tánh yếu hèn, nhưng anh không quên mục đích của anh. Trong những giờ phút khó khăn, lư tưởng anh vẫn hiện ra huy hoàng trước mắt anh.

Sau đôi ba kiếp thử thách như thế, anh được xem như là xứng đáng để bước sang Con Đường Đau Khổ. Trên con đường nầy, anh gặp đủ thứ chướng ngại, nhưng lần lần sự Duy Nhất hiện ra ở ḷng anh, khiến tâm anh trở nên sáng suốt và an lạc. Anh cảm thấy một hài nhi thiêng liêng [26] tượng h́nh ở ḷng anh. Chừng đó anh sẽ tiếp xúc được với những Đấng mà bấy lâu anh tin tưởng và tôn thờ. Và, bàn tay trong bàn tay các Ngài, anh tiếp tục con đường vừa dốc vừa khó khăn. Anh sẽ gặp đủ thứ thử thách, đủ thứ đau khổ cứ măi gia tăng, nhưng anh cứ đương đầu với những cơn băo tố dập dồn. Trên Con Đường Thử Thách, anh nguyện trả trong vài kiếp tất cả nợ nần, đồng thời anh cũng phát triển được nhiều hạnh kiểm và quyền năng. Bước đường của anh khó khăn, nhưng anh thấy ḷng an tĩnh, phấn khởi nhờ bàn tay d́u dắt của Đức Thầy lúc nào cũng hiện diện bên anh. Như thế, một giai đoạn mới của Con Đường đă được vượt qua. Và đến một lúc nào đây, Con Đường trở nên tối tăm vô cùng ! Anh cảm thấy buồn bả, hết sức bơ vơ, cô lẻ. . . đến . . . bàn tay của Đức Thầy cũng mất hút. . . . ! Anh như bị bỏ rơi ! Nhưng anh cần tự ḿnh rèn luyện những đức tánh cao quư và gội rửa ḷng trần. Sự thật, Đức Thầy vẫn ở bên anh, và tập anh gánh chịu các tội lỗi và nhọc nhằn của nhân loại. Anh há không nguyện sẽ vác chiếc Thập tự giá nặng nề để trở thành một Đấng Cứu Thế đó sao ?

CÁC ĐẤNG CHƠN SƯ 
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Sau cùng, khi anh đến cuối con đường đau khổ, anh sẽ thấy một Thánh Điện mở cửa rộng để đón anh. Anh đă được giải thoát. Băo tố đă chấm dứt, anh không c̣n đau khổ nữa, v́ anh đă đạt quả vị siêu phàm, mà Đấng Siêu Phàm th́ không bao giờ đau khổ. Nhưng ở đây, anh chấp nhận một hy sinh cao cả hơn các loại hy sinh là: từ chối bước vào cơi an lạc đời đời, niềm chân phúc khôn tả của Bậc Giác Ngộ, đă hiệp nhất với Thượng Đế, để lưu lại cơi trần phụng sự thế nhân đau khổ.

“Người nào đă chiến thắng và nắm trong tay phần thưởng cuối cùng mà từ chối phần thưởng cao quư ấy v́ ḷng thương nhân loại, người ấy rèn được hạnh Từ Bỏ cao cả. Ấy là Đấng Cứu Thế (Tiếng Nói Vô Thinh).

Các bậc siêu nhân ấy, chúng tôi gọi là Chơn Sư. Hai vị trong các Ngài đă đứng ra thành lập Hội Thông Thiên Học.

B̀NH AN CHO NHỮNG TÂM HỒN ĐAU KHỔ
    mục lục đầu sách cuối sách chú thích

Và giờ đây, hỡi quư bạn, quư bạn nghĩ sao về các đau khổ của quư bạn ? Trước tương lai huy hoàng đang chờ đợi chúng ta, mục đích cao cả mà chúng ta chỉ có thể đạt được bằng sự từ bỏ và bền ḷng, các bạn há không nghĩ chúng ta nên tập chịu đựng và chấp nhận các đau khổ đến với chúng ta ? Các bạn há không nghĩ rằng chúng ta nên xem đau khổ như một sự giúp đỡ một bạn thân, và hăy tiếp đón nó như thế, không sợ hăi, không phản kháng, không nản ḷng ? Sao các bạn không nghĩ rằng: “Nếu các Đấng Cao Cả v́ ḷng thương nhân loại mà phải chịu đủ thứ gian lao, th́ chúng ta há không nên cố gắng chịu đựng những phiền năo mà chính chúng ta tự tạo ra, với tấm ḷng nhẫn nại triệt để ?

 ******

Hỡi bạn, bạn đang sống một cuộc đời túng thiếu, cơ cực, v́ trong một kiếp trước, có lẽ bạn đă quá ích kỷ, bạn có hiểu chăng: các đau khổ ấy phải được xem như là những phương tiện vừa giúp bạn trả quả, vừa giúp bạn mở mang ? Bạn có lao lực hằng ngày, bạn mới phát triển được nghị lực kiên tŕ, bền chí. Đó là những đức hạnh mà cuộc đời xa hoa dễ dăi không sao rèn luyện cho bạn. Và, nếu bạn chịu đựng bài học ấy một cách can đảm, bạn sẽ không học lại nó ở kiếp sau.

 ******

C̣n anh, anh đă một một người bạn quư. Và chị, một bà mẹ đáng thương, mới vừa mất một đứa con thân yêu. Các bạn nên biết rằng, các người ấy, ở một tiền kiếp xa xôi, có thể đă sống bên các bạn, nhưng bị bỏ bê, hành hạ ! Ngày nay, luật Nhân Quả cướp mất họ đi, dùng họ như những phương tiện trả vay. Các bạn đừng khóc nữa ! Các bạn há không biết rằng các sợi dây yêu mến chân thành sẽ không bao giờ đoạn tuyệt. Chúng nó sẽ tiếp nối từ đời nầy qua đời khác sao ? Các bạn sẽ gặp lại những người yêu quư ấy sau khi chết và sẽ sống bên cạnh nhau măi măi. Bạn c̣n biết rằng, ban đêm bạn có thể gặp lại họ, nếu trước khi ngủ, bạn thành tâm nghĩ đến họ. Bạn cũng biết rằng, chỉ tùy ở bạn, ở sự cố gắng của bạn mà một ngày kia, bạn sẽ được liên lạc với họ một cách ư thức. V́ ḷng thương họ, các bạn không nên đau khổ. Cầu xin cho đau khổ bạn được lắng dịu !

 ******

Hỡi anh, anh đang đau đớn nhiều trong chứng bệnh trầm kha. Anh nằm trên giường bệnh, dai dẳng từ tháng nầy sang năm nọ. Anh hăy xem đó là nghiệp lực của Nhân Quả, v́ anh chỉ gặt bằng thể xác những ǵ anh đă gieo trong một kiếp sống ở hồng trần. Bây giờ, nếu anh vui vẻ chịu đựng, anh sẽ tạo những quả tốt cho anh. Nhưng dù sao, có một điều an ủi lớn là: anh c̣n có thể giúp ích. Đành rằng anh không đi đứng được, chớ anh c̣n có thể chuyển những tư tưởng cho người khác, và cũng thế, anh cũng có thể phụng sự nhân loại.

  ******

Nầy em gái đáng thương, em bị người yêu phản bội, em hăy tin rằng sự phản bội ấy giúp em trả một số nợ lớn. Em đă vay người ta một sự đau khổ, nay em có dịp trả, th́ em hăy trả một cách can đảm, chớ đừng trách móc thở than. Từ đây, dứt khoát nợ nần, em giải thoát được cái ma ảnh của quá khứ ! Hăy xem người làm khổ em như một dụng cụ của số mệnh. Chỉ có thế thôi ! Đừng bao giờ oán ghét, mà phải tha thứ, yêu thương. Với tấm ḷng ấy, em sẽ thấy nỗi đau khổ của em sẽ nhẹ nhàng khôn xiết !

Phần bạn, bạn bị người ta nói xấu, nói hành bạn. Nhưng biết đâu bạn đă không có lần cư xử như thế với người khác, nếu không trong kiếp nầy, trong một quá khứ gần đây, th́ ít ra, cũng trong một tiền kiếp ? Biết đâu đó không là cái quả của một hạt nhân mà bạn đă gieo ? Vậy, bạn ơi ! bạn nên vui vẻ nhận thức luật công b́nh “gieo gặt” ấy để an ḷng lănh cái quả không đẹp kia và sửa đổi tâm hồn thay v́  than thân trách phận.

 ******

C̣n anh, anh muốn có một danh vọng lẫy lừng, nhưng lại bị giam hăm trong một cuộc đời chật hẹp, đó cũng là nghiệp quả nữa ! Anh sẽ thấy dễ dàng điều nầy, nếu anh chịu khó t́m hiểu tinh tường tánh t́nh và thị hiếu của anh. Anh nên tự an ủi đi ! Đó chẳng qua chỉ là những thất bại dành cho một kiếp thôi ! Anh thất vọng, nhưng anh đừng buồn, kiếp nầy anh thất bại, nhưng c̣n những kiếp sau. Một ngày xa xôi nào kia, anh sẽ hoạch đắc các điều anh mong muốn bây giờ, nhưng có lẽ chừng ấy anh sẽ không c̣n thiết tha với chúng nữa. Trong lúc chờ đợi, anh nên chấp nhận cuộc sống khiêm nhường và ẩn dật bây giờ như một phương tiện để làm nẩy nở nơi anh hương vị thâm trầm của đức diệu hiền, của ḷng kiên nhẫn và khiêm từ.

 ******

Chị, chị đang sống trong cảnh quạnh hiu, đơn độc. Thay v́ âu sầu, chị nên hồi tưởng cái quá khứ xa xưa với bao nhiêu người quây quần thương mến chị, vui vẻ bên chị, nhưng chị lại khinh rẻ họ. V́ chị, bao nhiêu quả tim đă rướm máu, bây giờ đến lượt quả tim đơn côi của chị lại khát khao t́nh luyến ái. Chị hỡi ! hăy can đảm chịu đựng gánh nặng của chị, đồng thời nên nghĩ đến gia đ́nh nhân loại đang cần chị. Biết bao đau khổ cần được tát vơi, biết bao nỗi ḷng cần được an ủi ! Ở gác cùng, ngơ tối, trong bệnh viện, nơi ngục tù, biết bao người ngước mắt mong mỏi một ít t́nh thương. Chị hăy nghĩ đến họ, hăy thương mến họ, t́m đến với họ, rồi hoa t́nh thương sẽ nở ở ḷng chị, ngào ngạt mùi hương trong cuộc sống hiện tiền và vươn măi về xa . . .

 ******

Anh, anh đang buồn phiền v́ không thực hiện được các nguyện vọng tâm linh cao đẹp. Anh tự thấy ḿnh ươn hèn với các dục vọng thấp kém. Tại sao thế ? Là v́ ở các kiếp qua, chắc chắn anh đă sống những quăng đời thác loạn, ích kỷ. Chúng tạo cho anh những thể nặng trược (thân, tâm, trí) chỉ biết rung động với những thị dục đê hèn. Nhưng anh đừng buồn và đừng cho anh là những hạ thể ấy. Anh chớ quên anh là Chơn Ngă. Đừng đồng hóa với chúng, mà anh hăy chiến đấu với chúng. Mỗi cố gắng dù nhỏ nhen của anh là một bước tiến đến t́nh trạng tinh thần và đạo đức mà anh mong muốn. Anh có thể vấp ngă, nhưng anh hăy đứng lên và cương quyết cho đến mục đích cao đẹp, đến Chơn Ngă. Linh hồn siêu việt ấy chính là Con Người Thật của anh đó !

 ******

Chị, chị đang bồn chồn, khắc khoải với tôn giáo của chị. Chị hoài nghi và không c̣n sức cầu nguyện được. . . ! Chị t́m chân lư khắp nơi, và chị thất vọng liên tiếp. Chị cảm thấy khao khát một Chân lư cao đẹp. Chị nên biết rằng ở các tiền kiếp, chị đă có một lần thấy được ánh sáng của ngọn đuốc thiêng ấy. Nó lưu ở ḷng chị một hương vị khôn phai, dù trong tâm thức hồng trần chị chưa từng biết nó. Cũng có thể ngọn đuốc thiêng ấy được đưa đến chị, nhưng chị không buồn lưu ư hoặc chị đă khinh miệt nó, cho nên bây giờ, chị phải cực nhọc t́m kiếm nhiều. Nhưng chị đừng chán nản. Chị hăy tiếp tục gơ cửa, rồi cửa sẽ mở. Nếu chị sưu tầm các tôn giáo, các triết lư mới và cũ mà không thấy ḷng thỏa măn, chị hăy đến với chúng tôi. Thông Thiên Học là sự kết hợp, là căn bản các tôn giáo, nó giải thích một cách rơ ràng nguồn gốc, số mệnh và mục đích của con người, mà chắc chắn chị sẽ t́m được niềm tin và sự an tĩnh ở tâm hồn.

 ******

Anh, anh đang đau khổ nhiều trước cái nỗi khổ đau của nhân loại. Biết bao nhiêu buồn phiền mà anh không thể an ủi, biết bao nhiêu thương khó mà anh không thể hàn gắn, biết bao khổ đau mà anh không tát cạn ! Nhưng bây giờ anh nên biết rằng: không có điều chi bất công, rằng tai ương và đau khổ rất cần cho sự tiến hóa của linh hồn, rằng các kinh nghiệm chua cay và đau khổ có hiệu năng rèn luyện con người. Anh biết: bánh xe Thiên Luật chuyển động không ngừng để đem lại cho mọi người cái quả thật của hành động tốt hay xấu của ḿnh. Anh biết rằng: điều dữ vốn tạm thời và chỉ điều lành mới trường cửu, và nó sẽ chiến thắng không sai chạy, rằng: đó là luật Tiến Hóa, nó sẽ đưa con người đến sự Giải Thoát và An Lạc. Anh cũng trải qua ḷ đau khổ, ưu phiền ấy, nhờ vậy mà anh thành một người suy tư và đạo đức như hiện nay. Vậy, anh không nên lo âu trước các đau khổ dập dồn đến cho nhân loại. Ḷng anh bây giờ lai láng t́nh thương và cũng b́nh an khôn tả. Anh chỉ c̣n biết ca tụng Thượng Đế và sự Công Bằng Vĩnh Cửu.

Các bạn ơi ! Xin hăy hướng tâm hồn lên măi chốn thanh cao, hăy cố hết sức ḿnh sống theo gương Chúa . . . !

H Ế T

mục lục đầu sách cuối sách chú thích


  HOME sách   TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH  thIỀN HỌC  BÀI VỞ   THƠ  ẢNH TẾT 2006 ENGLISH BOOKS MAGAZINES 

 


Chú Thích

mục lục đầu sách cuối sách chú thích

[1] Theo T.T.H. mỗi người trên thế gian, trải qua nhiều kiếp sống là một khách hành hương, dù muốn dù không, đều đi lần đến Bến Giác Ngộ, để đạt được quả vị của một Đấng Trọn Lành .

[2] Hội Thông Thiên Học phải trung thành với mục đích ḿnh; nên cần dành tài nguyên của ḿnh vào sự giúp đỡ tâm linh, v́ ánh sáng phá tan vô minh, mà vô minh là nguồn gốc của tội lỗi, làm thế, Hội cố diệt ngay gốc rễ của đau khổ. Và khi nào nhựa của cây độc khô đi th́ đau khổ vật chất sẽ chấm dứt. Trái lại, nếu Hội lo cung cấp vật thực cho người nghèo đói, Hội sẽ đi ra ngoài mục đích của ḿnh và làm những việc của Hội Từ Thiện khác. Công việc nầy tuy rất hữu ích, nhưng nó chỉ nhằm cắt xén nhánh khô, thay v́ tát vơi nguồn khổ.

[3] Nhứt thời v́ thời hạn tiến hóa nầy là thời hạn của chu kỳ tiến hóa của vũ trụ.

[4] Xin đọc quyển KARMA của bà A. Besant và chương sách luận về Nhơn Quả trong quyển “Sagesse antique” cũng của bà, một thuyết minh toàn bích của TTH.

[5] Thượng Đế của Do Thái Giáo

[6] Có người nói điều nầy có tính cách vụ lợi, nó nhằm vào sự “mưu cầu lợi ích cá nhân”. Thật ra, giáo lư TTH dạy “hăy làm việc lành v́ việc lành”, chớ không v́ được ban thưởng hay ngợi khen. Nhưng sự tạo quả tốt có thể khuyến khích các linh hồn non dại chưa diệt trừ được thị dục cá nhân.

[7] Tâm thức vật chất hay tâm thức hồng trần là tác động của Chơn Nhơn trong khối óc. Tác động rất hạn chế v́ khối óc chỉ có thể nhận một phần nhỏ các rung động của Chơn Nhơn mà thôi. Xin đọc phần nói về các thể của con người.

[8] Sông nầy tên nó có nghĩa là “quên”. Theo tín ngưỡng Tây phưong uống nước sông nầy; con người quên hết quá khứ. Đây ch́ là một ám dụ. (LDG)

[9] Nguyện vọng vô ngă vị tha.

[10] Nhăn thông theo T.T.H. không có nghĩa là sự thấy b́nh thường và thường không vững chắc của thầy bói, những nhà thôi miên, đồng bóng v. v. . . Nó là triệu chứng của một sự phát triển quan trọng của tâm linh hay của các thể tinh vi trong con người.

[11] Xem quyển “Con người và các thể” (L’homme et ses corps) của bà A. Besant.

[12] Xem quyển “Quy tắc nhật hành” (La Théosophie pratiquée Journellement)

[13] Xem quyển Ánh Sáng Trên Đường Đạo của bà M. Collin.

[14] Xem quyển Các Đấng Cứu Trợ Vô H́nh của C. W. Leadbeater.

[15] Ở đây tôi chỉ đề cập đến tất cả linh hồn tự nguyện đi theo con đường tiến hóa của nhân loại. (v́ c̣n có đường tiến hóa của các Thiên thần)

[16] Xin xem lại chương nói về “Thượng Đế ẩn tàng”.

[17] V́ lẽ chất khí cơi Thượng giới vô cùng tinh vi hơn chất khí hồng trần, nên chi tiết nầy sẽ hiểu được rất dễ dàng.

[18] Cơi Thượng giới có hai từng cảnh: Thượng Thiên và Hạ Thiên.

[19] Phàm Nhơn gồm: Hạ Trí tức cái trí óc hồng trần của con người (óc xác thịt), cái vía tức cảm thể (thể của t́nh cảm), và cái xác hữu h́nh.

[20] H́nh như không cần ích để nói thêm rằng: Chơn Nhơn càng tiến hóa nhiều chừng nào, th́ h́nh tư tưởng của nó cho sinh lực vào càng linh hoạt và hữu ư thức chừng nấy.

[21] Danh từ Tâm Thức dùng ở đây có nghĩa là “trạng thái tinh thần”, chớ không phải tiếng nói bên trong (tức lương tâm mà luân lư thường dùng) do những kinh nghiệm của chúng ta lần hồi un đúc trong đời sống hằng ngày.

[22] Xem quyển Con Đường của Người đệ tử và Tiến lên Thánh điện của bà A. Besant.

[23] Đức Krishna dạy: Ta là Con Đường Đạo. Hăy nhớ đến Ta, phụng sự Ta, thờ phượng Ta, rồi người sẽ đến với Ta. Kẻ nào nương tựa vào Ta để t́m đường giải thoát, người ấy đă biết Thượng Đế, Chơn lư và luật Nhân Quả (Baghavad Gita). Đức Phật dạy: Pháp của Ta là Pháp từ bi đối với mọi chúng sinh. Kẻ nào nương tựa trong Như Lai và Đạo Pháp, người ấy tỏ ra minh triết hoàn toàn. Đó là sự ẩn náu chắc chắn, tối thượng đưa con người ra khỏi mọi phiền năo (Dhammapada). Các lời dạy trên nương tựa lời của Chúa: “Ta là Con Đường, Chơn Lư và Sự Sống” và “các người hăy đến với Ta. Các người đă mệt nhọc, vất vả, ta sẽ cho các người sự b́nh an”.

[24] Xem bài diễn thuyết nhan đề “Le but de la société théosophique” (Mục đích của Hội TTH) của bà A. Besant trong tạp lục các bài diễn thuyết căn bản năm 1900 (Recueil des conférences de 1900).

[25] Xem quyển “Le règne de l’Esprit” nhà xuất bản Leymarie, 42 Rue Saint Jacques. Quyển nầy, theo tôi là sự thuyết minh tốt đẹp nhất về Thiên Chúa Giáo về tánh cách đại đồng của tôn giáo, một bài học cao thượng về đức khoan dung, được tŕnh bày dưới một h́nh thức thần bí mà trong ấy thi tứ cũng ḥa hợp với tư tưởng thâm trầm.

[26] Đây là cuộc Điểm đạo lần thứ nhất. Nó không liên quan chi với cuộc điểm đạo mà văn chương thông thường đề cập đến một cách sơ sài. Mà là sự bừng dậy của Đấng Hài Nhi Ky Tô, được gọi trong giới Thông Thiên Học là “Nguyên lư Bồ Đề” (Principe christique ou bouddhique). Khi thí sinh đă phát triển đầy đủ, th́ cửa Huyền môn sẽ mở, v́ vị nầy, lúc bấy giờ, đă đến “Tŕnh độ hoàn toàn siêu thoát của Đức Ky Tô”.
 

mục lục đầu sách cuối sách chú thích
 


  HOME sách   TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH  thIỀN HỌC  BÀI VỞ   THƠ  ẢNH TẾT 2006 ENGLISH BOOKS MAGAZINES